Wednesday, January 27, 2016

Truyện trinh thử

Tôi dùng quyển "Truyện trinh thử" của nhà xuất-bản Tân-Việt (sáng lập năm 1937), tại 235 Phan thanh Giản Sai-gòn (quyển này in theo giấy phép số 126/T.X.B. của bộ Thông-Tin Nam-Phần năm 1954). Quyển này do Trần triều xử-sĩ Hồ-huyền-Qui biên soạn và Ưu-thiên Bùi-Kỷ hiệu-đính.
Khảo luận truyện trinh thử

1. Sự-tích trong truyện.

Con chuột bạch góa chồng nuôi một đàn con thơ, ở nhà ông Hồ Huyền-Qui là một ẩn-sĩ về cuối đời Trần, một hôm vì đi kiếm mồi bị chó đuổi, chạy vào một cái hang ở góc vườn nhà bên láng giềng, nhà ấy là nhà thủ-tướng Hồ Quí-ly. Trong hang này, vốn có một đôi chuột, hôm ấy chuột cái đi vắng, chuột đực một mình ở nhà, chợt thấy chuột bạch chạy vào, hỏi rõ căn do, bèn cố quyến-dỗ cho kỳ được. Nào là kể những cảnh vất-vả mẹ góa con côi, nào là tả những nỗi lạnh lùng chăn đơn gối chiếc, nào là tán-dương sự phú-quí vinh-hoa của nhà thủ-tướng, nào là cười-diễu sự bần-hàn cùng-quẫn của kẻ thư-sinh, sau cùng lại mạt-sát những người trọng luân-lý, chuộng tiết nghĩa ở trên đời, đều là những người chỉ biết chuộng hư danh mà không bổ-ích cho sự thực chút nào. Song chuột bạch khăng khăng cự-tuyệt, hễ chuột đực viện ra được một lý, thì chuột bạch lại dẫn được một lý khác để bác đi. Khi giải nghĩa thế nào là luân-lý, khi lập-luận thế nào là luân-lý, khi lập-luận thế nào là tiết-nghĩa, khi chê cuộc phú-quí là áng phù-vân, khi khen thanh-cao là nền chính-khí, khi công-kích bọn triêu Tần mộ Sở là tuồng hèn-hạ đáng khinh, sau cùng lại nói nếu bị áp-bách quá, thì quyết theo nghĩa "sát thân thành nhân" Để bảo-toàn lấy hai chữ trinh-tiết. Chuột đực thấy chuột bạch lời-lẽ nghiêm-chỉnh và khảng-khái, đành phải kiếm lời từ tạ, để cho chuột bạch bằng lòng. Đang khi ấy, chuột cái chợt ở đâu về, thấy chuột đực đang nói chuyện với chuột bạch, ngờ rằng hai bên có tình-ý gì, tỏ ra vẻ bất-bình lắm. Chuột bạch bèn thuật lại đầu đuôi, vì sự tị nạn, bất-đắc-dĩ mà không tránh khỏi được nỗi hiềm-nghi, lời lẽ ôn-tồn uyển-chuyển, trước là để biện-bạch tâm-sự của mình; sau là muốn gỡ cho chuột đực, để giữ sự êm thắm trong chỗ láng giềng, rồi từ-biệt thung-dung trở về. Nhưng sau đó, chuột cái không tin lời chuột bạch là thật, không những ray-rứt chuột đực, kể-lể con cà con kê, lại còn đến tận nhà của chuột bạch để rêu-rao tiếng nọ tiếng kia. Đang khi ấy, một con mèo thình-lình ở đâu nhảy đến, chuột cái hoảng hốt chạy ngã xuống ao. Hồ tiên-sinh trông thấy lấy làm ái-ngại, bèn đuổi mèo đi, vớt chuột cái lên, lấy lẽ phải chăng, giảng-giải đạo cư-xử ở trong gia-đình cho chuột cái nghe, và kể rõ đầu đuôi cho chuột cái biết chuột bạch vốn một niềm chính-đính. Vì Hồ-sinh là người hiểu biết tiếng các loài vật, cũng như Công Dã-Tràng đời xưa, đã từng vì tính hiếu-kỳ, đứng nghe ở cửa hang chuột đực, từ đầu đến cuối, cho nên biết rõ hết cả. Xong rồi, Hồ tiên-sinh về thư-phòng chép ra truyện này, đặt tên là Trinh thử, nghĩa là con chuột trinh-tiết.

2. Tiểu-sử của tác-gỉa.

Các bản in cũ, ngoài bìa quyển truyện Trinh thử đều đề là "Trần triều xử-sĩ Hồ Huyền-Qui tiên-sinh soạn", Nay xét trong nhân-vật sử đời Trần, không thấy chỗ nào nói đến truyện Hồ tiên-sinh. Trong các mục Kinh-tịch chí, văn-tịch chí của ông Lê Quí-Đôn và Phan Huy-Chú không thấy kê tên cuốn truyện Trinh thử và cũng không nói gì đến ông Hồ Huyền-Qui.
Tác-giả truyện Trinh thử dùng được nhiều tiếng phương-ngôn ngạn-ngữ của nước nhà và ông Hồ Huyền-Qui tất là một bậc ẩn-dật rất có đức-vọng ở thời bấy giờ, mà bình nhật Hồ Quí-Ly vẫn phải tôn-sùng kính-trọng như hàng tôn-trưởng, cho nên trong cuốn truyện Trinh thử, ông Hồ Huyền-Qui mới dám công-nhiên mượn câu văn để ngụ ý trào-phúng. Thiết-tưởng đó là những lời ức-đoán, song cũng có phần đúng. Nay xem ở trong truyện có những câu sau này :
Ngụ miền Lộc-đỗng cảnh thanh,
Có Hồ-sinh vốn hiển danh đương thì.
Chẳng màng đuổi thỏ săn hươu,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
thì biết tác-giả không phải là một người bão-phụ tầm thường vậy. Tiếc rằng sách vở đời Trần, trải qua cuộc binh-hỏa giặc Minh, tàn-phá gần hết, đến nay sưu-tầm rất khó, mong rằng các nhà lưu tâm đến văn-sử của nước nhà ra công thu-thập lấy nhiều tài-liệu để bổ-chính thêm vào.
3. Cách kết-cấu trong truyện.

Cuốn truyện có thể chia làm ba đoạn :
Đoạn thứ nhất: Chuột đực và chuột bạch thuyết lý với nhau, chuột đực dỗ chuột bạch mười một lần, chuột bạch bác lại mười một lần.
Đoạn thứ nhì: Chuột cái về nhà sinh sự với chuột đực và chuột bạch, rồi bị mèo đuổi, lại được Hồ tiên-sinh vớt lên và vâng nghe những lời dẫn-dụ.
Đoạn thứ ba: là đoạn kết-luận, cho thói gian tà là đáng chê, lòng chính-trực là đáng kính và ngụ ý khuyên đời.
Cả cuốn đặt theo lối lục-bát, cộng là 848 câu.
4. Văn-pháp và tâm-lý trong truyện.

a) về cách đặt câu, ta nhận thấy chữ thứ nhì câu lục, có mấy chỗ dùng tiếng trắc, như câu :
Chàng nghĩ đàn đã êm tai,
Tin nhạn, thư cá, gửi đi.
Lối này về sau các nhà văn cho là khổ-độc, ít khi đặt câu như thế, trừ phi khi nào câu lục đặt theo lối tiểu đối, nghĩa là ba tiếng trước đối với ba tiếng sau và ở giữa câu lục có thể chấm ngắt ra làm đôi được (chấm đậu) như câu " trên gác phượng, dưới sân rồng " hay là câu "khi tỉnh rượu, lúc tàn canh ", thì chữ thứ nhì ở câu lục mới có thể dùng chữ trắc, đó là một chỗ khác nhau về cách đặt câu ở từng thời-đại một, tuy là thuộc về mặt hình-thức, song cũng có thể giúp cho nhà khảo-cứu về văn-sử được một vài phần.
b) về cách dùng chữ, ta nhận thấy trong truyện có nhiều tiếng cổ, như tiếng "khứng" tiếng "tách" tiếng "chưng" tiếng "thửa", đến bây giờ ít dùng, và có người lại cho là tiếng nôm-na quá, đó cũng là những tài-liệu rất cần về cổ học cho những bạn ham đọc quốc-văn, mà thứ nhất là quốc-văn cũ. Trong truyện cũng có dùng chữ Hán, nhưng dùng toàn chữ thông thường, bởi thế ta có thể nhận rằng kho quốc-âm ta sở-dĩ được phong-phú như ngày nay, tất là đã phải chứa góp bao nhiêu thời-kỳ, lúc đầu còn dùng những chữ phổ-thông, rồi dần dần dùng đến những chữ khó, trình-độ tiến-hóa ở trong quốc-văn đã qua được một bậc, thì lại bước lên một bậc; như cuốn truyện Trinh thử này, mới là những bước đầu dùng chữ Hán ở trong quốc-văn vậy.
c) Về cách viết văn thì thật là giản-dị và minh-bạch, chất-phác và hồn-hậu, tả cảnh một cách tự-nhiên, tả tình một cách lâm-ly thống-thiết..Như đoạn tả thầy đồ nghèo :
Khó-khăn nhà xác như vờ,
Nước sông, gạo chợ, củi mua củi đồng.
Thịt chẳng có, cá thì không,
Chốn nằm chẳng có màn mùng che thân.
Gà về bới nát cỏ sân,
Mèo buồn lại chạy kiếm ăn cõi ngoài.
Chó nằm hè gậm vỏ khoai,
Lợn ngồi dũi đất ngậm hơi gầy gò.
Lại như đoạn tả người góa bụa:

Rắp toan nát ngọc chìm châu,
Lầu cao chẳng quản, giếng sâu chẳng từ.
Bận vì một lũ con thơ,
Mong khi cả lớn bấy giờ sẽ hay.
Ví đeo tính nước lòng mây,
Thì chi chim Việt đỗ rày cành nam.
Mấy thu nước mắt chan cơm,
Lưng canh đĩa muối, quải đơm thường lề.

Còn về cách trào-phúng thì thật là êm-dịu mà cay-chua, mát-mẻ mà đau-xót; xem như chỗ chuột đực so-sánh loài vật với loài người:

"Thử coi lấy đấy mà suy,
Người thiêng hơn vật nào nghì ở đâu.
Người thời đắc thế-gian giàu,
Còn cầu thích chí còn cầu hư danh.
Huống chi vật mọn quần-sinh,
Giữ sao cho trọn tiết-trinh mà bì ."

Xưa nay chỉ người lại khen chê người, đây lại bởi miệng con chuột nói ra, thật là một kỳ-tứ của văn-gia.
Không những thế, từ-lý lại rất là sung-thiệm, như chỗ chuột đực kể cả một đoạn tình sử để dỗ chuột bạch, kể từ Lã-hậu, Hồ-phi, Điêu-thuyền, Vũ-tắc-Thiên, Trác Văn-Quân, cho đến truyện Lưu Nguyễn, Bạch Viên, muốn cho là dầu phàm-trần, dầu thần-tiên, cũng đều vướng-víu bận-bịu ở trong tình-trường. Rồi lại cực-lực bài-xích cả đến bài văn luận thử cho những phường bạch-diện thư-sinh toàn là nói lém. Có thể cho là một tay hùng-biện
Lại như chỗ chuột bạch bác lại kể từ lúc mới đặt lễ lệ-bì, cho đến lúc có giáo-hóa, có chính-trị, thế nào là nghĩa tạo-đoan, thế nào là nền phong-hóa, lại mạt-sát đến cả những bọn tham danh vụ lợi, biến tiết khuất thân, thật là từ trực, lý trang, có thể dùng làm bài học luân-lý ở đời được.
Chỗ đặc-sắc nhất ở trong truyện này là dùng được nhiều câu phương-ngôn và tục-ngữ, như những câu:

Kình nghê vui thú kình nghê,
Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.
Thà ăn cáy ngáy o o,
Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.

Không những tức cảnh sinh tình, vừa thiết-thực vừa có nhiều thanh-thú, mà lại chọn được những câu toàn có tên con giống để làm cho câu văn màu-mẽ thêm lên.
b) Xem suốt cả cuốn văn này, ta nhận thấy tác-giả muốn mượn chuyện con chuột đực và con chột bạch để vạch rõ hai con đường đời, là đường tà và đường chính. Hai con đường này không bao giờ hợp làm một được, nhưng vẫn có lối thông sang với nhau. Những người đi trên hai con đường này có lúc bên nọ đông hơn bên kia, cũng có người trọn đời theo một con đường, cũng có người đang ở con đường này đi sang con đường nọ. Vì thế mà cõi đời lúc nào cũng có người tà, người chính, lúc nào cũng có người đang chính hóa ra tà, đang tà hóa ra chính. Song xét cho kỹ, tà và chính bởi đâu mà sinh ra. Tà và chính chẳng qua là hai cái danh hiệu tương-đối. Nếu hẳn là không có tà, thì chính cũng không cần phải gọi tên lên nữa. Vì những nỗi thiên-tư của nhân-dục người ta mới phạm vào đường tà: kỳ thực, người ta bẩm sinh ra có phải ai cũng là bất-chính đâu. Dầu ít hay nhiều, người ta ai cũng có lương-tâm, tức là cái mầm, cái rễ của điều thiện, mà thiện tức là chính vậy. Vì thế cổ-nhân mới lấy bốn chữ tu ố và trắc ẩn, để xét về tâm-tính người. Ai cũng có lòng tu ố và trắc ẩn, tất là ai cũng có lòng lành, giữ được lòng ấy mà khoáng-sung mãi ra thì trở nên hiền-nhân quân-tử, còn những kẻ gian-ác tiểu-nhân, bẩm-nhiên vẫn có lòng lành, chỉ vì bị vật-dục chướng-tế mà đến nỗi lạc lối lầm đường. Tà và chính không phải chỉ quan-hệ về tư-cách cá-nhân, mà lại có thể làm hại hay làm lợi cho loài người rất to, vì xưa nay trăm điều tội-ác làm nhiễu-loạn, trong từ gia-đình, ngoài đến tộc đảng, hương-ấp, quận-quốc, rồi cả đến thế-giới, đều bởi một chữ tà cả. Vả chăng đời nào chính thịnh tất là đời thịnh, đời nào chính suy tất là đời suy, bởi thế ai có con mắt nhận rõ về cái hiểm-tượng của loài người, hoặc về hiện-tại, hoặc về tương-lai, đều phải lấy hai điều phù chính ức tà là hai vấn-đề rất quan-trọng. Tác-giả sinh ở cuối Trần, vào hồi khí-diễm họ Hồ đang mạnh, mà cả triều đều a-phụ một hùa, nhận thấy thói đời xu viêm phụ nhiệt thái quá, có khi cả những người có học-thức cũng không biết lễ-nghĩa liêm-sỉ là gì, mới động lòng trung-phẫn mà viết ra truyện này, nói con chuột đực, tức là ám-chỉ những đảng Quí-Ly, nói con chuột bạch tức ám-chỉ những bậc trung-thần lúc bấy giờ.
Song than ôi! ở đời người chính vẫn còn và kẻ tà không bao giờ hết; hết bọn Hồ Quý-Ly này đến bọn Quý-Ly khác, cuốn truyện trinh thử này có phải chỉ vì đời Trần mới xuất-hiện ra đời đâu. Ta có thể nhận ở đoạn kết-luận có những câu sau này :
Nào ngờ vi-vật chính-chuyên,
Rằng chê, mà cũng đáng khen lệ gì.
Cũng hay trinh-tiết giữ nghì,
Vật còn dường ấy huống chi là người.
Ai hay đen bạc biến rời,
Dẫu người chẳng biết nhưng trời đã hay.
Những người mặt dạn mày dày,
So xem ắt cũng chẳng tày muông kia.

Nếu ngẫm-nghĩ cho kỹ, thì ta nên liệt cuốn văn này vào tập văn ngụ-ngôn, và nên công-nhận cuốn văn này rất có giá-trị cả về văn-chương và về luân-lý vậy. Sau khi đọc đi đọc lại nhiều lần, tôi xin lạm đề vào cuốn truyện Trinh thử mấy câu để giải thêm cái thâm-ý của tác-giả:

Khen thay chuột bạch chính-chuyên,
Ngán thay đen trắng đảo-điên trò đời,
Gặp cơn dâu bể đổi dời,
Đã thiêng hơn vật là người tính sao ?
Ngẫm xem đất thấp trời cao,
Thế nào là trọc, thế nào là thanh ?
Quyển vàng dỡ trước đèn xanh,
Lưu phương, lưu xú rành rành còn ghi.
Thế mới biết
Thói tà-phong tan chóng,
Mùi chính-khí thơm lâu,
Người mẫn thế động lòng đau-xót
Văn ngụ-ngôn giãi ý cao sâu.

Trách ai hắc bạch thay lòng, vì nấm lợi, mồ danh mà lẩn quất;
Để khách thanh-cao ngứa mắt, nghĩ tình đời, thói tục lại âu-sầu.
Ngán thay chiếc mặt phong trần, sóng vùi-dập cũng thừa một kiếp;
Khéo bỡn-cợt cái mồm nguyệt đán, lời mỉa-mai để lại ngàn thâu.
Bùi Ưu Thiên

Truyện trinh thử

Chuột đực và chuột bạch lý thuyết nhau

Vừa năm Long-khánh đời Trần,
Muôn phương triều-cống mười phân thái-bình.
Ngụ miền Lộc-đỗng cảnh thanh,
Là Hồ-sinh vốn thiện danh đang thì.
Nhiều bề cách-vật trí-tri,
Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.
Kinh-thành nhân thủa ra chơi,
Lý-lê thủ-tướng gần nơi ngụ nhà.
Canh ba thánh-thót đồng-hồ,
Lạ nhà chưa ngủ hồ-đồ xiết bao.
Bỗng nghe bên cỗi bích-đào,
Tiếng con muông sủa bào-hao dậy-dàng.
Chẳng là chuột bạch bên tường,
Cong đuôi mà chạy vội-vàng hãi kinh.
Cửa hang sẵn ở góc thành,
Chạy ngang vào đấy ẩn mình một khi.
Mất mồi muông lại chạy đi,
Trong hang dường tiếng nam-nhi hỏi rằng:
"Uẩy ai quen thuộc chưa tường !
Đêm khuya đương đột vì chưng cớ nào ?"
Hồ-sinh thấy sự lạ sao,
Đến bên tường, ghé mắt vào dòm chơi.
Thấy con chuột đực nằm dài,
Lời ăn tiếng nói như người chưa khôn.
Đương khi nói ngọt, nói ngon,
Bây gìờ Chuột-bạch còn run như cầy.
Một giây tỉnh lại mới hay :
Vì chưng lỡ bước biết đây chốn nào.
Tới lui khôn biết làm sao,
Khác nào như thể cáy vào hang cua.
Dám bày nông nỗi trình thưa,
Rằng: "Tôi nhà cũng quanh-co miền này.
Quá chân lạc lối tới đây,
Chẳng may bỗng gặp muông-cầy bất nhân.
Phúc sao mà cũng mau chân,
Chạy vào lại được gửi thân chốn này.
Rộng cho nương náu ở đây,
Được qua nạn ấy ơn dày dám vong."
Lời ăn tiếng nói thong-dong,
Chàng nghe cũng động tấm lòng nước mây.
Rằng: "Sao cả quyết tới đây,
Nào chồng con ở đâu, nay làm gì ?
Một mình khuya-khoắt ra đi,
Dường như giống vạc, cớ gì ăn đêm ?
Hay là nhắn cá, gửi chim,
Đêm xuân đón gió đi tìm mùi hương ?
Rằng ta rộng-rãi lòng thương,
Phỏng như gặp kẻ phũ-phàng thì sao."
Nàng nghe chàng nói thấp cao,
Nỗi mình mới kể tiêu-hao xa gần:
"Thiếp nay ở mãi Đông-lân,
Vì cơ thương-cẩu lang-quân tếch ngàn.
Mối lòng khôn xiết thở-than,
Thương chồng lại xót một đàn con thơ.
Rồng-rồng theo nạ sớm trưa,
Của đâu cho được dư thừa miếng ăn.
Pha-phôi chẳng quản nhọc-nhằn,
Chân le chân vịt nào phân đêm ngày.
Nghe quan thủ-tướng bên này,
Cửa nhà tráng lệ, của dày bằng non.
Muốn ăn hét phải đào giun,
Pha bờ xông bụi nào còn biết e.
Đêm hôm cũng dấn mình đi,
Sang đây kiếm ít đem về làm lưng.
Ai ngờ gặp đứa gió trăng,
Cho nên khuất nẻo lạc chừng khốn thay !"
Chàng nghe nông-nỗi giãi-bày,
Quyết lòng cầm-sắt một hai dỗ-dành.
Rằng: "Nàng giải hết chân tình,
Thương thay phận gái một mình long-đong.
Đã hay trong đạo vợ chồng,
Nghĩa sâu tình nặng há lòng chẳng thương.
Kinh quyền đôi lẽ là thường,
Được nơi tựa ngọc nương vàng thì thôi.
Chẳng lo mẹ góa con côi,
Sớm khuya loan phượng no đôi dường nào.
Chẳng lo liễu cợt hoa chào,
Bướm gìn ong giữ làm sao cho tuyền.
Vả nàng là gái thuyền-quyên,
Phỏng khi gặp kẻ vô duyên khôn dè.
Ví mà dốc tấm lòng quì,
Giữ sao cho được trọn bề hướng dương."
Nàng nghe ăn nói sỗ-sàng,
Muôn sầu tầm-tã, hai hàng chứa chan.
Cúi đầu thưa nói khoan-khoan :
"Thiếp như phận liễu gặp cơn gió đoài.
Đã thương mới dám ngỏ lời,
Nhớ trong thanh sử hôm mai ghi lòng.
Chữ rằng tòng nhất nhi chung
Gái hiền thờ chỉ một chồng chẳng hai.
Cương-thường đạo cả há chơi,
Một niềm hằng giữ, mấy lời đinh-ninh.
Vả nay bóng đã xế mành,
Dám đâu còn lại gieo mình nữa nao.
Mặc ai ong-bướm xôn-xao,
Mười phần cũng chẳng chuyển-dao một phần.
Hạ qua dám ước lại xuân,
Dễ hầu gà luộc mấy lần nữa sao ?
Phận đành cho ả họ Tào,
Mong sân hòe được thanh-tao là mừng.
Bây giờ sẩy bước lỡ chừng,
Tôi đây đã đội ơn chưng lòng chàng.
Đoái tương thân-phận lỡ-làng,
Dạy đường phương-tiện lòng càng cám ơn.
Tóc tơ giải hết nguồn cơn,
Quyết liều chịu tốt thờn-bơn một bề.
Vu qui núi chỉ non thề,
Tấc lòng đá tạc vàng ghi dám rời.
Ở đời kiên-ngạnh với đời,
Kẻo e oanh-yến những lời khen chê !
Chàng rằng: "Nàng vẫn chấp-mê,
Chẳng hay lo trước ắt thì lụy sau.
Hãy suy cho thấu cơ-mầu,
Trong khi tụy-hoán dễ hầu một ai.
Chữ rằng: 'xuân bất tái lai',
Một ngày là mấy sớm mai hỡi nàng !
Tới lui đôi lẽ cho tường,
Tính bề xử biến hơn đường kiên trinh.
Kết làm phu-phụ chi tình,
Chẳng lo thuyền bách lênh-đênh giữa nguồn.
Lòng xuân tưởng đến cũng buồn,
Chẳng nghe câu ví phương-ngôn thường lề:
'Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sồng-sộc nó thì theo sau'.
Ngựa qua cửa sổ bao lâu,
Kiếp toan kiếm chốn bán sầu mua vui.
Hoa tàn nhị rữa thì thôi,
Bấy giờ ai kẻ còn lời tóc tơ.
Một mình giữ đống con thơ,
Dễ ai lo-lắng sớm trưa với nàng.
Có khi biến, có khi thường,
Suy điều cùng chiếu cùng giường vầy vui.
Song song như đũa có đôi,
ấm no cùng thoả, ngọt-bùi cùng ăn.
Bằng khi vò-võ nửa chăn,
Canh khuya trằn-trọc băn-khoăn vui gì.
Được chăng một tiếng tiết-nghì,
Bắc đồng cân thử xem bề nào hơn.
Xưa nay mấy kẻ hồng -nhan,
Gan vàng dạ ngọc cơ-hàn được đâu.
Như người phú-các thư-lâu,
Lòng son dạ sắt mình đâu dám bì !"
Nàng rằng: "Phận gái vụng-về,
Đắn-đo chút cũng thấu bề phải chăng.
Vợ chồng đạo cả lẽ hằng,
Tạo-đoan lẽ ấy há rằng phải chơi.
Kể từ thủa mới thiên khai,
Nằm hang ở nội chưa ai biết gì.
Cũng còn có lễ lệ-bì,
Chê loài cẩu-hợp răn bề dâm-bôn.
Phu-thê phong-hóa chi nguyên,
Sự vong như thể sự tồn kẻo quê.
Trời đâu phụ kẻ tiết-nghì,
Lân-kinh, Mao-giản tạc ghi còn truyền.
Đời xưa mấy gái tiết hiền,
Chẳng nên giống nọ, thì nên giống này.
Mấy người tính nước, lòng mây,
Sớm đưa gã Lý, tối vầy chàng Trương.
Sử xanh còn chép rõ-ràng,
Lòng này đâu dám ra tuồng như xưa.
Kẻ chồng còn đó trơ trơ,
Cùng người khác đã đợi-chờ tình chung.
Kẻ thời mới khuất mặt chồng,
Chưa xanh ngọn cỏ, cải dong, biến nghì.
Những loài ấy kể làm chi,
Rành-rành bia miệng còn ghi đến rày."
Chàng nghe lại nói lời này:
"Nàng tuy biết một chưa hay biết mười.
Đã là tai mắt ở đời,
Cứ mình, chớ bắt-chước người vụ danh.
Ở trong thế-sự vẫn thanh,
Hễ mà miễn được ích mình thời thôi.
Ví dù bắt chước như ai,
Nói màu trinh-tiết, ở loài bôn-ba.
Hán thời Lã-hậu ai qua,
Sớm khuya cửa tía, vào ra nhà vàng.
Từ khi khuất mặt Hán-hoàng,
Mà lòng tư-túi với chàng Tự-Cơ.
Hồ-dương nọ chẳng vừa,
Cớ gì mà lại toan thờ Tống-công.
Kìa như Vũ-hậu cũng nồng,
Mày ngài được sánh bệ rồng mấy phen.
Vua Đường thoắt mới xe tiên,
Rủ rèm trong đã có nguyền riêng tây.
Họ Trương đôi gã đẹp thay,
Hứa Tam-tư lại chuyền tay mận đào.
Điêu-Thuyền há chính-chuyên nào,
Khi ra Lã-Bố khi vào Đổng-công.
Gặp ai thời nấy là chồng,
Cõi đời đâu đấy đều cùng cười chê.
Thử coi lấy đấy mà suy,
Người thiêng hơn vật nào nghì ở đâu.
Người thời đắc thế sang giàu,
Còn cầu thích ý còn cầu hưu danh.
Huống chi vật mọn quần sinh,
Giữ sao vẹn chữ tiết-trinh mà bì."
Gót đầu nàng lặng ngồi nghe,
Lâu lâu lại ngoảnh mặt đi thở dài.
Chàng nghĩ đàn đã êm tai.
Kể đường lợi-hại nói chơi xa gần.
Rằng: "Thương nàng chửa yên thân,
Ở nơi đình chủ đông lân bây giờ.
Khó-khăn nhà xác như vờ,
Nước sông gạo chợ, củi mua củi đồng.
Thịt chẳng có, cá thời không,
Chốn nằm chẳng có màn-mùng che thân.
Gà về bới nát cỏ sân,
Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài.
Chó nằm hè gậm vỏ khoai,
Lợn ngồi dũi đất ngậm hơi gầy-gò.
Vật nuôi còn chửa được no,
Của đâu thừa-thãi để cho đến nàng.
Vả hay tiếc của giữ-giàng,
Giang-san một nắm lại càng dấu-dung.
Vắt chày ra nước ròng ròng,
Miếng ăn đè cột chớ hòng mon-men.
Hứng tay dưới, vắt tay trên,
Rán sành ra mỡ bon-chen từng điều.
Treo cổ chó, buộc cổ mèo,
Bình dưa lọ muối chắt-chiu nom dòm.
Vặt đầu cá, vá đầu tôm,
Liệu thưng bữa sớm bữa hôm ít nhiều.
Hạt rơi hạt rụng bao nhiêu,
Chậu bồn úp lại, ai đào chẳng ra.
Thấy nàng lòng dạ xót-xa,
Châu chan sầu-tủi nghĩ hòa thương cho.
Anh nay nhờ phận ấm no,
Tổ-nhân thiên-táng, huyệt do mối đùn.
Hợi long nhập thủ chuyển khôn,
Bao nhiêu hổ thủy cũng tuôn nhập đoài.
Rày chen vượng tướng hào tài,
Đông phương tị ngọ mấy đời đến nay.
Vả xem cây lộc tốt thay,
Quí-nhân phù-trợ tài này làm nên.
Lại xem tiền-định chẳng hèn,
Mười thầy cũng nói như in một lời.
Số tử-vi đã giãi-bày,
Tham-lang thủ mệnh ắt rày vượng thay.
Vậy nên gặp cửa người đây,
Ngôi cao nhất phẩm, lộc dày thiên chung.
Tòa ngang dãy dọc trùng trùng,
Tả lâu hoa tạ, hữu cung ngọc đường.
Của thời núi bạc non vàng,
Thóc Chu, lúa Hán kho-tàng xiết đâu.
Thạch Sùng tắc lưỡi lắc đầu,
Nhân-sinh rất mực hòa giàu hòa sang.
Thức gì thức chẳng sẵn-sàng,
Giàu lòng ăn-ở nghênh-ngang một mình.
Vả nhà lắm kẻ hiền-lành,
Tụng kinh chẳng nỡ sát sinh loài gì.
Khi vui khúc-khích đầu hè,
Dẫu rằng: gia-chủ chẳng hề dễ-dui.
Ngẫm thân được chốn an vui,
Hiềm vì một chút số sui muộn-màn.
Muốn cho vẹn nghĩa Tấn Tần,
Tìm phương phụ-hậu ân-cần những lo.
Đã từng xem quẻ bói rùa,
Còn toan bói hạc xem cho mới đành.
Nghe rằng Già-pháp thần linh,
Quyết lòng cầu tự đinh ninh đến chùa.
Trong nhà hắc hổ trấn phù,
Sinh con sinh cái nuôi cho dễ-dàng.
Tìm thấy Biển-Thước lập phương,
Mã-đề, qui-bản, sà-sàng, lộc-nhung.
Nhân-sâm, liên-nhục, mật ong,
Pha cao hổ-cốt ban-long luyện hoàn.
Bổ trong ngũ nội đã an,
Vợ chồng lục-vị, thập-toàn uống chung.
Trong lòng còn nghĩ chưa xong,
Rắp tìm một kẻ thiên-phòng chưa ai.
To đầu vú, cả giái tai,
Dày nơi ngư-vĩ, cao nơi ngọa-tàm.
Biết đâu như thế mà tìm,
Nhờ tay nguyệt-lão khéo đem kết nguyền.
Hôm qua máy mắt cho liền,
Nhện sa trước mặt báo tin ngoài thềm.
Bẻ chân gà mới so xem,
Vững con, tươi cái, ngoài đun quá nồi.
Cho hay duyên-kiếp bởi trời,
Nghiệm xem báo ứng rạch-ròi chẳng sai,
Hôm nay mẹ nó đi chơi,
Phỏng chừng cũng đến có đôi ba ngày.
Mà nàng lạc lối tới đây,
Vả coi hình tướng cũng tày nàng Oanh.
Khác loài tước bộ xà hành,
Lại xem phụ tưởng kiên-trinh ai bì.
Muốn nên một chút nghĩa chi,
Chẳng hay nàng có khứng vì cùng chăng ?
Đưa duyên nhờ gió gác Đằng,
Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.
Sau toan Cách cựu Đỉnh tân,
Lại vầy, lại hợp cho nhuần sớm khuya.
Nọ là núi chỉ non thề,
Bất kỳ nên nghĩa tương kỳ mới hay.
Đem con sang ở bên này,
Phòng khi ấm lạnh đỡ thay cho mình.
Nơi ăn ở chốn ở chung-chinh,
Chẳng lo khó nhọc cũng đành ấm no !"
Nàng nghe chàng nói nhỏ to,
Bây giờ mới kể sự Hồ Quí-Ly:
"Làm người mang tính hồ-nghi,
Thấy người cốt-ngạnh chẳng vì chẳng yêu.
Vẫy-vùng ếch giếng tự kiêu,
Tham-lam chẳng khác Lý-miêu đời Đường.
Bệ rồng gác phượng tấc gang,
Quen lòng khuyển mã toan đường dong thân.
Nỡ làm đố quốc hại dân,
Những phần ích-kỷ nào phần ích ai.
Rồi ra động đất chuyển trời,
Bấy giờ có lẽ đứng ngồi làm thinh
Cá ao lệ nữa cháy thành,
Cũng nhiều cấp phải lánh mình cho hay.
Sao bằng đình-chủ thiếp nay,
Ba gian oa-xá tháng ngày tiêu-dao.
Chẳng lo đuổi thỏ săn hươu,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Kình-nghê vui thú kình-nghê,
Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.
Xem loài bán thỏ buôn hùm,
Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò.
Thà ăn cáy ngáy o o,
Còn hơn ngay-ngáy ăn bò làm chi.
Chớ quen bán chó mua dê,
Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng.
Sá chi chiều ấy như không,
Xác ve luống chịu tiếng trong cõi đời.
Gặp sao hay vậy, bao nài,
Cớ chi mà phải nghe ai bây giờ.
Chàng rằng: "Hãy được nương nhờ,
Bao giờ biến-cải bấy giờ sẽ hay.
Chừa khi đến nỗi cháy mày,
Vội chi mà bỏ chốn này đi đâu.
Mặc khi báo ứng nhiệm-mầu,
Quý-Ly dù có về sau chẳng tuyền.
Cưỡi rồng ta đã băng nguyền,
Ứng diềm hùng hủy vầy đoàn gái trai.
Chước nào ước được như lời,
Cũng đành muôn kiếp ngàn đời chẳng quên."
Nàng rằng: "Lời dạy quá nên,
Song trong lòng nọ đá vàng dám nguôi.
Tuy rằng nương-náu ở đời,
Dường ve gầy-gục, dường giơi võ-vàng.
Những lo trọn đạo thờ chồng,
Chồng sao thiếp vậy, kẻo càng xấu nhau.
Hầu mong nát ngọc trầm châu,
Lầu cao chẳng quản giếng sâu chẳng từ.
Bận vì một lũ con thơ,
Mong khi cả lớn bấy giờ sẽ hay.
Ví đeo tính nước lòng mây,
Chí còn chim Việt đỗ rày cành nam.
Mấy thu nước mắt chan cơm,
Lưng canh đĩa muối quải đơm thường lề.
Bởi phân làm thập nhị chi,
Trong kinh ghi dạy Thử-bì còn gương.
Dám đâu lỗi đạo cương-thường,
Nghĩa phu-phụ nỡ dám đường bội vong.
Thấy câu phu xướng phụ tòng,
Ghi lời tiên-thánh, dặn lòng đinh-ninh.
Há còn kén cá chọn canh,
Cơm nem đã trải tay chanh đã từng.
Ơn chàng thương kẻ lỡ chừng,
Xin đừng dạy tiếng gió trăng nữa rày."
Nghe lời chàng mới chau mày,
Nghĩ rằng tiết ngọc khó lay được nào.
Dỗ-dành không biết chước sao,
Vẫn là hờ-hững làm cao với mình.
Lại bày lời khác ướm tình,
Để xem lòng gái tiết-trinh kia là;
"Rày nhân bướm được gần hoa,
Thuyền ngư-ông tới doành mà chẳng nhưng.
Chàng Lưu từ sánh ả Hằng.,
Bởi chưng gặp-gỡ há rằng rắp-rinh.
Bạch-viên xưa kết Tôn-sinh,
Chẳng vì dan-díu, bỏ kinh tòng quyền.
Cầm lành dù chẳng nối huyền,
Nghe trong tình-ý còn nên tiếng gì.
Bá-Nha đã gặp Tử-Kỳ.,
Bảo-sơn ai nỡ trở về tay không."
Nghe lời chàng mới ngán xong,
Rằng sao quân-tử ra lòng sài-lang.
Qui dâm. ghi lại còn gương,
Trong kinh giới-sắc sao chàng chẳng răn.
Tràng-khanh tư ả Văn-quân.,
Tống-sinh dùng gái chủ-nhân chẳng vì..
Chàng sao chưa tát sông mê,
Xui ai cải tiết biến nghì sao đang.
Ví lòng thiếp chẳng đá vàng,
Thời danh-tiếng ấy nữa chàng về đâu ?"
Chàng nghe thấy nói gật đầu,
Rằng: "Anh là kẻ bất cầu lợi-danh.
Chớ tin bạch-diện thư-sinh,
Một văn luận thử. mà khinh giá này.
Xiết bao bướm lũ ong bầy,
Chẳng quen khoét vách, chẳng hay leo tường.
Dám nào thiết ngọc thâu hương,
Gìn trong danh-tiết lánh đường phiền hoa.
Ví dù đem thói dâm tà,
Mày loan tóc phượng vào ra hiếm gì.
Tin chim thư cá gửi đi,
Cũng nhiều nơi rắp nơi vì riêng tây.
Đáp tai làm mặt chẳng hay,
Những lời hoa-nguyệt xưa nay chưa hề.
Thấy nàng gái ở có nghì,
So xem khác giá nữ-nhi thời này.
Ước nên chút nghĩa nước mây,
Chẳng mê gì sắc bởi say vì tình,
Chúa xuân dẫu có đành-hanh,
Đến vườn cũng bẻ một cành cho cam.
Rồi ra đôi ngả bắc nam,
Dẫu lòng thu tưởng xuân tầm được chăng.
Tình xuân ví chẳng đãi-đằng,
Cũng đà mang tiếng răng răng bề ngoài.
Dứt lời nàng mới giãi-bày :
"Những điều mặt dạn mày dày khó coi.
Vườn xuân chàng sẵn có nơi,
Nguyệt-hoa sao nỡ ép nài như ai.
Bây giờ rừng mặt vách tai,
Việc trong mới rắp kẻ ngoài đã hay.
Vầng trăng đã ngả về tây,
Để cho thiếp trở về rày với con.
Đường trường trở cách nước non,
Lũ hài tưởng nó hãy còn thơ-ngây.
Nể lời quanh-quất mãi đây,
Hoặc người về đó lời này tiếng kia.
Lại càng dại dáng nga-mi,
Trăm năm danh-tiết xướng tùy sao đang.
Ví xem tang-bộc thói thường,
Xưa nay dạ sắt gan vàng như không."
Biết rằng nàng chẳng chuyển lòng,
Bấy giờ chàng mới nói sòng họa may :
"Vốn người chính thất nhà này,
Trâm-anh lịnh tộc xưa nay vẫn là.
Đàn-bà ấy mới đàn-bà,
Ngọt-ngào có một, sai ngoa chưa từng.
Chìu chồng khuya sớm nỏ-nang,
Phải chăng chẳng dám cạy răng một lời.
Ra vào bặt tiếng ngậm hơi,
Một mình săn-sóc hôm mai nhọc-nhằn.
Muốn cho được kẻ đỡ đần,
Quan-quan bảo điểu muôn phần những mong.
Chẳng như kẻ bắc người đông,
Ghen-tuông vì nỗi chồng chung nồng-nàn.
Cát leo cù-mộc rắp toan,
Xích-thằng xui khéo tạo-đoan một niềm.
Được nàng làm chị làm em,
Cùng ăn, cùng ở chẳng hiềm giận chi.
Nàng rằng: "Chàng dạy thế thì,
Phụ-nhân đố-kỵ xưa kia còn lời,
Phương ngôn câu ví để đời,
Nhường cơm nhường áo dễ ai nhường chồng ?
Hiếm chi trong chốn non sông,
Thiên-hương quốc sắc như bông hoa đèn.
Sá chi nửa cánh hoa tàn,
Tình kia ý nọ bàn-hoàn nữa chi.
Thiên cao mà lại thính ti,
Trên đầu chẳng nghĩ còn thì có ai.
Cố lòng ép trúc nài mai,
Mượn dao thiếp quyết một bài cho xong."
Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,
Bát-trân chàng mấy giải lòng cho qua.
Rằng: "Nàng may lại tới nhà,
Tiễn đưa một tiệc gọi là cố-tri.
Dẫu rằng dưa muối chớ nề,
Còn thừa nàng phải đưa về cho con.
Gọi là của khác nước non,
Đưa ra mọi thức miếng ngon mỹ-hào.
Nem lân, chả phượng, yến sào,
Đàn con chưa dễ biết bao mùi này."
Trình rằng: "Nhà thiếp xưa nay,
Ngày nào cũng phải như ngày thanh-minh.
Vả trong cương tỉnh phong thanh,
Giang-sơn một giải triều-đình tri danh.
Mở-mang trời cũng có mình,
Lẽ nào dám để thường tình cười chê.
Xin thôi cho thiếp trở về,
Ơn chàng non núi để thì đền sau."
Rằng :"Bây giờ chửa thấy đâu,
Chẳng là rồi đến mai sau tích gì.
Cho hay rằng thói nữ-nhi,
Biết chăng chỉ có một bề mà thôi."
- "Chàng sao khéo nói nên lời,
Hoa kia nguyệt nọ ra người phải ru ?"
Bấy giờ trong dạ oán-thù,
Lặng ngồi chàng mới nghĩ cho rạch-ròi :
Như ta cứu nạn cho rồi,
Cũng nên ơn nặng muôn đời chớ sao.
Thế mà nhiều nỗi ước-ao,
Thấy nào trả nghĩa thấy nào trả ân.
Khôn-ngoan rất mực hồng-quần,
Tại bình mà nói dối dần cũng xuôi.
Nghĩ thương thân-phận lạc-loài,
Chồng con nào có biết ai hay là.
Trông người ra cách phong-hoa,
Thế mà những thói dâm-tà thời không.
Hay buồn lý bắc lân đông,
Cho nơi cốt-cách, mà lòng chẳng yêu.
Nay ta nói đã đến điều,
Chẳng lay tiết ngọc, chẳng xiêu lòng vàng.
Tính rằng khuyên-dỗ lấy nàng,
Đỡ khi chim cá, tiện đường chung-tư.
Nghĩ mình là kẻ văn-thư,
Đầu đưôi nghĩ lại mà dơ-dáng đời.
Thôi thì thôi cũng chịu thôi,
Kiếm đường chữa thẹn mấy lời cho qua :
"Thiềm cung bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.
Những lời ban tối nỉ-non,
Thấy nàng có dạ sắt-son thử tình.
Trăng hoa coi những làm thinh,
Có trời hẳn biết cho mình mà thôi.
Ví dù đây cũng như ai,
Ép tình cá nước phải nài-nẫm chi.
Nàng hay nói quái nói kỳ,
Xưa nay âm thịnh dương suy thường tình.
Khen cho một dạ kiên trinh,
Dẫu rằng nghiêng nước nghiêng thành dễ đâu.
Xin đừng để tiếng cho nhau,
Cành hoa còn giữ được màu tại ta."
Thưa rằng: "Thân-phận đàn-bà,
Trông ơn đã được khỏi qua nạn rồi.
Đức dày đành trả muôn đời,
Nghe lời thiếp phải liệu lời kêu ca.
Ơn dày trả nghĩa trăng hoa,
Lại là nghiệp-chướng lại là trái duyên.
Xin chàng nghĩ lại chớ phiền,
Đừng hồ-nghi nữa thiếp xin trở về."
Bấy giờ sắp-sửa ra đi,
Vợ chàng lo-lắng việc chi đã về.
Thấy chàng đưa tiễn đề huề,
Ngâm thơ mà giải lòng quê kẻo nồng.

Thơ rằng:

"Non sông cách trở vững ba thu,
Giấc bướm mơ mồng núi vọng phu.
Khen kẻ rắp cùng gan phượng chạ,
Trách chàng toan tuốt ruột tằm khô.
Một niềm dạ sắt in vầng thỏ,
Mấy lúc lòng vàng chỉ bóng ô.
Chăn-gối lẻ-loi đà mấy tối,
Mà lòng đã nỡ thế kia ru ! "

Chuột bạch tức ý hoạ rằng:

"Danh-tiết kia mà biết mấy thu,
Nghe quyên khắc-khoải tiếng tư-phu.
Mày ngài hoa ứ sầu khôn tả,
Má phấn châu rơi giọt chẳng khô.
Chút nghĩa đã nguyền vầng ngọc-thỏ,
Tấm lòng phó mặc bóng kim-ô.
Thâu đêm mang tiếng rằng kia nọ,
Dạ sắt gan vàng dễ biết ru !"


Chú thích:
Long-khánh: Niên-hiệu đời Trần Duệ-tông từ năm 1373 đến 1377 sau Tây-lịch kỷ-nguyên.

Lộc-đỗng: Chỗ ông Chu-Hy đọc sách, chỉ chung chỗ ẩn-cư của các bậc cao-nhân.

thiện danh: nổi tiếng.

cách-vật trí-tri: Trong sách Đại-học dùng bốn chữ này để giải về thứ-tự của bậc đại-học : có cách vật mới trí-tri, có trí-tri mới thành ý, có thành ý mới chính-tâm v.v... Về sau dùng bốn chữ này để gọi về sự học rộng biết nhiều.

Lý-lê: tức là Hồ Quí-Ly.

hồ-đồ: phân-vân.

muông: con chó.

nam-nhi: con trai, ở đây chỉ con chuột đực.

run như cầy: cầy là con chó. Ta thường nói : run như cầy sấy : con chó ướt lông mà đem sưởi, ý nói run sợ.

Một giây: một lát
cáy vào hang cua: lúng-túng khó xoay-xở.

Dường như giống vạc, cớ gì ăn đêm: Nếu không phải như giống vạc, cớ gì lại đi ăn đêm.

nhắn cá, gửi chim: Bỏ thư vào bụng cá, buộc thư vào chân chim để đưa tin. Nói về trai gái đưa tin cho nhau bằng những cách thầm dấu.

Rằng ta: như ta đây.

thương-cẩu: Bởi câu : " Bạch vân hóa vi thương cẩu ", đám mây trắng hóa làm con muông xanh. Nói về về sự biến ảo thay đổi ở trong trời đất.

lang-quân tếch ngàn: chồng chết.

Rồng-rồng theo nạ: Nạ : mẹ rồng-rồng - con của cá quả ( cá tràu, cá lóc).

Chân le chân vịt: chân cao chân thấp, chạy ngược chạy xuôi, vất-vả.

ăn hét phải đào giun: đào giun để đánh bẫy chim hét.

làm lưng: làm vốn.
gió trăng: càn-dỡ, ở đây chỉ vào con chó.

Kinh quyền: Kinh là theo đạo thường, quyền là quyền biến, có thể thay đổi đạo thường, không cần phải câu chấp quá.

no đôi: đủ đôi.

Kinh quyền: không biết chừng.

quì: thứ hoa nở bao giờ cũng quay về chiều có mặt trời.

hướng dương: quay về mặt trời

đoài: phương tây, bởi chữ đoái, đọc chạnh đi làm âm bằng.

thanh sử: sử xanh, về đời xưa chưa có giấy, dùng mảnh tre để viết chữ, mặt cật tre có sắc xanh cho nên gọi là thanh-sử.

tòng nhất nhi chung: chỉ theo một chồng mà ở trọn đời.

chuyển-dao: chuyển-lay, ý nói thay lòng đổi dạ.
Dễ hầu gà luộc mấy lần: nói người đàn-bà cải giá.

họ Tào: Liệt-nữ truyện: nàng Lịnh-nữ bắt ép đi cải-giá, nàng bèn lấy dao cắt mũi để thủ tiết :

sân hòe: đời xưa Vương Hựu trồng ba cây hòe ở sân có nói rằng : Về sau con cháu phát-đạt, cũng như ba cây hoè tươi tốt ; đời sau dùng điển này để nói về sự con cháu hiển-đạt.

đội ơn chưng: đội ơn ở.

phương-tiện: nguyên là chữ ở trong kinh Phật, nghĩa là tự do tuỳ tiện, tự mình thu xếp cho mình. Ở đây nói về cách khuôn xếp cho tiện.

thờn-bơn một bề: cá thờn bơn mình dẹp, đã nằm một chiều thì không trở mình lại được, ý nói chịu yên một bề. ( Cá thờn-bơn ở Nam Việt gọi là cá lưỡi trâu).

Vu qui: bởi câu: "chi tử vu qui" ở trong kinh Thi : người con gái kia đi về nhà chồng.

kiên-ngạnh<: bền cứng.

tụy-hoán: tên hai quẻ ở trong kinh Dịch, tụy là họp, hoán là tan, cũng như tụ-tán.
thuyền bách: Bởi bài thơ bách-chu ở trong kinh Thi nói : người goá chồng như chiếc thuyền gỗ bách lênh-đênh ở giửa sông.

Ngựa qua cửa sổ: Bởi chữ bạch câu quá khích. Ngựa trắng chạy qua khe cửa, nói về đời người nhanh chóng

Gan vàng dạ ngọc cơ-hàn được đâu: Tuy có gan vàng dạ ngọc song ở vào cảnh đói rét, đã chắc là giữ vững được đâu.

phú-các thư-lâu: những bậc tài-nữ, được ở vào cảnh phong-lưu, phú-qúy.

Tạo-đoan: bởi câu Thiên địa chi tạo, tạo đoan hồ phu-phụ : đạo trời đất gây ra cái mối đầu từ đạo vợ chồng.

lệ-bì: hai miếng da thuộc; theo hôn-lễ đời cổ, dùng hai miếng da, một miếng của họ nhà trai, một miếng của họ nhà gái, đánh đổi nhau mỗi bên giữ một miếng để làm bằng.

cẩu-hợp: tự-hợp bằng cách tạm bợ.

dâm-bôn<: vì sự dâm đãng mà theo nhau.

phong-hóa chi nguyên: cái nguồn của phong-hóa và giáo-hóa.
Sự vong như thể sự tồn: thờ người lúc mất cũng lúc sống.

quê: tiếng cữ, nghĩa là sai, lẫn.

Lân-kinh: đức Khổng-tử chép kinh xuân-thu, đến chỗ được con kỳ-lân què, ngài không chép nữa, người sau gọi kinh xuân-thu là lân kinh.

Mao-giản: Sử của Mao-công, đời bấy giờ chưa có giấy, chép vào thanh tre.

Đời xưa mấy gái tiết hiền: ý nói xưa nay rất hiếm người tiết nghĩa ; có bản chép là : đời xưa mấy kẻ tiết hèn.

tính nước, lòng mây: tính lẳng-lơ.

Sớm đưa gã Lý, tối vầy chàng Trương: Trong tình-sử thường nói Trương-tam, Lý-tứ, anh ba họ Trương, anh tư họ Lý, nghĩa là nay người này mai người khác.

bia miệng: miệng người nói cũng như bia chép.

thế-sự vẫn thanh: cuộc đời vẩn đục hay trong.

chàng Tự-Cơ: Lã-hậu đời Hán, tư-thông với ngươi Tụ-Cơ, thường dấu ở trong bức vách.
Hồ-dương: tên một công-chúa ở đời Hán Quang-vũ.

Tống-công: Tống-Hoằng, một người hiền ở đời Hán Quang-vũ, Hồ-dương công chúa goá chồng, muốn Tống Hoằng bỏ vợ để lấy mình, nhưng Tống Hoằng không nghe.

Mày ngài được sánh bệ rồng mấy phen :Vũ-hậu hai lần lấy vua, trước lấy Đường Thái-tôn, sau lấy Đường Cao-tôn.

Vua Đường thoắt mới xe tiên: Vua Đường Cao-tôn mới mất.

Họ Trương đôi gã: Trương-địch-Chi và Trương-xương-Tôn, hai người đều được Vũ-hậu yêu-mến.

Điêu-Thuyền: một người tuyệt sắc ở cuối đời Đông Hán, con nuôi của Vương-Doãn.

Khi ra Lã-Bố khi vào Đổng-công: Điêu-Thuyền đã lấy Lã-Bố lại lấy Đổng-Trác.

Còn cầu thích ý: Có bản chép : còn cầu thích chí...

đình chủ: Người chủ trọ. Đây chỉ vào Hồ-sinh là người có nhà cho chuột Bạch ở nhờ.

Lợn ngồi dũi đất: Có bản chép : Lọn ngồi cụi đất.
Vắt chày ra nước: Câu tục-ngữ, ý nói người ráo-riết.

Miếng ăn đè cột: Câu tục-ngữ, ý nói dấu đi, cất đi thật kỹ, khó lòng lấy ra được.

Rán sành ra mỡ: Câu tục ngữ, cũng giống như vắt chày ra nước.

Bình dưa lọ muối: Có bản chép : Bình rau cọng muối,

Vặt đầu cá, vá đầu tôm: Câu tục-ngữ, ý nói giật cái nọ, bù vào cái kia, mà thiếu-thốn vẫn hoàn thiếu-thốn,

Liệu thưng: San xẻ nhiều ít gọi là cho có bữa ăn.

ai đào chẳng ra: Ai nạy ra dược.

nghĩ hòa thương cho: Hòa là cùng chung.

Tổ-nhân thiên-táng, huyệt do mối đùn: Trời để mả cho, chứ không phải người để. Tục truyền ngôi mộ nào được thiên-táng, thì mối đùn lên thành mả, người không phải đắp đất.

Hợi long: Lonh mạch khởi tự phương hợi là phương tây-bắc. Nhập thủ : vào phía đầu. Chuyển khôn : khôn là quẻ khôn, phương tây-nam, nghĩa là : long mạch đi từ tây-bắc vào phía đông rồi chuyển sang tây-nam.
Bao nhiêu hổ thủy cũng tuôn nhập đoài: Hồ tuỷ : Nước bên tay hổ là tay phải, Nhập đoài : Đoài bởi đoái đọc chạnh ra, đoái là phương tây.

vượng tướng: theo lý ngũ-hành, mộc, hỏa, thổ, kim, thuỷ; mộc ở ngôi mộc, thổ ở ngôi hoả v.v..là tướng, tướng nghĩa là giúp.

Đông phương tị ngọ: Tị là đông-nam, ngọ là chính-nam, mạch chuyển từ đông sang nam.

cây lộc: một phép xem bói, lấy lá cay hay bông hoa mà đoán sụ tốt xấu.

Tham-lang thủ mệnh: sao tham lang đóng ở cung bản-mệnh.

thiên chung: nghìn chung gạo, ý nói lương-bổng nhiều.

hoa tạ: nhà trồng hoa.

Thóc Chu, lúa Hán: hai triều vua rất giàu, kho tàng chứa nhiều thóc lúa.

Thạch Sùng: tên một người rất giàu ở đời Tấn,

Vả nhà lắm kẻ hiền-lành: Có bản chép : vả nhà mấy kẻ hiền-lành.
Dẫu rằng: gia-chủ chẳng hề dễ-dui: Có bản chép ; túng tằng ông Tí, chẳng hề dẻ-dui.

Tìm phương phụ-hậu: tìm cách giúp vào hào tử-tức.

bói rùa: cách bói bằng mai rùa.

bói hạc: cách bói giã-hạc, tức là cách bói gieo ba đồng tiền.

Già-pháp: Phép cầu cúng của nhà chùa.

hắc hổ: Hổ đen, vẽ hình hổ đen để trấn trạch.

Biển-Thước: tên một thầy thuốc rất giỏi về đời Xuân-thu.

Mã-đề, qui-bản, sà-sàng, lộc-nhung: Mã đề : tên một vị thuốc. Qui-bản : thứ cao nấu bằng mai rùa. Sà-sàng : tên một vị thuốc. Lộc nhung : nhung hươu. Bốn vị này đều là thuốc bổ.

Nhân-sâm, liên-nhục, mật ong: Có bản chép : nhân-sâm, hồng-nhục, mật ong.

ngũ nội: ngũ tạng.
lục-vị, thập-toàn: tên hai phương thuốc bổ.

thiên-phòng: vợ bé.

Dày nơi ngư-vĩ, cao nơi ngọa-tàm: Ngư-vĩ : đuôi con mắt. Ngọa-tàm : chỗ dưới mi mắt. Theo sách tướng, ngư-vỹ dày và ngọa-tàm cao là nhiều con.

Vững con, tươi cái, ngoài đun quá nồi: Theo cách xem chân dò con là ngón trỏ, cái là ngón giữa, ngoài là ngón ở ngoài, nồi là giữa; ngoài đun quá nồi là ngón ngoài chỉ vào ngón giữa.

nàng Oanh: Trong truyện Tây-sương nàng Thôi Oanh-Oanh là một nàng có cả tài sắc ở vào đời Đường.

tước bộ xà hành: bước nhảy-nhót như chim sẻ, đi vặn-vẹo mình như con rắn là những tướng rất hèn rất xấu.

khứng: chịu, bằng lòng, (tiếng cũ).

Đưa duyên nhờ gió gác Đằng: Bởi câu thơ : Thời lai phong tống Đằng-vương các : lúc gặp thời may mắn, thì làm việc gì cũng dễ-dãi, nhẹ-nhàng như gió thổi qua gác Đằng-vương.

Cách cựu Đỉnh tân: Cách và Đỉnh là hai quẻ ở trong kinh dịch, lấy tượng là thay đổi. Cách cựu Đỉnh tân là đổi cũ thay mới.

chung-chinh: Cùng chung, ở chung (tiếng cũ).
Thấy người cốt-ngạnh chẳng vì chẳng yêu: Không ưa những người cốt-ngạnh là những người trung-trực.

Lý-miêu đời Đường: Lý Nghĩa-Phủ ở đời Đường Cao-tôn, trong bụng rất hiểm-độc, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ nhu-mì, người đời bấy giờ đặt tên là Lý-miêu, con mèo họ Lý.

đố quốc: Làm con mọt của nước.

Cá ao lệ nữa cháy thành: Thành môn thất hỏa, họa cập trì ngư : Cháy ở cửa thành vạ lây đến cá dưới ao. Lệ là sợ. Có bản chép là cá ao sợ nữa cháy thành.

Cũng nhiều cấp phải: cấp là kíp.

oa-xá: Cái nhà nhỏ, cũng như cái hang, cái tổ, có bản chép là thảo-sa.

đuổi thỏ săn hươu: Đuổi con thỏ, săn con hươu, chỉ về sự tranh bá đồ vương ở trên đời.

bán thỏ buôn hùm: Bán con thỏ để mua con hùm, ý nói bỏ sự yên-lành, chuốc lấy sự nguy-hiểm.

Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò: chim trĩ chỉ vì tham mồi mà mắc bẩy, ví như người ta chỉ vì tham danh lợi mà mắc tai-nàn.

ngay-ngáy: dáng bộ lo-lắng. Có bản chép là : còn hơn phảng-phất ăn bò mà lo.
hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng ví người được tự-do.

Sá chi chiều ấy: Chiều : bề, phương-diện.

cháy mày: gốc ở chữ nhiên mi, cháy lông mi, nói về sự cần-cấp ở ngay trước mặt.

Cưỡi rồng: Thừa long : cưỡi rồng, chỉ về sự cưới vọ, lấy vợ.

Ứng diềm hùng hủy: Kinh Thi : Duy hùng, duy bì, nam-tử chi tường, duy hủy, duy xà, nữ-tử chi tường, nghĩa là chiêm bao thấy con gấu, con báo là điềm tốt, sinh con trai ; chiêm-bao thấy con rắn, con rết, là điềm xấu, sinh con gái.

nát ngọc trầm châu: Làm cho viên ngọc vỡ, hạt châu chìm, ý nói tự-tử để thủ tiết với chồng.

thập nhị chi: mười hai hàng chi, tí là chuột đứng đầu hàng.

Thử-bì: da con chuột. Thơ Tướng-thử trong kinh Thi nói con chuột còn có da, ví như người ta cần phải có lễ-nghĩa.

Cơm nem đã trải tay chanh đã từng: hai câu này gốc ở hai câu tục-ngữ. Câu trên ý nói đã từng nuôi chồng từ lúc hàn-vi đi học hành, nơi xa nhà: câu sau nói đã từng nuôi chồng khi đau-yếu.

Thuyền ngư-ông tới doành mà chẳng nhưng: Thuyền người đánh cá đã tới doành nước, lẽ nào lại không chăng lưới ra để đánh cá
Chàng Lưu từ sánh ả Hằng</: Lưu là Lưu-Thần, Hằng là Hằng-Nga ; chàng Lưu-thần vào núi Thiên-thai gặp tiên.

Bạch-viên xưa kết Tôn-sinh: Trong bộ Tục-thế-thuyết : vượn trắng hóa làm người, lấy Tôn-Khác sinh được hai con.

Bá-Nha đã gặp Tử-Kỳ: Bá-Nha là người gảy đàn hay . Chung-tử-Kỳ là người hiểu được tiếng đàn.

Bảo-sơn ai nỡ trở về tay không: Không ai đã vào núi có ngọc báu mà lại trở về tay không.

Qui dâm: Tính rùa đa dâm, người ta thường dùng trong tiếng tục-hoại, như ô-qui, lão-qui để dùng gọi nhữ hạng dâm-ô, đê-tiện..

Tràng-khanh tư ả Văn-quân: Tư-mã Tương-Như tên tự là Tràng-khanh có tư tình với nàng Trác-văn-Quân.

Tống-sinh dùng gái chủ-nhân chẳng vì: Tống-Ngọc phải lòng người con gái chủ nhà bên láng giềng, có làm bài thần nữ phú.

bạch-diện thư-sinh: Người học-trò mặt trắng, tiếng gọi chung hạng học-trò và các nhà văn-sĩ.

Một văn luận thử: Tô Đông-pha làm bài Hiệt-thử phú tả rõ cái tính tinh-quái của con chuột.

Chẳng quen khoét vách, chẳng hay leo tường : Nói chuột khoét thủng vách leo qua tường, nhưng ám-chỉ về sự trai gái khoét thủng bức vách để dòm nhau hay là trèo qua tường để đi theo nhau..
thiết ngọc thâu hương: Ăn trộm ngọc, ăn cắp mùi thơm, chỉ về sự dan-díu thầm-vụng.

Đáp tai: Bịt tai, có bản chép : Bưng tai làm mặt chẳng hay.

Dẫu lòng thu tưởng xuân tầm được chăng: Thu-tưởng xuân tần : Mùa thu tưởng nhớ, mùa xuân đi tìm, ý nói những sự mong ước hão, không bao giờ thành được sự thực.

Cũng đà mang tiếng răng răng bề ngoài: Bề trong tuy chưa có gì, nhưng bề ngoài đã mang tiếng rồi. Có bản chép : Cũng đà mang tiếng lăng-nhăng bề ngoài.

rừng mặt vách tai: Có bản chép rừng mạch vách tai.

Lũ hài: Lũ hài-nhi, lũ trẻ con.

Hoặc người về đó lời này tiếng kia: tiếng người, ở đây chỉ vào vợ chuột đực.

tang-bộc: Tang gian, trong bãi dâu : Bộc thượng : Trên bờ sông Bộc ; chỗ trai gái hẹn-hò nhau, Tên hai bài hát ở trong kinh Thi làm ra để chê thói dâm-bôn.

Trâm-anh lịnh tộc: Trâm là cái trâm cài đầu. Anh là cái dải mũ, chỉ chung về bực khoa-hoạn. Lịnh-tộc là họ danh-tiếng.

Quan-quan bảo điểu: Chim tốt tiếng kêu êm-dịu. Kinh Thi thơ " quan-quan thư-cưu", chim thư-cưu tiếng kêu êm-dịu ví như Chu-hậu khi đức-tính hoà-thuận, bao-dung mọi kẻ tì-thiếp.
Cát leo cù-mộc: cát một thứ dây leo, cù-mộc là cây to. Kinh Thi : nam hữu cù-mộc, cát-luỹ oanh chi : phương nam có cây to, dây cát-luỹ tựa vào mà leo lên, nói ví người vợ lẽ nhờ người vợ cả che-chở.

Thiên-hương quốc sắc như bông hoa đèn: Có bản chép : thiên-hương quốc-sắc não-nùng chiêu đăm.

Thiên cao mà lại thính ti: trời ở cao nhưng nghe thấp, nghĩa là sự hay dở ở thế-gian trời đều biết cả.

Bát-trân: tám món đồ nấu quí lạ.

mỹ-hào: đồ ăn ngon.

thanh-minh: một tiết trong mùa xuân, ta lấy tiết này làm ngày đi tảo mộ, ở đây có ý nói là vắng-vẻ buồn tẻ.

cương tỉnh phong thanh: Cương là bờ cõi, tỉnh là giếng nước, hiểu là làng xóm, phong là phong-tục, thói-nếp, thanh là thanh-danh, tiếng-tăm : nghĩa là thói nếp tiếng-tăm ở chỗ làng xóm.

tri danh: biết tiếng.

Mở-mang trời cũng có mình: Thiên sinh ư Tí : Trời mở ra từ hội Tí ; Tí là tượng con chuột, cho nên nói là : mở-mang trời cũng có mình.

Tại bình: nữ tử tại bình : người con gái ngồi trong bình-phong, nghĩa là ngồi một chỗ, không bước chân ra ngoài.
lý bắc lân đông: bên bắc làng, bên đông láng-giềng, ý nói người chỗ này người chỗ khác.

chung-tư: tên một bài hát trong Kinh Thi, chung-tư là con bọ ngựa, sinh nhiều con.

Thiềm cung: cung con thiềm-thừ, tức là mặt trăng.

Ép tình cá nước phải nài-nẫm chi: Có bản chép : lấy điều củ-củ phải nài-nẫm chi.

âm thịnh dương suy: khí âm-thịnh, khí đương suy, ý nói đàn-bà hơn đàn-ông.

Ơn dày trả nghĩa trăng hoa: lấy sự tình-dục mà đền lại ơn nghĩa.

Vợ chàng lo-lắng việc chi đã về: Có bản chép : vợ chàng đâu bỗng liền về tới nơi.

Thấy chàng đưa tiễn đề huề: Có bản chép : thấy chồng đưa tiễn một người.

Ngâm thơ mà giải lòng quê kẻo nồng: Có bản chép : Tức mình thơ-thẩn một bài liền ngâm.


2- Chuột cái về nhà sinh sự

Họa thi rồi tạ lấy lòng,
Giãi-bày có cả vợ chồng cùng nghe :
"Gặp cơn sóng gió bất kỳ,
Nhờ ơn cứu-vớt đêm khuya nặng tình.
Có nhà chị cũng như anh,
Người ta ai cũng lòng lành như ai.
Đè chừng bắt bóng dong-dài,
Đá mòn đã vậy, miệng người thì sao ?
Xưa nay danh-giá thế nào,
Vì tôi một chút ra vào cho nên.
Phải chăng chị để em xin,
Bận lòng lo-lắng giang-sơn nỗi nhà."
Bây giờ nàng đã bước ra,
Liệu điều chàng cũng giải hòa cho xuôi.
Nàng rằng: "Trong bấy nhiêu lời,
Rào sau đón trước cho ai đó mà.
Chẳng tư-túi, chẳng trăng-hoa,
Tội chi mà thiết việc nhà người dưng."
Tía tai đỏ mặt bừng bừng,
Vật mình nàng lại vang-lừng nói ra;
"Cớ chi thiếp mới vắng nhà,
Đã lòng nhử nguyệt quyến hoa tơi-bời.
Vừa lòng thích ý thì chơi,
Nhà này còn có xem ai ra gì,
Cửa nhà lo-lắng sớm-khuya,
Sướng se mạ cạn đi về xiết bao.
No cơm thì rửng hồng mao,
Dục hà dục hĩ muốn sao thì làm.
Ai ngờ mặt sứa gan hầm,
Rắn toan gà luộc rượu tăm thỏa lòng.
Khác nào như nhện đánh vòng,
ếch kia trong giếng còn mong kẻ dò.
Đói thì đầu gối biết bò,
No cơm ấm cật còn lo-lắng gì.
Chẳng thương đến nỗi thê nhi,
Tìm mồi khuya sớm đã đi đỡ chàng.
Trở về vừa đến đầu tường,
Thấy con muông đứng cửa hang nó rình.
Đã lâu nghe vắng phong thanh,
Ngậm hơi như thóc đem mình về đây.
Lại e lũ khỉ buông dây (?),
Đến nhà nên nỗi nước này mà thương."
Ghen-tuông nhiều tiếng dở-dương,
Chàng van như cốc, bày tường đầu đuôi.
-"Canh khuya chưa nhắp còn ngồi,
Lạ vì vắng-vẻ thức coi cửa nhà.
Bỗng nghe ngoài chốn tường hoa,
Tiếng con muông sủa từ xa lại gần.
Chút vì nàng mới lỡ chân,
Hoặc khi muôn một trở ngăn dường nào.
Song nga chưa biết làm sao,
Bồi hồi gan vượn xôn-xao khúc tầm.
Thập-thò hầu rắp ra thăm,
Thấy nàng Bạch-thử đâm sầm vào hang.
Dữ lành hai lẽ chưa tường,
Giắt tay đã bảo có đường tìm ra,
Nói rằng trong nghĩa lân-gia,
Phải con muông đuổi thế sa đường cùng.
Một mình thân gái long-đong,
Dám xin cứu nạn ơn lòng chẳng quên.
Một làm phúc hai làm duyên,
Chẳng nề cho ở một bên hẹp gì.
Vừa ngồi một chốc lại đi,
Há rằng có ý-tứ gì cùng ai.
Cớ sao gieo nặng những lời,
Nghe ra chẳng chút vào tai cũng phiền!"
Nàng rằng sự đã quả-nhiên,
Nào ai nói đặt cho nên đoạn trường,
Vợ con vừa bước ra đường.
Ở nhà thắc-mắc lo-lường đứng trông.
Phỏng rằng cậy dạ cậy lòng,
Thế thì dỗ gái về phòng làm chi ?
Ngửa-nghiêng như ốc biết gì,
Bặt ngay tăn-hẳn dường dê mắc sừng.
Thôi thôi chẳng lọ nói-năng,
Dấu voi ruộng rạ nghĩ rằng kín thay.
Hang hầm ai dám móc tay,
Chuột nào lại dám cắn dây buộc mèo.
Ắt là toan rắp thế nào,
Không dưng ai có bỗng theo về nhà.
Ruồi kia một phút bay qua,
Biết là đực cái lọ là sự ai.
Ở trong chưa tỏ bằng ngoài,
Dễ mà ăn cáy bưng tai được nào.
Mê-say chìm-đắm má đào,
Như mèo thấy mỡ khát-khao thật là.
Già chẳng thương, trẻ chẳng tha,
Khác nào như ếch thấy hoa thì vồ.
Thuồng-luồng ở cạn có ru,
Mà toan bắt-chước đứa ngu sờ-sờ.
Chiếu-chăn nào có hững-hờ,
Mà như voi đói thì vơ dông-dài.
Quen mùi bận khác ăn chơi,
Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu.
Bấy giờ khốn đổ cho nhau,
Miệng kênh gọi chó, tay mau đuổi ruồi.
Ví dù lầm phải vợ ai,
Giòng sông bè chuối mới hay cho đời.
Sáng tai họ, điếc tai cày,
Mà lòng lại tưởng đến người đào thơ.
Những mong lại có bao gìờ,
Cho khuây-khỏa dạ kẻo mơ-mẩn tình.
Ví không duyên nợ ba sinh,
Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây ?
Nghĩ càng như tỉnh như say,
Mặt như đầu lợn nhìn thầy trơ-trơ.
Nàng ngờ phải thuốc phải bùa,
Ve sầu xác rũ nó cho ăn quàng.
Cho nên thơ-thẩn võ-vàng,
Tìm lươn cho kíp cháo thang giã-giùng.
Kẻo lòng tơ-tưởng mơ-mòng,
Khỏi hồn Thục-đế, khõi lòng Đỗ-quyên
Bấy giờ tính nết đã quen,
Chắc rằng cua lỗ khó lên trên trời.
Nàng rằng bắt chạch đằng đuôi,
Kiện vô chứng cớ khôn đời đôi co.
Nguyên viết hữu, bị viết vô,
Minh đơn so với duyên-do thế nào.
Nó thời nhất hướng tại đào,
Đi lên rừng biết đường nào truy-đương.
Vô tang tích tịch tình tang,
Khôn làm lý-đoán cho tường được đâu.
Rầm nhà tiếng hỏi lao-xao,
Ai hay rằng sự dấu đầu hở đuôi.
Vẫn còn thèm thịt thèm xôi,
Ngày thường cơm tẻ thiếp nuôi lệ gì.
Có cãi rằng quí dịch thê,
Gái này chẳng dám nằn-nì thương-yêu.
Già rồi lận-cận bỏ liều,
Sá chi vú sếch lưng eo sồ-sề.
Chẳng ưa cà chín bầu già,
Tuổi đà dư lạp lịch đà quá niên.
Có trăng nên nỗi phụ đèn,
Chẳng ngon thể sốt, thời liền bến hơi.
Cười ra nước mắt hổ ngươi,
Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa:
Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
Thế tình chuộng lạ tham thanh,
Thân tiên thân cú ra tình xấu chơi.
Cầu-nôm đồng thủng lạ đời,
Kẻo còn nhọc xác mệt người xông-pha.
Cắn đuôi tha trứng gần xa,
Cái thân tất-tả như bà đánh ong.
Dạ-tràng xe cát luống công,
Tò-vò nuôi nhện há mong cậy nhờ.
Ít lời chẳng muốn nói ra,
Những điều chàng ở ắt là chẳng quên.
Chèn nhau từng cạnh cho nên,
Trong bàn đã phỗng tay trên nực cười.
Tổ-tôm kia thực là tài,
Cửu-vạn bát-sách chờ hoài bán chi.
Âm-dương bác cục được thì,
Cứ chi đứng hậu cứ chi lối lè."
Chàng rằng: "Lời nói cũng kỳ,
Kể khoan kể nhặt thói quê thường tình.
Tiếng chua hơn nữa vắt chanh,
Toan đường tầm-ngải lấn cành được sao ?
Ta đây dễ nạt được nào,
Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ-roi.
Cũng toan níu-náu cho rồi,
Càng ngày càng một tỏ coi những màu.
Cắm đầu mà chịu vuốt râu,
Đã căm như ngựa cầm tàu mấy phen.
Giống lừa ưa nặng đã quen,
Thôi đừng dức-lác huyên-thiên tít mù."
Bấy giờ nàng lại tri hô,
Sắn quần sắn áo thập-thò cửa hang.
Rằng: "Đà mang tiếng tào-khang,
Những nhờ rễ mận rễ bàng cùng nhau.
Bây giờ nên nỗi cơ-cầu,
Bà làm cho tỏ ra đầu ra đuôi."
Miệng thời thở ngắn thở dài,
Tìm đường thăm lối kíp dời lân đông.
Cửa hang chuột bạch tới gần,
Đã phần sỉ-vả lại phần mỉa-mai.
Chuột bạch đỏ mặt tía tai,
Hỏi rằng: "Ai đấy mắng ai chốn này.
Con này chưa biết bà đây,
Lại toan tiếng nọ lời này đành-hanh."
Con mèo thủng-thỉnh góc thành,
Đến xem tranh đấu ra tình làm sao.
Hai bên hồn lạc phách xiêu,
Trèo non nhảy núi ra chiều lao-đao.
Lạ đường chuột cái sa ao,
Thực là báo ứng trời nào có xa.
Bạch thời chạy được về nhà,
Bước qua cống gạo liền xa mình vào.

Hồ Sinh cứu chuột cái và dạy dỗ chuột cái

Ngẫm xem báo ứng kíp sao,
Hồ-sinh đứng nấp tường đào thử trông.
Thấy con chuột cái vẫy vùng,
Trên bờ mèo chực, những mong ra chào.
Hồ dơ tay mới đuổi mèo,
Vén quần lội xuống cán bèo vớt lên.
Ráo lông tỉnh lại vừa an,
Cúi đầu mà lạy khoan-khoan trình-bày :
"Thiếp nay là phận thơ-ngây,
Phải chồng ruồng-rẫy tới đây gặp nàn.
Ơn ông cứu được thân tàn,
Thửa công-đức ấy muôn vàn xiết đâu.
Nhờ ông lượng bể cao sâu,
Hẳn cơ tạo hóa quên đâu kẻ hiền."
Sinh rằng: "Những tính hay ghen,
Hễ là già néo ắt liền đứt giây.
Rõ-ràng kể nói cho hay,
Ban khuya chuột bạch tới đây tìm mồi.
Phải con muông đuổi một thôi,
Vào hang này ẩn, an rồi lại ra.
Lạ gì gái đẹp đến nhà,
Chồng mầy cũng muốn lân-la với tình.
Song le phải gái kiên-trinh,
Ra chiều khôn lẽ dỗ-dành lại thôi.
Ngươi về chưa tỏ đầu đuôi,
Máu ghen nghếm-ngẩm nói lời éo-le.
Dẫu rằng đức Phật từ-bi,
Ắt là cũng giận huống gì chồng ngươi.
Há rằng việc ấy bởi ai,
Mình làm mình chịu, trách người sao nên.
Tính hay bạo hổ đã quen,
Dám tìm chuột bạch đánh ghen tại nhà.
Lại làm xấu bọn đàn-bà,
Oan lòng tiết-phụ nghĩ đà phải chưa."
Nàng vâng nghe biết sau xưa,
Rằng ơn ông dạy bây gìờ mới hay.
Mấy lời nghĩ lại hổ thay,
Trăng kia đã khuyết khôn xoay được tròn.
Trót đà cả giận mất khôn,
Bây giờ cắn rốn lại còn được ru."
Liệu lời Sinh mới dạy cho,
Lấy đường khuyên-giải điển mô mọi lời.
"Việc này cơn-cớ vì ngươi,
Liệu về nói dỗ chồng nguôi thì là.
Muốn cho yên cửa yên nhà,
Chẳng gì hơn ở thuận-hòa cùng nhau.
Dễ ai đội áo qua đầu,
Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tày.
Ái-ân là nghĩa nặng thay,
Vợ chồng há phải một ngày rồi quên.
Ở đời vô sự là tiên,
Mà đều yên-đẹp hơn bên cục-cằn.
Trót đà cùng chiếu cùng chăn,
Lẽ nào con nhện mấy lần vương tơ.
Tính sao như thể nước cờ,
Nghĩ cho một phải hai vừa thì thôi.
Chớ toan những sự tranh-phôi,
Bới bèo ra bọ, tanh-hôi cửa nhà.
Đàn-bà như hạt mưa sa,
Gặp sao hay vậy biết là đâu hơn.
Dẫu chồng trăm giận nghìn hờn,
Cũng nên bấm bụng van-lơn dỗ-dành.
Một câu nhịn, chín câu lành,
Chớ hề tật-đố cậy mình cậy công.
Mới là phải đạo xướng tòng,
Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon,
Rang-rang thôi hết khéo-khôn đàn-bà.
Mèo lành ở mả đâu là,
Của yêu đâu có bày ra ở ngoài.
Thôi đừng đua sức thi hơi,
Há rằng ba chốn bốn nơi được nào.
Tránh voi xấu mặt hay sao,
Hãy xem sứa vượt được nào qua đăng.
Làm chi mặt vượt, mặt lăng,
Dứt dây chẳng sợ động rừng kia ru.
Thi bơi với giải thờì thua,
Đàn-bà đâu có tranh-đua cho đành.
Kíp toan cải dữ làm lành,
Ắt là sum-họp yến-anh một nhà.
Dịu-dàng phải phép đàn-bà,
Chẳng thời chua xót lệ sa ròng ròng."
Nàng vâng lời dạy ghi lòng,
Trở về van lạy cùng chồng dám sai.
Hồ-sinh về chốn thư-trai
Giở nghiên-bút mới ghi lời kẻo quên.
Nào ngờ vị-vật chính-chuyên,
Rằng: chê rằng cũng nên khen lệ gì.
Cũng hay trinh-tiết giữ nghì,
Vật còn dường ấy huống chi là người.
Ai hay đen bạc biến dời,
Tuy người chẳng biết nhưng trời đã hay.
Những người mặt dạn mày dày,
So xem ắt cũng chẳng tày muông dê.
Như lòng chuột đực khá chê,
Toan đường quyến-rũ dạ mê đạo lành.
ấy là chuột bạch chí thành,
Ví dù nó chẳng tiết-trinh ra gì.
Thấy chưng quả-phụ nhân nghì,
Chẳng khuyên đường chính mà mê thói tà.
Vậy nên eo-óc cửa-nhà,
Chẳng nhưng chỉ trách đàn-bà ngon ghen.
Khá khen chuột bạch trinh kiên,
Trăng hoa chẳng tưởng, giữ-gìn tấm son.
Dẫu rằng đá lở non mòn,
Tấm lòng tạc sắt ghi son chẳng dời.
Gặp cơn nhầm chốn sa vời,
Chẳng tham chìu-đãi nghe lời bướm ong.
Mặc ai cợt diễu thử lòng,
Gan vàng chẳng chuyển chẳng long chút nào.
Đương cơn gặp bước lao-đao,
Thế mà vẫn được ra vào ấm no.
Khá chê chuột cái dại-rồ,
Chồng đi hoa nguyệt chẳng cho được nào.
Phải điều khuyên-dỗ thấp cao,
Cớ chi đè nén sông giao cậy mình.
Làm trai ba bảy mới sinh,
Tài nào mà giữ một mình được ru !
Cả ghen nên nỗi cay chua,
Chồng ruồng-rẫy, phải sa hồ càng thương.
Người xưa câu ví còn gương,
Đàn-bà cả tiếng, tan-hoang cửa nhà,
Sự này dù thực dù ngoa,
Ghen-tuông thì cũng người ta thường tình.
Xét-xem giống vật cho tinh,
Mà cơ báo-ứng rành-rành chẳng sai.
Huống chi là đấng làm người,
Thửa lòng cho chính nào trời phụ ai.
Tóc tơ một chút chẳng sai,
Vậy nên làm chuyện đặt vài lời hoa.
Khi rồi, ai muốn ngâm-nga,
Gọi là theo thói nôm-na dõi truyền.

=HET=


Chú thích:
Sướng se mạ cạn đi về xiết bao: sướng là ruộng gieo mạ, sướng se là ruộng hết nước, ý nói làm-lụng đi về vất-vả.

No cơm thì rửng hồng mao: cũng như no cơm ấm cật , dâm-dật mọi nơi.

nhắp: ngủ.

muông: con chó.

Chút vì: sợ rằng.

Song nga: phân-vân bên nọ bên kia, chưa rõ ra thế nào.

Bồi hồi gan vượn: con vượn có tính hay ngờ hay sợ.

Cớ sao gieo nặng: Có bản chép là đè nặng.

thắc-mắc: không ngồiyên.

Biết là đực cái lọ là sự ai: Hai câu này ý nói là người tinh ý, không cái gì che mắt được.

ăn cáy bưng tai: ăn cáy hay ngứa tai, phải gãi, ý nói sự thật không dấu được.
thương: ở đây có nghĩa là thương hại.

ếch thấy hoa<: ếch vồ hoa dâm bụt, nói người tham.

ghẻ tàu: bệnh dương-mai.

Miệng kênh gọi chó, tay mau đuổi ruồi: câu này nói người có bệnh dương-mai, miệng thì suýt-soa kêu đau, tay thì xua ruồi, vì lở-láy bẩn-thỉu.

Sáng tai họ, điếc tai cày: con trâu lười, khi người bảo nó nghỉ thì nó nghe ngay, khi người bảo nó cày, thì nó lơ đi như điếc, ý nói người không thích làm chỉ thích chơi.

đầu lợn nhìn thầy: mặt đần ra như đầu lợn luộc nhìn thầy cúng.

Ve sầu xác rũ: xác ve sầu và xác con quốc là thuốc bùa mê.

truy-đương: tiếng việc quan, nghĩa là bắt bồi bắt đền.

quí dịch thê: sang thì đổi vợ.

dư lạp: qua tháng chạp, tức là hết xuân.
quá niên: quá tuần tuổi trẻ.

chùa bà Đanh: tương truyền chùa bà Đanh thiêng lắm, ít người dám đi qua.

Cầu-nôm đồng thủng lạ đời: câu hát cổ : đồng thủng lại về Cầu nôm, vì làng Cầu-nôm là làng đúc đồng cho nên dầu đồng thủng nát đến đâu cũng đem về làng ấy cả, ở đây nói ví bao nhiêu cái xấu cũng đổ cả vào một người xấu.

Cắn đuôi tha trứng gần xa: Câu này nói đi kiếm ăn vất-vả, khi chuột tha trứng, một con ôm quả trứng vào bụng, nằm ngửa ra, một con cắn đuôi kéo đi.

như bà đánh ong: tất-tả như bà đánh ong, ý nói luống-cuống rối-rít.

Dạ-tràng xe cát luống công: ý nói làm mất công không.

Tò-vò nuôi nhện há mong cậy nhờ: ý nói làm mất công không.

bàn: bàn tổ-tôm.

bán chi: chi - chi.

Âm-dương bác cục: bàn sóc đĩa.
đứng hậu: tiếng trong sòng sóc-đĩa, đứng là không nhảy, hậu là đang nhảy, lại đứng lại một tiếng.

tầm-ngải: cây tầm gửi.

quặp râu vào: người sợ vợ.

ngựa cầm tàu: ngựa bị giam ở trong chuồng.

rễ mận rễ bàng: tình-nghĩa quấn-quít với nhau như rễ mận rễ bàng.

lân đông: láng giềng làng đông, ở đây chỉ về hang chuột bạch.

bạo hổ: Luận-ngữ : bảo hổ bằng hà : bắt hổ và lội qua sông tay không, ý nói những người bạo-ngược nóng-nảy.

cắn rốn: bởi chữ phệ tề dịch ra, nghĩa là hối-hận.

điển mô: những điều khuôn-mẫu, những lời khuyên-bảo.

đội áo qua đầu: ví người làm việc trái ngược, không thuận lẽ phải.
tranh-phôi: trang-dành.

Rang-rang: tiếng người ngoài chê cười.

sứa vượt được nào qua đăng: Tục-ngữ : sứa nào vượt được đăng, đăng là hàng rào cắm vòng-vòng ở dưới nước để bắt cá, con sứa là vật không biết lội, bị nước đẩy vào trong đăng thì vượt qua cao được, ở đây ý nói vợ không vượt được chồng.

mặt vượt, mặt lăng: người có vẻ mặt lầm lầm như mặt cá vượt, cá lăng.

giải: là một loài giống như ba ba và to, lặn rất lâu,

thư-trai: nhà học, nhà đọc sách.

ngon ghen: hay ghen, thích ghen.

Thửa lòng cho chính nào trời phụ ai: Có nhiều bản không có hai câu này.