Friday, November 20, 2015

Nhị Độ Mai

...................................... Tiếp theo ...................................

16.- Mai-sinh tự-ải, được nhà sư cứu sống (câu 573 - câu 616)
Nghĩ đi nghĩ lại tần-ngần,
Tay không đất khách, một thân quê người.
Biết cùng ai tỏ khúc nôi,
Dở-dang hai lẽ, tới lui khó lòng.
Bước lần bỗng thấy gần sông,
Xuống thuyền nhờ để tìm vùng lánh xa.
Trọn ngày đến bến, lên bờ,
580.- Trời hôm vào đấy là chùa Thọ-am.
Than rằng: "Tội báo cho cam,
"Thế này trời hãy còn làm đến đâu.
"Họ Lư tầm-nã còn lâu,
"Tấm thân đã biết về sau thế nào ?"
Trong lưng sẵn giải lụa đào,
Cởi ra, sinh đã buộc vào cành cây.
Thương ôi ! Sao khéo đang tay !
Thân này đã quyết với dây ấy rồi.
Trời còn cứu kẻ anh-tài,
590.- Trong chùa bỗng có một người bước ra.
Lòng lành thấy sự oan-gia,
Trở vào bạch lại sư-già trước sau.
Sư ra dạy cởi xuống mau,
Khương-thang kíp đổ, giờ lâu tỉnh dần.
Thấy người trạng mạo văn-nhân,
Quá thương sư mới hỏi gần hỏi xa.
Nỗi mình đâu dám giở ra,
Sinh bèn chống chế, kêu-ca liệu lời :
Rằng: " Con chút phận tôi đòi,
600.- "Giữ đồ thầy để mất vài bốn bao.
"Trở về nghĩ chẳng tha nào,
"Cực mình nên phải quyết liều quyên-sinh.
Sư rằng: " Cửa bụt thênh-thênh,
"Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.
"Nhà chùa công việc cũng đầy,
"Dẫu rằng lau án, tưới cây cũng là,
"Vả trông ra dáng con nhà,
"Sẵn nghiên bút viết một và tờ xem.
"Dẫu rằng xấu tốt chẳng hiềm,"
610.- Sinh bèn đề chữ "Thọ-am tự-thuyền ".
Sư rằng: "Này bút thiên-nhiên,
"Lọ tìm Vũ-kiếm, lọ khen Lan-đình."
Phòng văn giao mặc viết kinh,
Vườn hoa lại phó một mình sửa-sang.
Sức người như giúp hơi dương,
Một vườn tươi-tốt bằng dường thêm xuân.
17.- Cuộc gặp gỡ giữa Mai-sinh với họ Trần (câu 617 - câu 656)
Những mong bóng Phật nương thân.
Hay đâu bỗng chốc lương-nhân giắt vào.
Nỗi sư nào biết đâu nào,
620.- Chẳng là tên gọi Nhật Cao họ Trần.
Thám hoa võ-cử xuất thân,
Ba nơi tọa-trấn mấy lần đổng-binh.
Thờ-ơ áng lợi quyền danh,
Vui lòng tuyền-thạch gửi mình thuyền-am.
Trần Đông Sơ ấy là em,
Một ngày thong thả mới tìm sang chơi.
Anh em kể-lể lôi-thôi,
Có khi nhắc chuyện họ Mai khóc thầm.
Mai-sinh riêng dạ nghĩ ngầm,
630.- Xem trò-chuyện ấy, biết tâm-tích rồi.
Hai ông tìm hứng mua vui,
Giắt tay, sánh bước, chân dời vườn sau,
Xem hoa vừa ý, gật đầu,
Trình anh, mới kể mấy câu nằn-nì :
"Mười năm theo việc vương-kỳ,
Sân Đào mấy lớp, Đông-ly bỏ rèm.
"Gốc cằn, cỗi rậm, khó xem,
"Cỏ cây ví với am-thuyền kém xa.
"Tiểu đây kể khéo có thừa,
640.- Nhà em bên ấy tạm nhờ một tay."
Sư rằng: " Anh cũng là may,
"Ngày xưa được chú tiểu này bỗng không
"Họ Vương tên gọi Hỉ Đồng,
"Bút nghiên tay giỏi, nghi-dung con nhà.
"Việc quen sửa cảnh, vun hoa,
"Cho về bên ấy nương-nhờ cũng hay !"
Mai-sinh bèn lạy tạ thầy,
Theo về Trần-phủmột giây đến nhà.
Trần-công cười nói lôi-la;
650.- Đòi công-tử với cùng là phu-nhân.
Tiểu-thư cũng gọi đến gần,
Rằng: "Hôm nay buổi dời chân tham thuyền.
"Xin về được gã thiếu-niên.
"Cảnh hoa việc biết, bút-nghiên nghề nòi."
Những xem phong-dạng con người,
Một nhà ai cũng một lời khen lao.
18.- Cảm tưởng của Mai-sinh trong khi ở Trần phủ (câu 657 - câu 670)
Mai-sinh đành phận biết sao,
Khi ra viết thiếp, khi vào sửa hoa.
Cửa người ngày tháng lân-la,
660.- Một mình riêng những xót-xa sự mình.
Sinh-ly xa cách huyện-đình,
Một cây bóng ngả mấy cành tang-du.
Sơn-đông non nước mịt-mù,
Niềm thương nỗi nhớ biết hồ có nguôi.
Nghi-trưng một nắm cát vùi,
Vì ai nên nỗi thiệt-thòi đến ai.
Sau này dù nhận có người,
Nghĩa kia biết có đền-bồi được chăng ?
Thành sầu cao ngất tầng tầng,
670.-Một vườn ngày gió đêm trăng thẫn-thờ.
19.- Mối tình của Mai-sinh, khi trông thấy Hạnh-Nguyên (câu 671 - câu 694)
Hay đâu con tạo lọc-lừa,
Chen vòng hắc vận, trao tơ xích-thằng.
Có phen bên gió dưới trăng,
Buổi man -mác bóng, cơn văng-vắng người.
Trong vườn tha-thướt dường ai,
Xem hoàn đổ lá, giục đòi hái hoa.
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành-vạnh nguyệt, tóc ngà-ngà mây.
Lập-lòa mớ đính mớ thay,
680.- Sắc xiêm hoa dệt, nét giày phượng thêu.
A-hoàn một lũ nối theo,
Quạt tha-thướt phẩy, lò dìu-dặt mang.
Xa xa thong-thoảng mùi hương,
Mai-sinh trông liếc rõ-ràng tiểu-thư.
Mối tình buộc lấy khư-khư,
Hồn bâng-khuâng quế, phách thờ-thẫn mai.
Của đâu trêu-ghẹo chi ai,
Ấy người cung Quảng, hay người đài Dương.
Tấc riêng, riêng những mơ-màng,
690.- Chữ tư đề dưới chữ tương ngày ngày.
Nghĩ mình lưu-lạc đã dày,
Chút niềm tâm-sự dám bày cùng ai.
Lại mang cái tiếng tôi-đòi,
Nhân-duyên trời có chiều người cho chăng ?.
20.- Thăm vườn mai, Trần công nhớ bạn (câu 695 - câu 194)
Thu đông trải mấy gió trăng,
Bông đào chợt đã báo chừng nửa xuân.
Một vườn cảnh-vật tiên-tân,
Mõ xa cành biếc, kệ gần lưỡi oanh !
Trần công nhân buổi dạo quanh,
700.- Đầy vườn thấy nở chật cành hoa mai.
Tính ngày mai, tối mười hai,
Truyền làm tiệc rượu đặt nơi hoa đình.
Vào trong khi bất thình lình.
Phu-nhân xem thấy ra tình không vui.
Rằng: " Vườn ta cảnh ưa người,
"Sắc ông sao bỗng kém tươi, thêm sầu ?"
Ông rằng: "Chẳng đánh mà đau,
"Ngày mai sực nhớ giỗ đầu Mai-huynh.
"Nghĩa bằng-hữu, bậc trung-trinh,
710.- "Thấy hoa mai, bỗng động tình xót ai."
Sáng ngày mượn tiếng thưởng mai,
Đem lòng thành-kính, viếng người tinh-anh:
"Có thiêng chăng nhẽ Mai-huynh !
"Chớ nề u-hiển, thấu tình anh em.
"Bây giờ kẻ khuất đã cam,
"Kẻ còn giong-ruổi cho tìm thấy tôi."
"Trông hoa lại nhớ mấy lời :
"Họ Mai còn chút lạc-loài nên thương.
"Phỏng ngày sau có ra tuồng,
720.- "Thì hoa mai nở bội thường hơn xưa."
Hóa-nhi khen khéo thờ-ơ,
Bởi đâu một trận gió mưa đêm trường.
Sáng mai trông lọt bốn tường,
Cành hoa dưới đất, mùi hương trên trời.
Trần-công thấy chẳng nên lời.
Thương tình bạn, giận sự đời, ngổn-ngang.
Gác ngoài phú-quí một tràng,
Mũ-ni, tràng-hạt, quyết đàng xuất-gia.
Phu-nhân, công-tử vào thưa:
730.- "Xưa nay mưa gió rụng hoa là thường.
"Làm chi nhọc bụng lo-lường,
"Tuổi già, nhà vắng, thêm đường dở-dang.
Ông rằng: " Thôi chớ bàn ngang.
"Một lời nói, dẫu nghìn vàng đổi sao !
oan-gia: nhà có oan-nghiệt, nhà gặp sự chẳng may.

Khương-thang: nước gừng nóng, thang thuốc gừng.

trạng mạo văn-nhân: bởi câu Văn-nhân trạng-mạo, nghĩa là mặt ra dáng người có văn-học.

quyên-sinh: bỏ sự sống, nghĩa là liều thân, liều chết.

Thọ-am tự-thuyền: chùa Thọ-am.

thiên-nhiên: tự nhiên mà thành như trời làm sẵn.

Vũ-kiếm, Lan-đình: Vũ-kiếm : Một lối chữ nét sắc như gươm múa, nên gọi là vũ kiếm . Lan-đình : lối viết của Vương Hy Chi đời Tấn, chữ rất tươi-đẹp, người ta gọi là thiếp Lan-đình.

lương-nhân: cũng như lương duyên : duyên tốt.

Nhật Cao họ Trần: anh Trần Đông Sơ.

Thám hoa võ-cử xuất thân: tức là đỗ Thám-hoa khoa thi võ . Xuất thân : bước đầu tiên ra đời.

tọa-trấn: ngồi nhậm chức.

tuyền-thạch : suối và đá, trỏ vào cảnh rừng núi.

thuyền-am: cảnh nhà chùa.

vương-kỳ: Kinh-đô nhà vua.

Sân Đào, Đông-ly: sân Đào là sân nhà ông Đào Tiềm, một hưu quan đời Tấn. Đông-ly là dậu bên đông, nơi trồng cúc và các thứ hoa.

Vương tên gọi Hỉ Đồng: Sau khi được nhà sư cứu sống, Mai-sinh mang tên Vương Hỉ Đồng, người đầy tớ có nghĩa đã chết thay Mai-sinh ở Nghi-trưng.

Trần-phủ : dinh Trần-công, người ta quen gọi nhà các quan là "phủ".

tham thuyền: thăm cảnh chùa.

Sinh-ly : sống mà phải lìa nhau. mỗi người mỗi ngả, không được sum-họp.

huyện-đình: sân cỏ huyện, trỏ người mẹ- xem chú thích trên.

tang-du: khi mặt trời sắp lặn, bóng nắng còn sót lại trên cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, du-cành bưởi- ví với cảnh già, nên có chữ tang du mộ cảnh : cảnh về chiều của cây dâu cây bưởi.

Sơn-đông: nơi Mai phu-nhân lánh nạn, tức là chỗ em bà làm quan.

Nghi-trưng một nắm cát vùi: nói về mả Hỉ Đồng táng ở Nghi-trưng.

Thành sầu cao ngất tầng tầng: đoạn này tả Mai sinh nhớ mẹ và thương đầy-tớ.

hắc vận, trao tơ xích-thằng: Hắc vận : vận đen . Xích-thằng : dây đỏ, dây xe duyên của Nguyệt-lão trong truyện Vy-Cố.

hoàn: tức liễu-hoàn : con đòi đầy-tớ gái.

cung Quảng: tức Quảng-hàn-cung, cung trăng.

đài Dương: tức Dương-đài, nơi Sở Tương-vương cùng thần nữ hội-ngộ.

Chữ tư đề dưới chữ tương: tức là tương-tư.

tiên-tân: tươi tốt, mát-mẻ.

hoa đình: đình hoa, vòm cao xây ở vườn hoa, làm nơi thờ hoa-thần.

Mai-huynh: ông anh họ Mai, lời xưng-hô của anh em bạn.

thưởng mai: ngắm cảnh hoa mai.

bội thường: gấp đôi lúc thường, nghĩa là hơn lên.


xuất-gia: đi tu, đi ở chùa. 

21.- Mai hai độ nở (câu 735 - câu 814)
Cả nhà xiết nỗi thảm-sầu,
Tiểu-thư lập chước thưa sau giãi-bày.
Rằng: "Xin đợi lại mấy ngày,
"Cầu trời khấn Phật hoa này lại tươi."
Ông rằng: "Thực có như lời,
740.- M ai hai độ nở mới dời lòng ta."
Tiểu-thư ra trước vườn hoa,
Khẩn năm bảy lượt, lạy và bốn phen.
Lòng thành thấu cửu-trùng-thiên
Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ.
May đâu đến bữa thứ ba,
Mai-sinh thức dậy, bấy giờ còn khuya
Hương đâu phưng-phức tứ bề,
Hoa đâu san-sát đầy khê một vườn.
Tấm lòng mừng-rỡ như son,
750.- Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài.
Đề rồi bẻ một cành mai,
Trao con đòi, cậy đưa lời Trần-công.
Một nhà thấy sự lạ-lùng,
Trước sau lũ-lượt đều cùng tới coi.
Trần-công rằng: "Sự tỏ mười,
"Chắc rằng Mai-thị còn người làm nên !"
Nỗi tu gác bỏ một bên,
Truyền đem tửu quả đặt lên hoa-đình.
Trên bày bài-vị Mai-huynh,
760.- Bấy giờ tình cảnh Mai-sinh thực là.
Tìm nơi đình-tử xa xa
Trông ngay trước mộc-vị cha, thở dài.
Vô tình ai biết là ai,
Tiểu-thư liếc mắt đưa chơi biết tình.
Sinh xem biết ý chân-thành,
Nỗi nghi dường đã bớt canh-cánh lòng.
Nhớ tên hiệu chữ Mai-công,
Đề vào mảnh giấy dán trong nắp hòm.
Ra vào giấu-giếm, nom-dòm,
770.- Gọi là tiện chút sớm hôm phụng-thờ.
Trần-công đi lại xem hoa,
Truyền đòi công-tử tên là Xuân-sinh.
Rằng: "Ta xưa những ở Kinh,
"Chẳng hay con đã học-hành tiến chưa.
"Rày nhân nhị độ mai hoa
"Con đề tức cảnh một thơ tiến trình."
Còn đương khuyên-bảo Xuân-sinh,
Trông lên đã thấy bên bình có thơ.
Trần công đòi hỏi bấy giờ,
780.- Mới hay đề đó là thơ Hỉ Đồng.
Khen câu ngọc đúc vàng ung,
Vóc trong miệng, gấm trong lòng vẽ nên.
Xuân-sinh thấy sẵn thơ trên,
Cũng theo vận ấy đề liền bốn câu.
Trần-công vừa ý gật đầu,
Tiểu-thư lại thấy ở đâu đến gần.
Dạy rằng: "Nữ-tử, văn-nhân,
Theo đòi con cũng họa vần thử xem.
Tiểu-thư cầm bút vâng lời,
790.- Bên tường cũng vịnh một bài nối sau.
Khen tài nhả ngọc phun châu,
Ba vần già-giặn, bốn câu thanh kỳ.
Yên xong , ông trở ra về,
Cùng phu nhân mới nằn-nì một hai :
"Hỉ Đồng là kẻ có tài,
"Ở đây chớ để tôi-dòi xem khinh."
Mai-sinh thui-thủi bên đình,
Một mình tính quẩn lo quanh việc nhà.
Xưa nay nghe tiếng đồn xa,
800.- Phồn hoa thứ nhất ấy là châu Dương.
Hôm nay nhân buổi thanh-lương,
Rời chân xem thử phố-phường những sao.
Trập trùng quán thấp lầu cao,
Tạ Vương mấy chốn, Nguyên, Đào mấy nơi.
Xe lừa dù có chen vai,
Kìa người đại-cổ nọ người phú-thương.
Màn che mái, gạch ken đường,
Bầu nhà vàng nuột, rèm hàng lưu-ly.
Khắp người viễn khách cư kỳ,
810.- Tây-dương chung cảng, Cao-ly riêng hàng.
Lớp ngoài một dãy trường-giang,
Tàu chen mũi đỗ, thuyền giương buồm về.
Chài lan san-sát lá tre,
Chiếc đua máy đẩy, chiếc kề bến neo.
22.- Bị lộ chân tướng, Mai sinh thú thực (câu 815 - câu 862)
Những là mến cảnh noi theo,
Khi về vừa bóng xế chiều tới nơi.
Phòng riêng đã vắng tam hơi,
Nắp hòm bỏ ngỏ, vị-bài thấy không.
Tìm sau tìm trước lung-tung,
820.- Nghĩ riêng lòng những giận lòng đòi cơn.
Ai hay trong lúc du-quan
Tiểu-thư cùng với thúy-hoànra chơi.
Mở hòm nhác thấy một bài,
Ngạc-nhiên cất lấy thưa lời đến ông.
Trần-công rằng: "Sự lạ lùng,
"Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi !"
Đòi thúy-hoàn, mới dạy lời,
Dặn-dò hãy thử ướm chơi thăm tình.
Hoàn rằng: "Hơi hỡi Mai-sinh,
830.- "Toan gieo cái vạ tày đình cho ai ?
"Bây giờ Lư-tướng nghe hơi,
"Sai về trách-cứ một hai lấy người.
"Kẻo còn quanh-quẩn những lời,
"Còn nay Vương-thị, còn mai Hỉ Đồng ?"
Mai-sinh nghe tỏ sự lòng,
Uốn lời thú thực phô sòng van-lơn :
"Mai nay muôn đội ơn hoàn,
"Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng."
Túy-hoàn mới ngỏ thực lòng :
840.- "Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi.
"M ới rồi nhân thấy vị-bài,
"Rõ tình ông dạy cho lời không sao !"
Mai-sinh ren-rén bước vào
Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình.
Ông rằng: "Sau những dấu quanh,
"Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư ?
"Thế mà bác cứ thờ-ơ,
"Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày."
Lạy rồi, sinh mới giãi-bày :
850.- Từ ngày về quán từ ngày nghe oan.
Bao nhiêu tình-tự nguồn cơn,
Sơn-đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
Ơn Đồ Thân, nghĩa Hỉ Đồng,
Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.
Bước đường xa, cái sống thừa,
Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay !
Ông rằng: " Nương-náu ở đây,
"Thù kia ắt cũng có ngày trả xong.
"Niệm cũng công-tử một phòng,
860.- "Anh em liệu đấy dốc lòng nghiệp nho.
"Tình thế-nghị nghĩa giao-du,
Văn-chương tri-kỷ, chuyện trò chiếu-tâm.
23.- Trần-công bàn gả Hạnh-Nguyên cho Mai-sinh (câu 863 - câu 878)
24.- Trước khi đi cống Hồ, Hạnh-Nguyên từ giã gia-quyến (câu 879 - câu 984)
Ông tơ khen khéo cợt người,
880.- Đã xe vào, lại thử rời bắc, nam.
Làm cho chí tái chí tam,
Rồi ra đố lại vào ngàm mới thôi.
Phủ Trần chưa hết chuyện vui,
Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan-hoài.
Đảng-công, Lư Kỷ ngồi ngoài,
Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần-gia.
Đọc rồi mới biết rằng là:
Biên-quan có nước Sa-đà động binh.
Khói lang, bụi ngựa tung-hoành.
890.- Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần.
Lư-công dâng chước hòa thân,
Truyền đòi con gái họ Trần kết thân,
Ban cho áo mũ Chiêu Quân,
Đảng công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài.
Nghe ra xiết nỗi bồi hồi,
Ấy ai mưu hiểm, giục người sinh-ly ?
Khởi hành đã định nhật kỳ,
Lư-công giục-giã ngận tuỳ quân sai.
Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,
900.- Ngứa gan tấm-tức mấy lời vân vân:
"Vẻ chi một chút Hồ trần,
"Những tài thao-lược, kinh luânđâu nào ?
"Dẹp yên mượn sức má đào,
"Khen ai đặt để cái mưu cũng gìa !
"Kiếp này không xé được da.
"Kiếp sau quả-báo, oan gia kẻo gì.
"Gớm tuồng mộc vị, thần vì,
"Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng."
Lư-công nghe nói ngang tàng,
910.- Mắt sòng-sọc khóe, mặt sường-sượng gân.
Tiền-đường dọn tiệc chủ, tân,
Đảng-công cất lẻn vào dần nhà trong.
Trần-công rỉ bảo Đảng-công,
Trỏ Mai-sinh mới giãi lòng một hai.
Rằng: "Này công-tử họ Mai,
"Trong khi hoạn-nạn lạc-loài đến đây.
"Em cho nương-náu những ngày,
"Rắp đem tiểu-nữ sum-vầy kết duyên,
"Mưu kia ai vẽ cho nên,
920.- "Để loan chếch bóng cho uyên chia hàng.
"Việc nhà nhờ bác sửa-sang,
"Cho cùng Trần-điệt lên đường xuất quan."
Thoắt thôi nghe có lệnh troàn:
Bốn mươi thị-nữ dân-gian kén rồi.
Trong danh-sách bấy nhiêu người,
Cùng ra Phiên-quốc theo đòi Hạnh Nguyên.
Lại truyền không được trì diên,
Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường,
Áo Hồ đưa lại một rương,
930.- Dạy cho nương-tử cải-trang xuất hành.
Nàng rằng: "Quân-mệnh đã đành,
"Tủi mình khuê-khổn, liều mình tinh-triên.
"Bao giờ khỏi đất Trung-nguyên,
"Bấy giờ thay áo Hồ-phiên vội gì.
"Chịu trời chăng ! Một chữ thì,
"Áo này dù đổi, lòng kia khôn dời !
"Đảng-công khen đã nên lời,
"Cứng lòng,thiết-thạch hổ người tu-mi.
Thẹn thay cho kẻ vô-nghì.
940.- Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.
Lời trung khêu ruột gian-thần,
Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình.
Ngoài thì quan-khách linh-đình,
Trong thì nàng cũng đau tình biệt-ly.
Lạy hai thân, kể mọi bề,
Châu-chan nét liễu, dầm-dề giọt mai.
Rằng: "Con chút phận nữ-hài,
"Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên.
"Môn-mi mong những nhờ duyên,
"Ngỡ đem tấc cỏ báo dền ba xuân,
"Hiểm thay chước kẻ gian-thần,
"Xui nên kẻ Tấn, người Tầnnhư không.
"Có ra chi, phận má hồng,
"Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù.
"Rồi đây muôn dặm đất Hồ,
"Biết câu thập nữ viết vô từ rày.
"Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,
"Liều bằng muôn một những ngày một hai."
Thoắt thôi sùi-sụt ngắn dài,
960.- Gập-ghềnh mới ngụ một bài biệt thi.
Giờ lâu lưỡng lự vân vi,
Gọi Xuân-sinh lại nằn-nì rỉ tai :
"Nặng vì chút nghĩa họ Mai,
"Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong.
"Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
"Nhân-duyên chưa ghép, chữ đồng đã in.
"Vả xem bậc ấy không hèn,
"Rõ gương khoa-giáp, rõ niềm tướng-khanh.
"Nhờ em đãi lấy lòng thành,
970.- "Ngoài tình bầu-bạn, trong tình anh em.
2"Mọi bề trong ấm ngoài êm,
"Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng.
"Chị nhờ em gánh hiếu-trung,
"Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già
"Công-danh tuổi ấy đương vừa,
"Trâm-anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây.
"Dù thương đến chị sau này,
"Hoặc tuần hàn-thực, hoặc ngày thanh-minh.
"Suối vàng rưới một giọt tình
980.- "Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là !"
Lôi-thôi xiết nỗi gần xa,
Trông Mai-công-tử dường đưa mối sầu.
Thẹn-thùng khôn nói-năng đâu,
Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng.
25.- Mai-sinh và Xuân-sinh đi tiễn Hạnh-Nguyên (câu 985 - câu 1000)
Cửa ngoài chực sẵn xe hương
Lư-công giục-giã lên đường xuất quan.
Kiệu-phu bước nhặt, bước khoan
Đảng-công một ngựa điệu đoàn vệ-binh.
Đoản-đình thôi lại tràng-đình,
990.- Bên xe Mai Bích, Xuân-sinh hai chàng.
Bắc, Nam ai kéo đôi đàng,
Ải-quanai khéo chia đường biệt-ly.
Khi sao cửa các phòng khuê,
Giờ sao thui-thủi một xe đất này.
Hồn mai tỉnh tỉnh say say.
Mới trong vài bữa xem rày mấy niên.
Trông xa, khi khoác rèm lên,
Vòng thành chát-ngất, toà đền trai lơi.
Kiệu-phu quì bẩm mấy lời :
1000.- "Hàm-đan huyện ấy có nơi trùng-đài."
cửu-trùng-thiên: Chín tầng trời.

Cành phàm, hoa tiên: Cành cây tầm thường-phàm tục- Hoa tiên : Bông hoa tươi đẹp - thần tiên- Câu này đem chữ phàm chọi với chữ tiên cũng là lối chơi chữ.

tứ tuyệt thất ngôn: Lối thơ 4 câu mỗi câu 7 chữ. Thơ của Mai-sinh vịnh hoa mai hai độ nở nguyên văn chữ Hán:
Thốc thốc mai hoa sổ trượng cao,
Minh triêu vũ lộ hạ thiên tào,
Tạc tiêu hoa bản thành khôi thổ,
Nhị thứ mai hoa vạn cổ tao.
Dịch nghĩa :
Lớp lớp hoa mai cao mấy trượng,
sớm mai mưa móc từ trên trời rủ xuống.
Đêm qua đáng lẽ hoa đã thành đất bùn,
hoa mai nở hai lần thật là dịp gặp-gỡ muôn đời mới có một.

bài-vị: Cái bàn gỗ viết danh-hiệu người chết dán vào để thờ.

đình-tử: Tức là vòm xây ở vườn hoa, Mai-sinh đứng đằng xa trông về chỗ đặt bài-vị.

mộc-vị: Tức bài-vị gỗ nói trên.

chân-thành: Thực-thà.

Nỗi nghi:mối ngờ

Xuân-sinh: Con trai Trần-công, khi tị nạn mạo tên là Khâu Khôi . Sau thi đỗ Bảng-nhãn.

nhị độ mai hoa: Tức Mai hai độ nở hoa .

Vóc trong miệng, gấm trong lòng: tức là tiếng dịch nghĩa của bốn chữ : tú khẩu cẩm tâm.

đề liền bốn câu: Thơ của Trần Xuân-sinh theo nguyên-văn chữ Hán:
"Sở sắc mai hoa phẩm tối cao,
Y y đính cáo tự nhi tào,
Chỉ nhân thành kính không thiên giới,
Cố xử mai hoa phóng nhị tao."
Nghĩa là:
Mấy lớp hoa mai phẩm giá rất cao, rõ-ràng như lũ trẻ, chỉ bởi lòng thành-kính cảm-động đến trời, nên khiến cho hoa mai hai lần nở.

Nữ-tử, văn-nhân: Cũng như nói gái sắc trai tài.

một bài nối sau: Nguyên-văn thơ chữ Hán của Hạnh Nguyên tiểu-thư :
" Xuân nhật mai hoa phẩm tối cao,
Hựu-nhân Thượng-đế giáng nhi tào,
Hoàng-thiên bất phụ trung-lương hậu,
Tái xử mai hoa phóng nhị tao.
Nghĩa là:
Ngày xuân hoa mai phẩm giá rất cao quí, lại nhân dịp Thượng-đế giáng phúc cho chúng con, Lòng trời chẳng nỡ phụ dòng dõi người trung lương, lại khiến hoa mai nở hai lần.

châu Dương: tức Dương-châu một châu trong 9 châu đời Hạ Vũ, về đời Tuỳ-Đường đặt Dương-châu tại Giang-đô thuộc tỉnh Giang-tô.

thanh-lương: Trong sạch, mát-mẻ.

Tạ Vương mấy chốn, Nguyên, Đào mấy nơi: Vương, Tạ, Đào, Nguyễn là những nhà phú-quý phong-lưu ở Giang-tả đời nhà Tấn.

đại-cổ, phú-thương: Đại cỗ : nhà buôn lớn; phú-thương : nhà buôn giàu.

viễn khách cư kỳ: Khách lạ đến buôn bán. "Cư kỳ" bởi chữ "kỳ hoá khả cư", của lạ có thể buôn được (Truyện Lã bất Vy) .

Tây-dương: Các nước ở bên Tây Âu.

Cao-ly : Tức Triều-tiên, một nước bên nước Tàu.

trường-giang: sông dài.

thúy-hoàn: Cũnh như Liễu-hoàn, con đòi.

thế-nghị: Tình nghĩa bạn-bè đời này sang đời khác.

giao-du: Giao kết, chơi bời với nhau.

tri-kỷ: Biết mình, người thực biết được mình thì là bạn tri-kỷ.

chiếu-tâm: Soi lòng, soi thấu tận lòng.

tri-âm: Biết tiếng, biết cái hay của nhau cũng như biết âm-nhạc hay hay dở.

Câu văn cẩm tú, vẻ người y-quan: Cẩm-tú : gấm vóc, nói về văn-chương hay. Y-quan : Áo mũ nói bóng là có vẻ quan sang.

Hạnh Nguyên: Con gái Trần Đông Sơ, bị ép đi cống Hồ, gieo mình xuống đầm, được thần cứu sống đem về, làm con gái nuôi Châu Bá Phù, sau làm chính-thất Mai Lương Ngọc.

Thiên tài, quốc-sắc: Cũng như nói trai tài gái sắc.

Bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày: câu này cũng như thơ "Kim bảng quải danh thì, động phòng hoa trúc dạ".

khuê-các: Cũng như nói phòng khuê cửa các, con gái nhà tử-tế.

thư-cầm: Sách và đàn, biểu-hiệu của văn-nhân.

Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai: đãi ngọc : ngọc đợi giá ; tựa mai : nương tựa vào họ Mai.

chí tái chí tam: đến 2 đến 3 lần.

Biên-quan : Cửa ải ngoài biên, nơi giáp giới ngoại-quốc.

Sa-đà: Một bộ lạc thuộc biệt-bộ Tây-đột-quyết. Trong đời nhà Đuờng, có tù-trưởng là Chu gia Chấp-nghi về làng, được cho theo họ là Lý - họ nhà Đường - sau có Lý Tồn Húc diệt nhà Hậu-Lương lên làm vua Trung-quốc tức là Hậu Đương. Bây giờ ở Tân-cương có nơi sa-mạc tên là Dặc-xa-địa, tức địa-phương Sa-đà bấy giờ.

Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần: Hán : nhà Hán ; Tần : nhà Tần, hai triều-đại thống-nhất Trung-quốc. Chữ Hán Tần trong câu này chỉ nói thay về Trung-hoa.

hòa thân: giảng-hòa và kết thông-gia.

Chiêu Quân: Một cung-nhân đời Hán Nguyên-đế tên là Vương Tường có nhan sắc, bị đem đi cống Hồ - Hung-nô - sau chết tại đất Hồ.

Khởi hành: đứng lên đi, bắt đầu bước ra đi.

nhật kỳ: ngày hẹn, hẹn ngày ra đi.

ngận tuỳ: bước theo. Có bản dịch "căn tùy", có lẽ nhận lầm chữ Ngận ra chữ căn trong bản Nôm.

Hồ trần: Bụi rợ Hồ, ý nói giặc Phiên nhỏ nhặn như mảy bụi.

thao-lược, kinh luân: thao-lược trỏ vào quan võ ; kinh-luân trỏ vào quan văn.

quả-báo, oan gia: tiếng nhà Phật, ý nói những điều oan-uổng tất có quả báo, cũng như câu tục-ngữ oan-oan tương-báo.

Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng: Câu này ý nói có mũ mãng cân đai sang trọng lắm cũng bằng hoài.

ngang tàng: Rộng chứa. Người có tính ngang tàng phóng khoáng không sợ-hãi hay câu-nệ gì.

Tiền-đường: nhà trước, nhà khách.

tiểu-nữ: gái nhỏ.

Trần-điệt : cháu gái họ Trần, trỏ Hạnh Nguyên

xuất quan: ra cửa quan-ải.

thị-nữ : gái hầu.

danh-sách: sổ kê tên.

Áo Hồ: y-phục theo lối rợ Hồ.

nương-tử cải-trang xuất hành: cô nàng thay áo ra đi

Quân-mệnh : mệnh nhà vua.

khuê-khổn: buồng the, con gái nhà nền-nếp cũng như khuê-các.

tinh-triên: tanh hôi, trỏ vào rợ Hồ nòi giống khác.

Trung-nguyên: người Tàu cho đất Trung-quốc là Trung-nguyên, còn ngoài ra đều là mọi rợ.

Hồ-phiên : tức là Hồ.

thiết-thạch: sắt đá.

tu-mi: râu mày.

nữ-hài: con gái còn trẻ dại.

Môn-mi: cái võng cửa. Dương Thái Chân được Đường Huyền-tông lập làm quí-phi, bấy giờ có câu phong dao rằng:
"Sinh-nữ vật bi toan,
Sinh nam vật hỉ hoan,
Nam bất phong hầu nữ tác phi,
Quân khan nhi-nữ vị môn-mi,"
Nghĩa là:
Sinh gái chớ vôi thương xót, sinh trai chớ vội vui mừng, trai chẳng được phong hầu mà gái được làm bà phi, người coi con gái là cái cửa võng làm vẻ-vang cho nhà cửa.

Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân: câu này do câu thơ cổ :
"Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đáp tam xuân huy "
Ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa xuân. Đó là lời một người con đi xa nhớ mẹ -tấc cỏ ví như con, ba xuân ví như cha mẹ.

kẻ Tấn, người Tần: chữ Tấn Tần, đây nói về sự chia rẽ ra làm đôi ngả như Tấn với Tần.

chữ cù: bởi câu : ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao : thương thay cha mẹ ta, sinh ta ra khó nhọc.

thập nữ viết vô: mười con gái cũng là không.

biệt thi: thơ từ biệt, nguyên văn chữ Hán bài thơ của Hạnh Nguyên :
Nhật nhật khuê trung tư phượng-hoàng,
Mộng hồn nhất đán viễn tha hương,
Tư thân bất đắc qui nguyên lý,
Chỉ vị can qua xuất họa đường,
Chỉ thuyết cao đường thượng thị phụng,
Khởi tri kim nhật vĩnh phân mang,
Tòng kim nan đổ song thân diện,
Yêu đắc tượng phùng mộng lý thường.
Nghĩa là:
Ngày ngày ở trong buồng thêu chim phượng hoàng,
mộng hồn bỗng một buổi đi xa đất khách,
nhớ mẹ cha chẳng được trở về làng cũ,
chỉ vì gươm giáo nổi lên ở nơi buồng thêu.
Những tưởng chốn thềm cao hầu hạ cha mẹ,
biết đâu ngày nay chia cách mãi.
Từ đây khó lòng trông thấy mặt hai thân,
mong sao được gặp nhau trong giấc mộng luôn luôn.

Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già: câu này nói cha mẹ đã già.

Trâm-anh, chung đỉnh: trâm là cái để cài tóc, anh là giải mũ, trâm-anh là biểu-hiệu hạng nguời có quan tước áo mũ. Chung-đỉnh đã chú thích ở trên.

hàn-thực: Theo Tuế-thì-ký thì sau tiết Đông-chí 105 ngày là tiết Hàn-thực. Cũng gọi là tiết "cấm yên ".
Tục truyền xưa có Giới Tử Thôi đời Xuân-thu, có công giúp Tấn Trùng Nhĩ được phục-quốc nhưng không nhận thưởng, vào ẩn trong núi. Trùng Nhĩ tìm mãi không được, đốt núi để cho ra nhưng Tử Thôi đành chết cháy ; người Tàu thương xót cứ đến ngày đó thì cấm lửa để kỷ niệm Tử Thôi , gọi là tiết Hàn-thực, nghĩa là ăn đồ lạnh.

thanh-minh: sau Hàn-thực một ngày là tiết Thanh-minh, người Tàu quen dùng tiết ấy làm ngày đi tảo mộ, gọi là tiết đạp thanh : giãm chân lên đám cỏ xanh.

Kiệu-phu: Phu khiêng kiệu.

tràng-đình: mỗi cung đường có một trạm nghỉ chân gọi là đình, cứ cách 5 dặm có một đoản-đình : (đình ngắn) và 10 dặm có một trường-đình : (đình dài).

Mai Bích: tức Mai-sinh.

Ải-quan: cửa ải, nơi quan-yếu ngoài biên-giới, chỗ hai nước tiếp-giáp nhau.

Hàm-đan: một huyện thuộc đạo Đại-danh tỉnh Trực-lệ bên Tàu.

26.- Hạnh-Nguyên cùng Mai-sinh tự-tình trên trùng đài (câu 1001-- câu 1056)
Nàng truyền đóng lại nghỉ-ngơi,
Lên đền dạo cảnh, xem chơi gọi là.
Huyện-thành sắm-sửa gần xa,
Đài vừa dọn sạch, nàng vừa xuống xe.
Hương-đăng vừa đủ lễ-nghi,
Tiện, nàng lên đấy lạy về gia-hương.
Quan quân đóng chật huyện-đường,
Một nàng Hạnh với hai chường cùng lên.
Từng từng đợt dưới, đợt trên,
1010.- Ngẫm xem phong-cảnh bốn bên trập-trùng,
Cao cao thôi lại từng từng,
Trời như khổ thấp, đất bằng dường xa,
Bảo nhau rồi mới nhận ra,
Đông-nam phương ấy, ấy là cố-hương.
Xuân-sinh đón biết ý nường,
Muốn điều từ-biệt với chường Mai-sinh.
Một mình bước xuống làm thinh,
Mặc ai trên ấy tự tình với ai.
Trông chàng nàng mới rỉ tai: 1020.- "Trăm năm ghi tạc một lời từ đây.
"Bao nhiêu tình-tự xưa nay,
"Tóc tơ giãi một chốn này là thôi!"
Mai-sinh nhân lúc vắng người.
Gạt ngang nước mắt, bày lời trước sau:
"Nói càng như gợi cơn sầu,
"Trách vì phúc bạc xứng đâu má đào.
"Tấc lòng thề với trời cao,
"Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây.
130.- "Sẵn ngôi phi-hậu dành ngày vinh-hoa.
"Riêng ai trách lẫn trời già,
"Xe tơ sao khéo hững-hờ cợt ai."
Nàng rằng: "Lời dạy dường sai,
"Tấm thân đã phó cửa Mai những ngày.
"Sông dù cạn núi dù lay.
"Đã liền xương trắng dám thay lòng vàng.
"Đem thân đối với cương-thường.
"Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời.
"Mình nào sánh với tanh-hôi?
1040.- Mặt nào còn đứng cõi đời được ru!
"Khuyên chàng ghi nghĩa xuân-thu,
"Mối tình hãy gác, nỗi thù chớ quên.
"Cùng em cho tiện sách đèn,
"Công-danh gặp hội thanh-niên đương vừa,
"Một mai lộc nước phấn vua,
"Danh mình cũng rạng, thù nhà cũng xong.
"Thân ai đành trọn chữ tòng,
"Suối vàng tươi mát, má hồng lây thơm.
"Rồi đây kẻ bắc, người nam,
1050.- "Cành thoa xin tặng để làm của tin.
"Vật thường gọi chút làm duyên!"
Luật Đường mới ngụ một thiên giãi-bày.
Trùng-đài còn nhớ là đây,
Giã nhau gọi nhớ đến ngày biệt-ly.
Mai-sinh đôi giọt dầm-dề,
Thoa thì chịu lấy, thơ thì Man-phương
27.- Hạnh-Nguyên cải trang (câu 1057-- câu 1074)
Bâng-khuâng lời ít tình nhiều,
Thị-tì đâu đã dập-dìu kéo lên.
Cùng nhau lạy trước đài tiền,
1060.- Lần thang bước xuống, giục liền gióng xe.
Gia-hương tình nặng bề-bề,
Ải-quan đâu đã gần kề tới nơi.
Tổng-binh sửa chốn nghỉ ngơi,
Đảng-công đã dạy cho mời cải-trang.
Ngắm mình ra vẻ Man-phương,
Xiêm tơi-tả bức, áo lang-lổ mùi.
Lông cài trên mũ một đôi,
Đổi hình khuê-nữ ra người Yên-chi.
Ngựa đâu kéo đến tức thì,
1070.- Mai-sinh gần đấy phù trì lên yên.
Hình-dung ai vẽ cho nên,
Hương xa đã đổi mã yên bao giờ.
Hai chàng cảm nỗi gần xa,
Đều cùng đọc một câu thơ tiễn-hành.
28.- Lúc chia rẽ mỗi người mỗi ngả (câu 1075 - câu 1094)
Lên yên nàng cũng gửi tình,
Đọc rồi mới giục hai sinh trở về.
Ngại-ngùng thay, lúc phân kỳ,
Người về cố-quốc, kẻ đi sa-trường.
Người đồng thất, kẻ tha-phương,
Hàng châu sùi-sụt, bước đường chia đôi.
Nàng còn dặn với mấy lời:
1080.- "Thù kia chớ để đội trời ở chung.
"Sao cho tâm-lực hiệp đồng,
"M ổ gan nghịch-tặc, thỏa lòng nữ-nhi".
Xót người tú các hương khuê,
Mối tình ly-biệt, đường đi phong-trần.
Lạ tai mấy tiếng man-nhân,
Giọng xa ríu-rít giọng gần ét-eo.
Bên trời phong-cảnh đìu-hiu,
Sương soi cỏ áy, gió reo cây già.
Sắc quân hiệu-lệnh càng gia,
1090.- Tiếng còi lư-diệp, lá cờ ngô-công.
Bước đường ngày một lạ-lùng,
Tiểu-thư ngày một đau lòng biệt-ly.
Quen tài tức cảnh vịnh đề,
Trên yên mới vịnh cổ thi một bài.
29.- Hạnh-Nguyên yết đền Tô-vũ (câu 1095 - câu 1116)
Ngựa giong mấy lớp dặm khơi,
Núi cao đã thấy gần nơi điện tiền.
Thổ-binh quỳ trước thưa lên:
Núi Hà-lan ấy có đền Tô-quân,
Bước vào xem tượng truyền-thần,
1100.- Mặt tròn khuôn nguyệt, môi nhuần vẻ đan
Tấc lòng kính kẻ trung-can,
Liền tay vịnh miếu, vịnh sơn hai bài.
Lần lần gió tối sương mai,
Đường đi thoắt đã tới nơi đại hà.
Hỏi ra mới biết rằng là,
Ấy sông Hắc-thủy mộ bà Chiêu Quân.
Nàng bèn truyền gọi thổ-nhân,
Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.
Yên xong mới bảo thị-tỳ,
1110.- Đã thay Hồ-phục để chi áo này.
Ném theo một khúc sông đầy,
Hoa trôi mặt nước, bướm bay giũa dòng.
Vì đâu y-phục bất đồng,
Bỗng đem nữ sức phó cùng thủy hương.
Trông theo tấc dạ thêm càng,
Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu.
30.- Hạnh-Nguyên yết miếu Chiêu-Quân (câu 1117.- câu 1182.)
Đương trường dặm ngựa ruổi mau,
Trông lên đã thấy miếu đâu gần gần.
Trên yên dạy hỏi thổ-quân,
1120.- Thưa rằng: "Miếu ấy Chiêu Quân một tòa.
"Xuất thân từ thủa Hán-gia,
"Quyết liều đến Hắc-thủy hà trầm châu.
"Tiết-trinh khôn đổi được đâu,
"Vóc thiêng ngược nước trở đầu về nam.
"Cõi này mến chút danh thơm,
"Dựng làm miếu-vũ sớm hôm phụng thờ.
"Một phương bậc tối linh-từ,
"Kể năm, ba bốn trăm thừa đã lâu.
"Oai-linh đã khắp đâu đâu,
1130.- "Kẻ xin cứu bệnh, người cầu chiêm-bao."
Tiểu-thư nghe nói mừng sao,
Trước đền xuống ngựa, bước vào thử coi.
Nguy-nga miếu mạo hẳn-hoi,
Một tòa thần-tượng trên ngồi nghiễm-nhiên
Oai-linh vóc thánh, dáng tiên,
Lồng màn vẻ trắng, ánh đèn sắc tươi.
Son vàng mặt khảm tay ngai,
Lò trong ngát xạ, đỉnh ngoài bay hương,
Lạnh-lùng bát-ngát hơi dương,
1140.- Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai,
Nữ-đồng, võ-sĩ đủ người.
Hầu trong hai ả, chầu ngoài tám viên.
Đồ thờ cắm giá án tiền,
Một bên bảo-kiếm, một bên tỳ-bà.
Tiểu-thư lưỡng-lự một giờ,
Sụp ngồi bốn lạy xa xa tự tình.
Khấn thầm thở ngọn, than ngành:
"Nỗi chồng oan-uổng, nỗi mình truân-chiên.
"Lầm người vì chước hòa Phiên,
1150.- "Đem thân yểu-diệu tới miền hôi-tanh.
"Đánh liều bao quản tử sinh,
"Thề rằng quyết chẳng nhơ mình tiểu-man.
"Thiêng chăng thu lấy hồn oan,
"Rộng cho chầu-chực trước ban là nhờ!"
Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ,
Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao.
Hay đâu mấy bộ Công-tào,
Đã đem lời khấn tâu vào Chiêu Quân.
Phán rằng: "Mới thực hiền-nhân,
1160.- "Nặng bề sơn-hải nhẹ thân yêu-kiều.
"Bảng trời hôm nọ mới treo,
"Mai-sinh tên đã giật lèo Trạng-nguyên.
"Ngày sau phu-phụ đoàn viên,
"Nay ta hãy cứu một phen mới là."
Bèn ban nữ-sứ bước ra,
Đòi hồn nàng lại, nhủ qua ân cần.
Rằng: "Ta là Hán Chiêu Quân,
"Cứu cho cũng dự phu-nhân trinh thành.
"Rồi ra về đến quê mình,
1170.- "sau đây phu quí phụ vinh vẹn tròn.
Dạy rồi phó trả thần-hồn,
Lại đòi lực-sĩ ôn-tồn nhủ qua:
"Đón nàng khi sắp đầu hà,
"Đem về đại-quốc vườn hoa Bá Phù.
"Người Trung-châu, trả Trung-châu,
"Mặc ai trọn nghĩa, báo thù mặc ai."
Gió đâu lọt cánh cửa ngoài,
Tỉnh ra còn nhớ mấy lời chiêm-bao.
Nghĩ ra nào biết đâu nào,
1180.- Vững lòng khi dám chắc vào những đâu...
Án tiền ren-rén cúi đầu,
Bước ra lại vịnh bốn câu lưu đề.
Huyện-thành: tức huyện sở tại

Hương-đăng : hương đèn.

gia-hương: quê nhà.

cố-hương: làng cũ.

trắng tóc, nỡ nào nối dây: Trắng tóc do chữ bạch phát ; nối dây do chữ tục huyền, ý nói dù ở góa đến già cũng không lấy vợ kế.

phi-hậu: danh-từ gọi vợ vua.

cương-thường: tức tam cương ngũ thường đạo làm người phải có.

nghĩa xuân-thu: do câu Xuân-thu nghĩa tại phục-thù : Nghĩa Xuân-thu cốt ở phục-thù.

thanh-niên: tuổi xanh.

chữ tòng: tòng : theo, do chữ xuất-gía tòng phu, lấy chồng theo chồng và phụ-nhân tòng nhất nhi chung. Đàn bà chỉ theo có một chồng là hết.

một thiên giãi-bày: Nguyên văn chữ Hán của thơ Hạnh Nguyên :
Phy-thê nam bắc cách thiên giao,
Nguyện chỉ thiềm cung chước cẩm-điêu.
Trở cách nhân-duyên Hoa hạ giới .
Song song hà nhật độ Lam-Kiều.
Nghĩa là vợ chồng nam bắc cách nhau xa, xin tới cung trăng mặc áo bông gấm, cách trở nhân duyên trong cõi Hoa-hạ, Ngày nào song song sang qua cầu Lam.

họa theo: Thơ họa lại của Mai-sinh :
Mã thượng đà yên đồ lộ giao,
Vĩnh từ trung thổ phục Hồ-điêu,
Giới hà cách trở tình non tự,
Sạ đắc song song độ thước kiều.
Nghĩa là :
Trên ngựa tựa yên ruổi đường xa, vĩnh viễn từ giã nơi trung-thổ mặc áo rợ Hồ, Cách trở con sông tình khôn giãi, sao được cùnh nhau sang qua cầu ô.

cải-trang: thay đồ quần áo mặc.

Man-phương: Phương mường-mán.

khuê-nữ<: Con gái trong phòng khuê, gái nhà nền-nếp.

Yên-chi: Danh-hiệu vợ vua các nước di-địch, cũng như hậu-phi hay hoàng-hậu.

phù trì: nâng đỡ.

Hương xa: Xe thơm, xe phụ-nữ.

mã yên: Yên ngựa.

câu thơ tiễn-hành.: Thơ của Xuân-sinh :
Khả hận Đường vương tác sự sa,
An bang hà dụng nữ kiều nha.
Nghĩa là :
Khá giận vua Đường làm việc bậy,
Yên nước sao phải dùng đến con gái !
Thơ của Mai-sinh nối theo :
Phù thượng mã yên sầu bất ổn,
Xử nhân tâm tự loạn như ma.
Nghĩa là :
Nâng lên yên ngựa buồn rằng chẳng yên ổn,
khiến mối lòng bối-rối như sợi gai tơ.

nàng cũng gửi tình: Thơ của Hạnh Nguyên nối theo :
Kim nhật xuân quan phân biệt hậu,
Lệ ngân trích thấu mã đề xa .
Nghĩa là :
Ngày nay ra ải-quan sau khi chia rẽ,
Ngấn nước mắt nhỏ thấu đến chân ngựa.

cố-quốc: nước cũ

sa-trường.: Bãi cát

đồng thất: Cùng nhà.

tâm-lực hiệp đồng: Lòng và sức hợp cùng với nhau.

nghịch-tặc: Kẻ làm trái loạn, quân giặc phản bội

phong-trần: gió bụi, ví cơn loạn-ly, hay bước gian-nan lưu-lạc của con người ta.

man-nhân: Người Mán . Đây trỏ vào dân bản-xứ ở bên nước Sa-đà.

lư-diệp, ngô-công: Lư-diệp : Lá lau, có lẽ là cuộn lá cây lau lại làm còi ? Ngô-công : Con rết, cờ quăn-queo như hình con rết.

cổ thi một bài: Thơ của Hạnh Nguyên theo nguyên văn chữ Hán :
Tây phong lịch lịch bích ngô thu,
Thao thiết thanh trung xứ xứ sầu,
Mạc đạo ngô tâm đa thảm thiết,
Chinh phu bách vạn diệc đê đầu .
Nghĩa là :
Gió tây thổi rụng lá ngô-đồng báo tin mùa Thu ,
Tiếng gió xào xạc nơi nào cũng nghe buồn.
Đừng bảo chỉ riêng một mình ta thảm thiết,
Ngay trăm vạn quân-lính cũng cúi đầu ngẫm-nghĩ.

Thổ-binh: lính thổ, quân lính người thổ-trước, tức là quân của nước Sa-đà đi theo hầu đón rước Hạnh Nguyên lúc bấy giờ.

Tô-quân: tức Tô Vũ. Sứ-thần đời Hán-vũ-đế đi sứ rợ Hung-nô, bị Hung-nô giữ lại bắt đi chăn dê 19 năm mới được tha về. Thổ dân kính phục là người kiên trung, lập đền thờ ở nơi Tô Vũ chăn dê khi trước, có lẽ là núi Hà-lan ?

khuôn nguyệt, vẻ đan: Khuôn trăng ; vẻ đan : mùi son, màu đỏ.

vịnh miếu, vịnh sơn: Thơ vinh Miếu :
Ngọa tuyết thôn triên bất khẳng hàng,
Kỷ phiên cáo nhạn bả thư truyền.
Thủ trì phù tiết tồn trung hiếu,
Hận mục Hồ dương thập cửu niên.
Nghĩa là :
Nằm tuyết, nuốt lông chẳng chịu hàng ,
mấy phen bảo chim nhạn mang thư về.
Tay cầm ấn cờ giữ vững lòng trung hiếu,
chăn dê rợ Hồ 19 năm.
Thơ vịnh Sơn :
Phụng mệnh khâm-sai hoà lưỡng quốc,
Hà-lan vật tỉ Bật-lan san,
Lăng , Luật đình tiền một Phạm Lãi,
Si hồn nan tiến Nhạn-môn-quan.

đại hà: Sông lớn.

Hắc-thủy: Sông nước đen, nơi Chiêu Quân gieo mình.

y-phục bất đồng: Áo mặc chẳng giống nhau.

nữ sức: Đồ trang-sức của phụ-nữ.

thủy hương: Làng xóm dưới nước. Nơi thủy-phủ, Thủy-cung.

luật Đường bốn câu: Nguyên văn chữ Hán thơ của Hạnh Nguyên :
Trung-nguyên phục sắc hướng trung lưu.
Ái cáo Hà-thần tử tế thu,
Dục tương bạc mệnh phó lưu thủy,
Thân cận trung hoa ý bất lưu.
Nghĩa là :
Hòm quần áo Trung-nguyên đem ném xuống dòng nước.
Nhắn xin thần Hà-bá thu-nhận hẳn hoi cho.
Mong đem mệnh bạc này phó cho nước chảy,
nhưng còn gần nơi Trung-hoa chưa giải-quyết xong,

Hán-gia: Đời nhà Hán.

trầm châu:Chìm ngọc châu cũng nhu nói gieo ngọc chìm châu.

miếu-vũ: Tòa miếu thờ.

tối linh-từ: Đền rất thiêng.

Kể năm, ba bốn trăm thừa đã lâu: Kể từ đời Hán đến đời Đường.

Nữ-đồng, võ-sĩ: Trẻ gái và lính võ,

bảo-kiếm, một bên tỳ-bà: Bảo kiếm : Gươm báu ; tỳ-bà : Đàn.

tiểu-man: Mán nhỏ, tiếng gọi khinh-bỉ, đây chỉ vào vua Phiên.

Công-tào: Quan hầu, bộ-hạ.

hiền-nhân: người hiền.

Nặng bề sơn-hải nhẹ thân yêu-kiều: Sơn-hải : lời thề non hẹn biển ; yêu-kiều : Nói về thân gái mềm-mại tươi-đẹp.

phu-phụ đoàn viên: Vợ chồng sum họp vuông tròn.

nữ-sứ: Sứ-giả đàn-bà.

phu quí phụ vinh: Chồng sang trọng, vợ sung-sướng.

đầu hà: gieo mình xuống sông.

đại-quốc: Nước lớn, tức nước Tàu, tiếng gọi tôn.

Trung-châu: Nơi đồng bằng phồn hoa đô-hội, văn-vật, khác với nơi rừng rú mọi rợ - thượng-du -,

bốn câu lưu đề: Thơ đề đền Chiêu Quân của Hạnh Nguyên :
Khóa mả hòa Phiên bề quốc ơn,
Tây-phang phiêu đãng ám tiêu hồn,
Hán-gia cung khuyết kim hà tại,
Độc bả tỳ-bà xuất Nhạn-môn.
Nghĩa là :
Nhảy ngựa đi hòa Phiên báo ân vua
gió Tây lay động làm tiêu-tan cả hồn-vía,
cung-điện nhà Hán nay còn đâu,
chỉ còn văng vẳng tiếng đàn tỳ-bà ngoài cửa Nhạn.

31.- Đến Lạc-nhạn-đài, Hạnh-Nguyên gieo mình (câu 1183 - câu 1240)
Lên yên gióng ngựa ra đi,
Núi cao đã thấy hầu kề tới nơi.
Hỏi tên là Lạc-nhạn-đài,
Trùm mây mờ-mịt, nhất trời bông-lông,
Nàng rằng: "Tích trước ghi lòng,
"Chiêu Quân gửi nhạn thư phong chốn này.
"Đường đi nhân tiện qua đây,
1190.- "Nhắn chim, bắt chước chuyện ngày ấy chơi."
Kíp truyền man tốt mấy lời,
Dọn đường núi nhạn, kíp dời gót loan.
Phò nàng ngồi kiệu đăng san
Hai nàng thị-nữ, một đoàn phiên binh.
Bước cao bước thấp gập-ghềnh,
Quăn-queo đuôi chuột, chênh-vênh tai mèo.
Nương đá quạnh, vịn cành oeo,
Chim xào-xạc lá, vượn reo-rắc cành.
Sẵn-sàng cảnh vật chung quanh,
1200.- Phong đồn mở phạt, mây xanh buông màn.
Bước lên tuyệt đỉnh tàn tàn,
Trông dường chật đất, với toan đến trời.
Mặt sau lần bước len chơi,
Nhìn đâu bỗng thấy một nơi có đầm.
Mắt mèo trong vắt nổi tăm,
Rắn quằn-quại khúc, mãng nhăm-nhắp hàm.
Cheo-leo sườn núi trông sang,
Khe kia suối nọ ngổn-ngang mấy trùng.
Nửa ngày nổi trận âm phong.
1210.- Phất-phơ lật lá, lạnh-lùng thấu xương.
Đất đâu sơn thủy lạ dường ?
Ngẩn-ngơ mình những cảm thương nỗi mình.
Xót thay đôi đức sinh-thành,
Biết bao nguôi được chút tình nhớ-thương.
Một ngày một ngả bóng tang,
Da mồi sạm mặt, tóc sương điểm đầu.
Biết nhau, thêm dở-dang nhau,
Quen hơi bén tiếng bao lâu mà rằng!
Ấy ai chấp mối xích-thằng,
1220.- Biết mà dứt chỉ, thà đừng vương tơ.
Như lời thần mộng họa là,
Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh.
Đường cùng giữ lấy thơm danh,
Thôi thì gác hiếu với tình một bên.
Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền,
Nữa khi nước đến, e nên cát lầm.
Tấc lòng cả quyết khôn cầm,
Tấm thân phó mặc dưới đầm sâu sâu.
Thị-tỳ trông trước nhìn sau,
1230.- Nàng đà gieo ngọc trầm châu bao giờ.
Ai ngờ ra sự chẳng ngờ,
Phiên-binh nhớn nhác, nhớn-nhơ một đoàn.
Bảo nhau sắp sẵn mưu gian,
Cải-trang bắt lấy thúy-hoàn để thay.
Miệng bình bưng kín ai hay.
Chăm chăm giục ngựa mấy ngày trẩy sang.
Hấp-him thay nhẽ,Man-vương,
Hững hờ nào biết rằng nường hay ai.
Thúy-hoàn riêng được hẳn-hoi,
1240.- Đổi hình tỳ-thiếp, thay ngôi phi-tần.
32.- Hạnh-Nguyên được đưa về nhà Châu bá Phù (câu 1241 - câu 1272)
Mới hay trời với giai-nhân,
Được riêng chữ tiết, nắm phần chữ danh.
Làm cho chán nỗi thử thanh,
Trải bao nạn trước, mới dành phúc sau.
Tiểu-thư từ xuống đầm sâu,
Hồng-vân một đóa đón đâu nửa chừng,
Ào ào tiếng gió lay rừng,
Giữa trời vũ giá vân đằng đem đi.
Mấy lời thần-mộng xa nghe:
1250.-"Ta đây vâng mệnh đưa về Trung-hoa!"
Giờ lâu bỗng thấy chân sa,
Nhìn thôi mới rõ một tòa danh viên.
Canh khuya văng-vẳng bốn bên,
Thôi năn-nỉ khóc, lại rền-rĩ than.
Tỉnh mê riêng những bàn-hoàn,
Nào non nước tá ? ủy ! vườn tược đâu ?
Chẳng hay là đất Trung-châu,
Nhà quan Ngự-sử là Châu Bá Phù.
Ông đương thượng lỵ Đông-đô,
1260.- Để lưu con gái với phu-nhân nhà.
Tiểu-thư vả bậc tài-hoa,
Khuê-phòng tiểu-tự gọi là Vân-Anh.
Đốt hương vừa buổi đêm thanh,
Nghe đâu ti-tỉ như hình tiếng ai.
Giờ lâu truyền gọi con đòi,
Soi đèn xem thử có người đâu đây.
Tiểu-hoàn vâng lệnh ra ngay,
Soi xem bỗng rụng-rời tay, trở về.
Rằng :"Người đâu của dị-kỳ ?
1270.- "Đỉnh đầu lông hổ, vằn-vè áo lưng.
"Ở đâu về đấy nhưng-nhưng,
"Ấy rằng quỉ-sứ, hay rằng hồ-tinh!
33.- Hạnh-Nguyên trần tình với Châu phu nhân (câu 1273 - câu 1300)
Một nhà sào gậy xúm quanh,
Hạnh-Nguyên mới bạch thực tình trước sau.
Thấy người phong-điệu cửa hầu,
Dạy cho vào đến trước lầu hỏi-han.
Hạnh-Nguyên mới hỏi nguồn cơn :
Nỗi nhà tách-bạch, nỗi oan rạch-ròi
Hòa Phiên khi đến nước ngoài,
1280.- Miếu thần ứng mộng, nhạn-nhai gieo mình.
Phép thiêng cải tử hoàn sinh,
Ở hiền may gặp lại lành đến đây.
Phu-nhân rằng: "Ấy mới hay,
"Thế-gian cũng có sự này lạ ghê.
"Thần còn cứu kẻ nhân-nghì,
"Dễ hầu người chẳng liệu bề xót nhau ?
"Ở đây chẳng ngại chi đâu,
"Cho làm nghĩa-nữ bạn hầu tiểu-thư.
"Rồi sau nhắn bảo mẹ cha,
1290.- "Trời cho khi dễ, họa là gặp nhau."
Hạnh-Nguyên vâng mệnh trước sau,
Sụp ngồi nàng mới gật đầu mấy phen.
Vân-Anh từ được bạn hiền,
Yêu bên chữ sắc, trọng nhau chữ tài.
Hai người như thể một người,
Ngang tay tú-các sánh vai lan-phòng.
Dệt thêu, học lẫn nữ-công,
Lúc chia hoa ướp, khi chung phấn giồi.
Hạnh-Nguyên khi đứng khi ngồi,
1300.- Khóc thầm trong vắng, gượng cười ngoài sân.
34.- Cùng đi lánh nạn, Mai-sinh và Xuân-sinh lạc nhau (câu 1301 - câu 1322)
Nàng đà được chốn an thân,
Xót thay chàng Bích, chàng Xuân hai người.
Ai-quan chân chửa kịp dời,
Mã-bài đã có chỉ đòi Đảng-công.
Chẳng ngờ Lư Kỷ tấu trong,
Thiên-lao đã bắt vợ chồng Đông Sơ.
Hai chàng còn tiễn tiểu-thư,
Cũng ban mật-chỉ truyền cho bắt về.
Đảng-công chống-chế mọi bề,
1310.- Cấp thêm hành lý giục đi lánh mình.
Cùng nhau hai gã thư-sinh,
Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa.
Trời hôm xế bóng tà-tà,
Côn-quangđâu bỗng gặp ba bốn người.
Lòng tham còn biết thương ai,
Cướp hành-lý hết, áo ngoài sạch không.
Tạm ngồi trước miếu bên sông,
Thuyền quan nghe có thùng thùng trống canh.
Nghi cho là kẻ gian tình,
1320.- Nghe hơi kéo một đạo binh lên bờ.
Xuân-sinh kíp lánh đường xa,
Bắt liền Mai Bích mới đưa xuống thuyền.
35.- Mai-Sinh gặp Phùng-lạc-Thiên (câu 1323 - câu 1368)
Chàng bèn cất mặt trông lên,
Thấy trong khoang giữa, ngồi nền một ông.
Mấy lời sang sảng tiếng đồng:
"Tên kia sao dám cả lòng mưu gian ?"
Sinh rằng: "Đâu dám to gan,
"Đèn trời xin thấu nỗi oan cho người.
"Tôi cùng người bạn anh tôi,
1330.- "Tìm người thân-thích lạc loài đến đây.
"Nào ngờ gặp sự chẳng may,
"Dám xin xét tấm lòng ngay được nhờ."
Ông xem ra dáng con nhà,
Truyền đem nghiên-bút thử và câu chơi.
Chàng vâng lĩnh bút đề bài,
Viết xong Chế-nghệ một bài nộp đi.
Ông rằng: "Nhục nhỡn nan tri,
"Thứ cho thì chớ, dù chê dám nài.
"Bước lên xin hãy tạm ngồi,
1340.- "Áo đưa một cặp, ngắn dài quản chi.
"Họ tên sao đấy ? Ở quê xa gần ?"
Dằn lòng, sinh những ngại-ngần,
Giả danh rồi sẽ nghe dần về sau.
Thưa rằng: "Xin kể gót đầu,
"Tên Vinh họ Mục, Thường-châu là nhà."
Ông rằng: "Quê đấy chẳng xa,
"Có quen Mai-thị cùng là ai không ?
Sinh rằng: "Cùng ở môt vùng,
1350.- "Bạn-bè cũng biết có công-tử chàng.
"Từ khi gặp biến phi thường,
"Chẳng hay đâu đấy tìm phương lánh mình.
"Tôi nay vâng đẹp duyên bình,,
"Xin tường quí tính, đại danh, được nhờ."
Ông rằng: "Cũng chẳng đâu xa,
"Ở Giang-nam tỉnh, tên là Lạc Thiên.
"Cách quan về việc bình Phiên,,
"Rày vâng khai-phục, ra miền Ngọc-kinh."
Đêm khuya trống đã sang canh,
1360.- Truyền đem gối đệm, nghỉ mình khoang trong.
Mấy tuần thuận bến xuôi giòng,
Mui bồng trăng tối, buồm dòng gió trưa.
Quan lão-luyện, khách tài hoa,
Cuộc cờ trên lái, đường tơ dưới lèo.
Mây buổi sớm, nước ban chiều,
Thơ ngâm ngoài mạn, rượu kèo trong khoang.
Kinh-thành mong-mỏi tấc gang,
Chìu lòng nước cũng bằng dường như tên.
Lạc-nhạn-đài: Đài nhạn sa.

đăng san: Lên núi, một thứ kiệu hai hay bốn người khiêng, để lên dốc xuống dốc lúc lên núi cho khỏi phải leo trèo vất vả, gọi là " kiệu đăng san ".

tuyệt đỉnh: đỉnh núi

âm phong: Gió ẩm thấp, gió có âm-khí (hơi âm).

sơn thủy: Núi sông, thủy-thổ, khí-hậu.

sinh-thành: Sinh đẻ, gây-dựng, trỏ vào cha mẹ.

bóng tang: Tức bóng dâu (xem chú thích ở trên)

xích-thằng: Dây đỏ (xem chú-thích ở trên)

thần mộng: Lời thần báo mộng,

lai sinh: Kiếp sau.

Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền: Chấp kinh : giữ đạo thường. Tòng quyền : tùy theo hoàn-cảnh mà xử trí cho xong việc. Ta thường nói quyền nghi hay quyền-biến cũng là nghĩa tòng quyền.

Man-vương: Vua Mán, trỏ vua nước Sa-đà.

tỳ-thiếp, phi-tần: Tỳ-thiếp : Con hầu ; phi tần : vào bậc cung-phi, cung nhân.

giai-nhân: cũng đọc là nhai-nhân : người đẹp, trỏ vào đàn bà con gái, phái nữ-lưu.

Hồng-vân: Đám mây đỏ.

vũ giá vân đằng: Cỡi gió đè mây, cũng như nói đi mây về gió, nói về sự biến-hóa của quỉ thần.

danh viên: Vườn có tiếng, khu vườn rộng, vườn đẹp.

Ngự-sử là Châu Bá Phù: Ngự-sử : một chức quan ở Kinh và các đạo, coi việc giám-sát chính-trị. Châu Bá Phù : Về phe trung

thượng lỵ Đông-đô: Đương làm quan ở Đông-đô.

Khuê-phòng tiểu-tự gọi là Vân-Anh: Tên lúc bé ở nơi khuê phòng gọi là Vân Anh.

phong-điệu cửa hầu: Bởi chữ Hầu môn phong điệu, tính cách nhà quan.

cải tử hoàn sinh: Đổi chết làm sống lại.

nghĩa-nữ: Con gái nuôi.

tú-các: Gác thêu, buồng thêu, nơi thêu-thùa của bọn nữ-lưu.

lan-phòng: Buồng lan, buồng thơm như hoa lan, tiếng nói lịch sự chỉ chỗ bạn gái ở.

nữ-công: Việc làm bằng tay chân của phái nữ-lưu như thêu-thùa, may-vá, nấu-nướng.

Mã-bài: Bài ngựa. Đời xưa có việc quan gì khẩn-cấp, thì viết bài cho lính chạy ngựa đi báo, cũng như hỏa bài.

Thiên-lao: Nhà ngục giam người có tội.

mật-chỉ: Lệnh kín, chỉ-dụ bí-mật của nhà vua hay của quan.

hành lý: Đồ vật đem đi đường.

thư-sinh: Học-trò, người đọc sách.

Côn-quang: Nghĩa đen là gậy gộc, trỏ vào hạng vô lại, đầu trộm đuôi cướp, hay du-côn.

Chế-nghệ: Tiếng gọi về lối kinh-nghĩa hay tinh-nghĩa một lối văn 8 vế quen gọi là văn bát cổ ngày xưa dùng để thi-cử,

Nhục nhỡn nan tri: Mắt thịt khó biết.

duyên bình: Bình đây là bình phong, một bức ngăn để chắn gió. Ngày xưa Mạnh thường Quân tiếp khách, vẫn có người thư-ký ngồi bên trong bức bình phong để biên chép. Chữ "duyên bình" trong câu này do tích ấy, ý nói là dự vào hàng thư-ký.

quí tính, đại danh: Lời hỏi lịch-sự cũng như nói "họ tên ngài".

bình Phiên: Giẹp nước Phiên- Lư Kỷ chủ hòa, Phùng-công chủ chiến, khác ý nhau nên Phùng bị cách quan.

khai-phục: Được phục chức.

 36.- Mang tên Mục-Vinh, Mai-sinh về giúp Châu-bá-Phù (câu 1369 - câu 1396)
Bỗng đâu một chiếc kề bên,
1370.- Hỏi ra mới biết là thuyền Châu-công.
Gặp nhau kể hết sự lòng,
Họ Châu môn-đệ họ Phùng ân sư.
Châu-công rằng: "Lẽ gọi là,
"Kính dâng một lễ, gọi đưa tấc thành.
"Hà-namvâng mệnh tuần-hành,
"Một phương xích-tử triều-đình trong tay.
"Những là lo-lắng đêm ngày,
"Dưới màn ai kẻ đỡ thay tờ bồi.
"Ân-sư liên-hữu có ai,
1380.- "Môn-sinh xin được một người là may !"
Phùng-công rằng: "Đã sẵn đây !
"Mục-Vinh gặp mấy buổi nay cũng kỳ.
"Văn-chương tài-mạo ai bì,
"Có chăng là một chữ "thì " kém ta.
"Cánh bằng khi gặp gió xa,
"Tung mây chưa biết lên đà đến đâu,
"Nhân-duyên may gặp được nhau,
"Việc nha xem đỡ, ta sau sá gì."
Hai ông trò-chuyện dã-dề,
1390.- Mới đem họ Mục đưa về Châu-công.
Của đưa gọi chút lấy lòng,
Một hòm tân-phục, hai phong nhật trình
Tiễn rồi lại dặn Mục-Vinh :
"Trượng-phu xin chớ quản tình biệt-ly."
Yên xong trở mũi thuyền đi,
Kẻ thì phó lỵ người thì tiến kinh.
37.- Tình cảnh Xuân-sinh sau khi lạc bạn (câu 1397 - câu 1426)
Thương thay còn một Xuân-sinh,
Liền đêm hôm ấy lánh mình xa xa.
Sáng ngày thức dậy nhớ ra,
1400.- Sơn-đông quen một người là Thái Câu.
Xưa từng lỵ-phủ Nhiêu-châu,
Cách quan nghe mấy năm sau ở nhà.
Hỏi thăm tìm đến hỏi qua,
Cửa ngoài đã thấy có tờ biên-phong.
Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung,
Chứng cho một án giao-thông giặc ngoài.
Xuân-sinh thấy sự kíp dời,
Một mình mặt đất, chân trời bơ-vơ.
Than rằng thung cỗi huyên già,
1410.- Thiên-lao biết có bao giờ biện oan.
Người tuổi-tác, khách cô-đan
Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai ?
Xót ai thui-thủi phương trời,
Hồng-nhan khi đã ra người cửu-nguyên.
Hiếu tình đeo nặng hai bên,
Dặn dò những chắc chu-tuyền có ta,
"Mai-kha ơi, hỡi Mai-kha,
"Rời nhau một bước nên xa mấy trùng.
Một đêm sương tuyết lạnh-lùng
1420.- "Khỏi chăng ? hay đã mắc vòng trần ai?
"Thương thay trung-nghĩa mấy người,
"Kẻ thì oan thác người nơi ngục hình.
"Trách vua Đường, ở bất minh,
"Dung bên gian-đảng mà khinh hiền-tài."
Bên lòng trăm mối bời bời,
Trông ra một nước một trời mênh-mông.
38.- Xuân-sinh trẫm mình được ngư bà cứu sống (câu 1427 - câu 1460)
Tử sinh xem nhẹ lông hồng,
Quyết liều, sinh đã gieo sông bao giờ.
Hay đâu khéo cũng may mà,
1430.- Gần đâu đấy, có ngư-gia đóng thuyền.
Giăng chài vớt được chàng lên,
Tỉnh dần, trông rõ hai bên ngồi nhìn.
Trẻ-già một lũ cạn khan,
Đầu cành-cạch tóc, mình nhờn-nhợt da.
Ngồi bên thuyền chủ một bà,
Kề bên một ả mặt hoa tót vời.
Ngồi trông ra rõ mặt người,
Thương ôi ! sao nỡ bỏ hoài tuổi xanh !
Ở đâu mà đến chài mình,
1440.- Hãy còn im-ỉm khí sinh lạ đời.
Thay quần đổi áo tơi bời,
Ngư-bà mới hỏi mấy lời trước sau:
"Chẳng hay quê, họ nơi đâu ?
"Gặp nhau xin tỏ cho nhau biết cùng
"Làm sao mà phải gieo sông?
"Hay là tội-lệ cát hung thế nào ?"
Xuân-sinh mới kể gót đầu:
"Quê tôi ở huyện Thường-châu cũng gần.
"Cha làm quan, họ là Trần,
1450.- "Chẳng may mắc phải gian-thầnvu oan,
"Tâu vua bắt chị hòa Man,
"Thiên-lao lại bắt thung-đường phó giam.
Tôi tiễn chị tôi xuất quan,
"Bỗng nghe mật-chỉ sai quan nã về.
"Vậy nên tôi phải lánh đi,
"Chẳng may gặp lũ gian-phi giữa đường.
"Than ôi ! đương hợp mà tan,
"Một mình tránh khỏi nguy-nàn tới đây.
"Cả liều nào quản vơi đầy,
1460.- Phúc sao, may khéo là may, gặp người."
39.- Ngư bà hứa gả con gái nuôi cho Xuân-sinh (câu 1461 - câu 1534)
Ngư-bà nghe bấy nhiêu lời,
Nhủ rằng: "Thôi cũng có trời chẳng không !
"Năm xưa vớt được giữa dòng,
"Một hòm âm-ấp những vòng với thoa.
"Khen thầy nó dặn lão-bà,
"Để cho con gái tên là Ngọc Thư.
"Gặp ông thầy số năm xưa,
"Đoán cung-mệnh cháu khen bà phu-nhân.
"Gạo công, đòi đủ trăm cân,
1470.- "Khen đi, khen lại phu-nhân khác thường,
"Bây giờ may vớt được chường.
"Mà xem tướng-mạo đường đường dáng quan.
"Hẳn rằng thiên địa tuần-hoàn,
"Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài.
"Nên nay lại vớt được người,
"Hai phen vớt được một đôi rõ-ràng.
"Thôi đừng quản thiệt tham hơn,
"Băn-khoăn kén cá, phàn-nàn chọn canh.
"Ngọc Thư cho két duyên lành,
1480.- "Họa là phu quí phụ vinh kịp ngày.
"Được như số đoán là may,
"Vong-hồn cũng thỏa đến thầy nó xưa."
Xuân-sinh nghĩ đã chót nhờ,
Vả xem phong-dạng Ngọc Thư ra tuồng.
Thưa rằng: "Chút phận tha hương,
"Đã thương yêu đến, dám ruồng-rẫy ru !
"Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,
"Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa."
Bà mừng, kíp gọi Ngọc Thư,
1490.- Một lời đã định phải ra chào mời.
Thẹn-thùng lững-thững chân dời,
Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường.
Quả nhiên nhan-sắc dị thường,
Mai hình tú bộkhác thường ngư-gia.
Khi vui nảy phút hứng thừa,
Khen thầm trong bụng nên thơ một bài.
Thấy chàng, nàng cũng mừng vui,
Dáng người thanh-thú, vẻ người văn-chương.
Chắc rằng có phận giàu-sang,
1500.- Hứng lòng cũng ngụ luật Đường bốn câu.
Dần-dà quen thuộc bấy lâu,
Mới hay nương-tử họ Châu ấy là.
Nực cười thay ! thú ngư-gia,
Sớm qua Tầm-thuỷ, tối về Hàn-san.
Ca chèo, nhịp nhặt, nhịp khoan,
Trăng lòn sau lái, gió đàn trước song.
Bốn mùa mặt nước sinh nhai,
Lưỡi câu, sợi chỉ, tay chài mặt sông.
Mặc ai danh-lợi trong vòng,
Xiêm vằn-vặn lưới, đai long-lỏng thừng,
Thoi đưa nấn-ná ba đông,
1510.- Trải phần đông-quí, sang chừng xuân qua.
Tết trung náo-nức gần xa,
Neo thuyền giặt lưới, giăng bè dựng nêu.
Ngư-bà mới bảo Ngọc Kiều,
Mượn điềm bói cá thay gieo tú cầu:
"Lưới này như được cá đầu,
"Duyên con thì định xuân sau kén ngày.
"Ví bằng ba lưới không tay,
"Thành thân thong-thả sau này sẽ hay."
Bàn rồi chia việc làm ngay,
1520.- Kẻ buông tay lưới, người gay cột chèo.
Cầm sào chàng cũng đẩy theo,
Ngọc Thư đỡ lấy có chiều lần-khân.
Lạ gì đôi lứa vừa xuân,
Ai hay rơm bén, lửa gần với nhau ?
Ngư-bà liếc thấy vừa hai,
Nghĩ thầm chuyện ấy có người, có ta!
Người yểu-điệu, kẻ tài-hoa,
Khi vào sát áo, khi ra chạm quần.
Nghe nặng lưới, kẻo lên dần,
1530.- Lý-ngư đâu đấy trần-trần một đôi.
Sinh rằng: "Ăn những ngồi rồi,
Này xin đem bán chợ chơi một lần"
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà cho trải với thế-nhân đủ điều.
40.- Cướp gái đẹp Giang-Khôi bị phạt (câu 1535 - câu 1624)
Chàng vừa đi khỏi chợ chiều.
Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.
Trên mui ngồi tốt một người,
Nghênh-ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.
Một thuyền vâng dạ đã rân,
1540.- Tiểu-hầu, đầy tớ một đoàn như rươi.
Khoe-khoang một tấc đến trời,
Quần hồ sột-soạt, áo mồi trai lơ.
Trông sang nhác thấy Ngọc Thư,
Xúm quang,rắn ếch, bướm hoa, động lòng.
Đặt ra một mẹo hư không,
Bạc năm mươi lạng một phong sẵn-sàng.
Giao cho đầy tớ đưa sang,
Mua làm tiểu-thiếp, mong đường ép duyên.
Thuận lòng bao quản sang hèn,
1550.- Tam-bành bà đã nổi lên một hồi.
Ngọc Thư ngấm-nguýt một hai,
Trong khi quá giận, lắm lời sam-sưa.
Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,
Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.
TIếng nàng kêu dậy giang khê,
Một đoàn thuyền-hộ kéo bè la om.
Vác sào quơ gậy ỳ-òm,
Lao-xao nổi tép nổi tôm một vùng.
Lời thô tiếng tục như ong,
1560.- Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.
Bàn dày, bàn mỏng giờ lâu,
Xuân-sinh trong chợ may đâu vừa về
Can rằng: "Xin hãy im đi,
"Khôn không qua lẽ, phép thì có quan."
Bảo nhau tìm chốn kêu oan.
Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư-nhân.
Bước đi bóng đã xế dần,
Nửa đường gặp lũ quan-quân dài dài.
Đèn lồng trước kiệu hàng hai,
1570.- Hiệu đèn Đề-đốcchữ nhồi nét son.
Giữa đường quì xuống kêu dồn.
Nghe truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.
Thưa rằng: "Chút phận ngư-gia,
"Gặp chàng công-tử, họ là họ Giang.
"Khinh người hèn, cậy mình sang.
"Lấy điều thân-thế, toan đường hiếp ai.
"Kề thuyền cướp lấy vợ người,
"Chuyện này, muôn đợi đèn trời xét cho.
"Cao-minh xin thứ dân ngu,
1580.- "Vội-vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ."
Lệnh quan một tiếng truyền ra :
"Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường.
"Tên này phong-dạng ra tuồng,
"Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư-gia!"
Kịp truyền tới bến đại hà.
Bắt Giang công-tửvề nha tức thì.
Nguyên-đơn cũng bắt đem về,
Kiệu đi một lúc đã kề đại-doanh
Hiên-mônvẽ hổ trước bình,
1590.- Giáo thăm-thẳm dóng, quân sình-sịch hơi.
Thung-dung xuống kiệu sảnh ngoài,
Tiếng loa thị-sự, hồi còi thu quân
Hầu bên hai dãy biền-thân,
Nệm trăm-trắm trải, nến rần-rật giong (chong ).
Ngậm tăm lặng ngắt như không,
Trại ngoài điểm trống, dinh trong đóng kèn.
Một vòng quân khảo như nêm
Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.
Giao canh trống mới sang hai,
1600.- Phạm tù đã thấy lôi-thôi điệu về.
Giang Khôi dường cũng khiếp uy.
Liếc trông mặt sắtlặng nghe tiếng đồng.
Quở rằng: "Cậy thế thị hùng,
"Ra ngoài văn-pháp vào trong dâm-tà.
"Án này cứ miệng ngư-gia,
"Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa ?"
Kiên gan Khôi cũng lôi-la,
Rằng mua rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.
Rồi ra chứng-tá phân minh,
1610.- Dường cưng-cứng lưỡi, dường quanh-quẩn lời.
Quan-môn biết sự chẳng sai,
Lấy điều nhỏ-nhặt truyền đòi Ngọc Thư.
Hỏi ra mới biết rằng là:
"Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn!"
Đòi Giang tri-phủ quở dồn:
"Khen làm dân-mục dung con bất tài.
"Mắt trông tay trỏ đủ mười,
"Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che.
"Tội con phạt bốn mươi bê,
1620.- "Cha đà biết tội tha về lượng cho.
"Nguyên-đơn một lũ họ Châu,
"Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong."
Truyền cho ở lại nha-phòng,
Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu.
môn-đệ: Học-trò hay là người chịu ơn, thuộc viên cũng xưng được là môn-đệ.

ân sư: Thày dạy, người chấm trường cho đỗ cũng gọi là ân-sư.

Hà-nam: Một tỉnh bên Tàu. Tỉnh lỵ là huyện Khai-phong bây giờ.

tuần-hành: Đi tuần xét phong-tục chính-trị, cũng như kinh-lý.

xích-tử: con đỏ, trỏ vào dân-chúng địa-phương.

Văn-chương tài-mạo: Chữ nghĩa tài hoa và bóng dáng người.

Cánh bằng: Con chim to, nói bóng về công danh bay nhảy (xem chú thích ở dưới)

tân-phục: Quần áo mới.

nhật trình: Đồ hành-lý đi đường.

phó lỵ: Đến chỗ làm quan đây trỏ Châu-công.

tiến kinh: Lên kinh, đây trỏ Phùng-công.

Nhiêu-châu: Tên một phủ thuộc tỉnh Giang-tây. Bây giờ là huyện Phiên-dương.

biên-phong: Tịch-biên và niêm-phong, nhà có tội người bị bắt, gia-sản bị tịch-biên, nhà cửa bị niêm-phong.

biện oan: Phân-trần cho rõ sự oan-uổng.

cô-đan: Lẻ-loi, một thân một mình, cô đơn.

Hồng-nhan: Má hồng, câu này nói về Hạnh Nguyên, chị gái của Xuân-sinh phải đi cống Hồ, chả biết còn hay đã chết.

chu-tuyền: chữ chu-tuyền đây có nghĩa là săn-sóc.

Mai-kha: Anh họ Mai, trỏ Mai-sinh.

trần ai: Bụi-bậm, chữ trần-ai đây có nghĩa là nơi hiểm-nghèo.

oan thác: Chết oan, trỏ Mai-sinh.

ngục hình: Phải giam-cầm, trỏ ông bà Trần-công.

bất minh: Không sáng-suốt.

gian-đảng: Đảng gian-nịnh.

hiền-tài: Bậc hiền-lành, tài giỏi.

lông hồng: bởi chữ Hồng-mao, lông chim hồng, thứ lông rất nhẹ.

khí sinh: Bởi chữ sinh-khí : Hơi sống.

gian-thần: Bầy tôi gian-nịnh.

hòa Man: Hòa với rợ Man tức nước Sa đà.

phó giam: Bắt giao giam giữ tại ngục.

Ngọc Thư: Sau là chính-thất của Xuân-sinh.

thiên địa tuần-hoàn: chữ tuần-hoàn đây có nghĩa như giong-ruổi.

Mai hình tú bộ: mai hình : vóc mai ; Tú bộ : gót thêu . thủa xưa con gái Tàu ưa thân hình mảnh-khảnh và bó chân, đây nói về tướng người con gái lịch-sự bóng-bảy thanh-thấu.

nên thơ một bài: Thơ của Xuân-sinh :
Quốc-sắc thiên tư khởi tại trang,
Bố quần ngư tráo thắng nghê-thường.
Nhược xuyên hoàn-bội nghinh phong lập,
Nghị thị Hằng-nga hạ thử phương.
Nghĩa là :
Sắc đẹp thiên-nhiên không phải ở đồ trang-sức,
quần vải lưới cá hơn cả nghê-thường,
nếu đeo vòng xuyến mà đứng trược gió,
thì ngờ là ả Hằng-nga đã giáng-hạ nơi này.

luật Đường bốn câu: Thơ của Ngọc Thư :
Cốt cách thanh kỳ thực khả khoa,
Thân xuyên ngư phục tác ngư gia,
Nhược đắc xuân bôi long báo tín,
Bất thì thượng-uyển hảo khan hoa.
Nghĩa là cốt cách thanh-nhã lạ-lùng thực đáng khoe, vì mình mặc áo chài nên làm nhà thuyền chài. Nếu được tiếng sấm mùa xuân rồng báo tin, bất thần có lúc xem hoa tại vườn Thượng-uyển.

Sớm qua Tầm-thuỷ, tối về Hàn-san: Tầm thủy : Sông Tầm, bên Tàu có hai con sông là Tầm-giang thuộc tỉnh Quảng-tây và Tầm-dương thuộc tỉnh Giang-tây, nơi Bạch-cư-Dị bị biếm.
Hàn-san : Tên một ngôi chùa ở ngoài thành Cô-tô thuộc tỉnh Giang-tô bên Tàu. Chữ Tầm-tủy và Hàn-san trong câu này, chỉ là mượn tên để nói về cảnh sông nước.

đông-quí: Cuối mùa đông.

Ngọc Kiều: tức Ngọc Thư.

tú cầu: quả cầu bằng vóc. Tục kén rể bên Tàu : Con gái ngồi trên lầu tung quả cầu xuống, ai nhặt được là trúng tuyển.

Lý-ngư: Cá chép.

rắn ếch, bướm hoa: Câu này ý nói thấy gái đẹp như rắn thấy ếch, như bướm thấy hoa.

Tam-bành: Ba vị hung-thần trong mình người ta hay xui giục người nổi cơn giận dữ.

Khuyển, Ưng: Khuyển : chó ; Ưng : chim cắt. chó săn chim cắt là hai vật dữ tợn, dùng ví với bọn đầy tớ hung tợn đắc lực.

giang khê: Đây trỏ nơi sông bến.

thuyền-hộ: Đây trỏ về dân chài lưới.

ngư-nhân: Người thuyền chài, người đánh cá.

Đề-đốc: Một chức quan về ngành võ quan cao cấp.

Giang công-tử: Công-tử họ Giang tức Giang Khôi.

Nguyên-đơn: người đứng tên trong đơn đi kiện, tục quen gọi là bàn nguyên.

đại-doanh: Dinh lớn, đại bản-doanh, nơi võ-quan đóng.

Hiên-môn: hay viên môn : Quan tướng đóng đâu có xe chất lên làm cổng, gọi là viên-môn.

sảnh: tức sảnh đường : Một nơi dinh-thự to, nơi công đường.

thị-sự: Coi việc : tức là buổi xét xử công việc quan.

biền-thân: Nha lại, thuộc viên.

Phạm tù: Kẻ can-phạm

Giang Khôi: tức kẻ bị cáo.

mặt sắt: bởi chữ thiết diện. Nói về ông quan nghiêm-nghị, đanh thép, không tư-vị ai.

Quan-môn: cửa quan.

Giang tri-phủ: Quan Tri-phủ họ Giang, bố Giang Khôi.

dân-mục: Người chăn nuôi dân, tức là quan đầu hạt.

bất tài: Chẳng có tài, mất nết, chữ bất tài đây có nghĩa là nết xấu.

Mắt trông tay trỏ đủ mười: Câu này bởi chữ thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ : Mười mắt cùng trông, mười tay cùng trỏ.

bốn mươi bê: có lẽ là 40 trượng hay 40 roi.

họ Châu: Họ của Ngọc Thư.

nha-phòng: Nơi phủ-nha.

41.- Xuân-sinh gặp gỡ Khâu đề-đốc (câu 1625 - câu 1708)
Ai hay sự bởi vì đâu,
Quan Đề-đốc ấy, họ Khâu gọi là.
Hiếm-hoi mới được mộng xà,
Vân-Tiên một gái mặt hoa khuynh-thành.
Cũng trong họ Mạc chung quanh,
1630.- Vốn là cậu ruột Mai-sinh đấy mà!
Từ khi khởi nạn Mai-gia,
Phu-nhân sang đó nương nhờ bấy lâu.
Cách đêm vừa sáng hôm sau,
Buông rèm hỏi lũ họ Châu xem tình.
Ngư-bà đâu dám giấu quanh,
Mới đem sự-tích Xuân-sinh kể bày.
Sốt lòng ông mới dạy ngay,
Hãy đem tên rể vào đây hỏi tường.
Xuân-sinh thấy sự rõ ràng,
1640.- Bấy giờ chàng kể nỗi chàng đầu đuôi:
Từ khi gặp-gỡ họ Mai,
Khi toan xe chỉ, khi đòi xuất quan.
Khi lánh nạn, lúc nghe oan,
Cùng Mai-sinh, nỗi hợp tan mấy lần.
Chàng vừa kể hết xa gần,
Mai phu-nhân bỗng khóc lăn dưới thềm,
Cầm tay chàng mới nhìn xem một giờ.
Dạy rằng: "Gang tấc nên xa,
1650.- Thế mà già vẫn còn ngờ rằng ai!"
Khâu-công rằng: "Hãy khoan thai,
"Dám xin mời cả vào ngồi nhà trong.
"Thay quần đổi áo yên xong,
"Rồi ta sẽ kể sự lòng với nhau."
Ngư-bà chưa rõ gót đầu,
Thôi bâng-khuâng nghĩ, lại chầu-hầu trông:
"Ủy, sao nhà kiện, cửa công,
"Ra tình nhìn-nhận, ra lòng yêu-thân?
"Thư-phòng rót chén tẩy trần.
1660.- Một ông với một chàng Xuân bàn-hoàn,
Kể lòng mấy chuyện hợp tan,
Nhà trong cũng mở một bàn tiệc hoa.
Ngôi trên dường tuổi Ngư-bà.
Hai phu-nhân với tiểu-thư hai người.
Nhìn lâu ngợp mắt làng chài,
Mâm vàng chồng-chất, chén mồi đầy-vơi.
Hải vị tốt, yến sào tươi,
Khác màu nấu chuội, khác mùi hơ qua.
Vả trong bồi tiếp việc hoa,
1670.- Hai nàng tiên-nữ, hai bà phu-nhân.
Mừng thầm con đã yên thân,
Gẫm lời thầy số mười phần chẳng sai.
Khâu-công xong tiệc rượu ngoài,
Mai phu-nhân mới rỉ tai vài lời:
"Nghĩ rằng cậu mợ hiếm-hoi,
"Điềm hùngchưa ứng, chúc trai muộn màng.
"Nay xem công-tử họ Trần,
"Khôi ngô vẻ mặt, đai cân dấu nhà.
"Tòng quyền cho nghĩ nương nhờ,
1680.- Minh-linh rồi sẽ đổi ra đông-sàng.
Bàn rồi bèn giục-giã chàng,
Thung-dung trước mặt, gia nương khấu đầu.
Vâng lời theo họ là Khâu,
Tên là Khôi, để từ sau gọi thường.
Còn ngư-bà với Ngọc-nương,
Cũng cho nhìn-nhận trong đường thân hơi.
Ngư-bà xin tới bến ngoài,
Tìm người phường bạn, giã lời với nhau,
Ông truyền sắp kiệu theo hầu,
1690.- Rập-rình gươm trước, ngựa sau ra tuồng.
Ngồi trong ghé ngửa nom ngang,
Phút đâu kiệu đã tới phường bến xưa.
Vội-vàng bước xuống thuyền nhà,
Kẻ quen người thuộc còn ngờ rằng ai>
Giờ lâu nhìn rõ mặt người,
Nọ người khoác nách, nọ người vỗ tay.
Hỏi săn hỏi đón đã đầy,
Kiệu làm sao đấy ? kiệu này của ai ?
Bà rằng: "Kiện-cáo gì tôi,
1700.- "Này này ! anh nó vào ngồi với quan !
"Từ rày phường bạn đừng nhờn,
"Đủ trăm văn-lý, dư muôn thế-trần!
Giang Khôi rày hẳn biết thân.
"Hôm xưa thầy tớ một sân chịu đòn.
"Kẻo còn bắt những gầu non,
"Kẻo còn hống-hách, kẻo còn dọa hơi."
Cùng nhau từ -giả mấy lời,
Lại ngồi lên kiệu, kíp dời về dinh.
42.- Tình cảnh Mục-Vinh khi về ở Châu phủ (câu 1709 - câu 1744)
Khâu Khôi yên phận đã đành,
1710.- Đường xa này chuyện Mục Vinh còn dài.
Phủ Châu nương-náu cửa người,
Án-tờ xem đỡ, văn-bài tập riêng.
Tài mẫn-tiệp, tính thông-miêng,
Phần chăm việc khách, phần siêng việc mình.
Há-nam một tỉnh chính thanh,
Châu-công biết sức, thêm tình yêu-đương.
Nghĩ mình có gái Vân-nương,
Quyết lòng đành rắp đông-sàng đợi ai.
Xa nhà chưa dám ngỏ lời,
1720.- Tin đâu đã có chỉ đòi lai Kinh.
Tỏ tin, bàn với Mục-Vinh:
Khuyên chàng về phủ Đại danhquê nhà.
Băn-khoăn muôn dặm đường xa,
Tư thư mới gửi cho bà phu-nhân.
Trong thư mọi nỗi xa gần,
Dặn-dò lấy lễ sư-tânđãi chàng.
Đinh-ninh một việc đông-sàng,
Chuyện riêng lại phụ mấy hàng dặn sau.
Mục-Vinh sắm-sửa quân hầu,
1730.- Trỏ đường tư-thất họ Châu trở về.
Tay cung, thanh quất, cây tỳ,
Ngao-du sơn thủy, đề-huề gió trăng.
Hề-đồng theo bốn năm thằng,
Thơ ninh-ních túi, rượu lưng-lửng bầu.
Đường xa giong-ruổi vó câu,
Thoắt đà tới phủ họ Châu bao giờ.
Phu-nhân biết ý trong tờ,
Tình riêng đâu dám hững-hờ như ai.
Riêng mình chàng, một thư-trai,
1740.- Đồ cung-cấp hậu, vẻ bài-trí thanh.
Cổ thư, cổ họa, buông tranh,
Bên giường triện-bách, trước bình phong-lan.
Giá bày túi sách cạp đàn,
Sẵn hiên ngoạn nguyệt, sẵn vườn thưởng hoa.
43.- Mai-sinh tưởng nhớ Hạnh-Nguyên (câu 1745 - câu 1786)
Phòng riêng ngày tháng lân-la,
Khi buồn mới giở chiếc thoa ra nhìn.
Càng đau-đớn nỗi Hạnh-Nguyên,
Nhớ câu thơ biệt ở trên trùng-đài.
Sẵn nghiên-bút, vẽ ra chơi,
1750.- Vừa buông tay viết, chẳng rời miệng ngâm.
Càng như khêu mối khổ tâm,
Giấy loè nét tủi, nghiên dầm giọt thương.
Hay đâu đầy tớ Vân-nương,
Liễu-hoàn một ả Xuân-Hương tinh đời.
Thói thường dòm liếc thư-trai,
Gặp chàng vào lúc nhớ người, xem thoa.
Trở về tấp-tểnh, tấp-ta,
Thày-lay mách ả Vân ta mấy lời:
Rằng: "Tướng-công ở nhà ngoài,
1760.- "Thình-lình lắm lúc, tôi coi cũng kỳ,
"Tay cầm chẳng biết việc gì,
"Mắt thì nhìn kỹ, mặt thì buồn tênh.
"Kỳ này ra khổ thất tình,
"Kém nhan-sắc trước, khác hình-thù xưa.
"Tôi lừa khi vắng lẻn ra,
"Chỗ ngồi bắt được cái thoa lạ đời"
Vân-Anh xem của nghe lời,
Gẫm tay này hẳn có người tình chung.
Thoa này ai dễ cho không.
1770.- Dễ hầu biết mặt tin lòng được ai ?
Mục-Vinh phải buổi ra ngoài,
Về xem hòm sách tơi-bời giở tung.
Thấy khác dấu, đã chột lòng,
Xem cành thoa ấy lại không thấy rồi.
Khóc-than vật-vã một hồi,
Trách mình lơ-đễnh, giận người tham-lam.
Nghĩ rằng kẻ bắc người nam,
Chắc còn thoa ấy, để làm duyên sau.
Gẫm duyên mỏng-mảnh vì đâu,
1780.- Tỉ-ti vật mọn cũng hầu tìm đi.
Bệnh đâu dắt đến tức thì,
Cơm hoa biếng nhắp, giấc hòe kém yên.
Chiêm-bao mê-mẩn liền liền,
Trùng-đài trước mặt, Hạnh-Nguyên bên mình.
Phu-nhân những hậu vì tình,
Mời thầy thuốc, cắt đồng-sinh giữ-gìn.
44.- Hạnh-Nguyên tưởng nhớ Mai-sinh (câu 1787 - câu 1800)
Nỗi ngoài họ Mục chưa yên,
Não người, còn nỗi Hạnh-Nguyên trong nhà.
Phải khi ngồi với Vân-thư,
1790.- Thấy cành thoa ấy chân hư rành rành.
Giờ lâu nhìn dấu của mình,
Trùng-đài lưu tặng Mai-sinh những ngày.
Người đâu mà của thấy đây ?
Hẳn rằng bóng hạc xe mây đã đành.
Duyên này đã hẳn ba sinh,
Gặp nhau đành giữ chung tình kiếp sau.
Tấm thương chẳng đánh mà đau,
Lan-sươngbiếng kẻ, mai-câu biếng giồi.
Tấc riêng riêng những ngậm-ngùi,
1800.- Bữa thường miệng đắng, đêm dài bóng chung.
45.- Trong khi ốm năng hai người cùng dặn Châu phu nhân (câu 1801 - câu 1834)
Phu-nhân rối tợ bồng-bong,
Khuê phòng ép thuốc, thư-phòng nài thang.
Dạy mua hai cỗ thọ-đường,
Phòng khi nhất đán phi-thườngcho ai !
Bỗng đâu một lúc tơi bời,
Nỗi trong nhộn-nhịp, nỗi ngoài dở-dang.
Liễu-hoàn nối gót thư-đường,
Thấy hai phương cũng hung-phương một giờ.
Phu-nhân ghé hỏi sau xưa,
1810.- Gọi lên đã thấy tiểu-thư tỉnh dần.
Thưa rằng: "Lưu-lạc chút thân,
"Bao dong kể đã đội ân nghìn trùng.
"Hay đâu số phận mỏng-manh,
"Xưa nay mệnh bạc chữ chung má đào.
"Phòng khi muôn một thế nào,
"Xin ba tấc đất để vào hướng nam.
"Con dù chín suối cũng thơm,
"Bấy lâu công-đức đã cam phụ người."
Phu-nhân khuyên-giải mấy lời,
1820.- Cùng Vân-Thư tới nhà ngoài thăm lênh.
Kề tai mấy tiếng gọi sinh,
Vừa lim-lỉm giấc, thoắt tinh-tỉnh dần.
Xuân-Hương trình trước phòng văn:
"Tiểu-thư vâng mệnh phu-nhân trong phòng.
"Ra đây thăm bệnh tướng công,
"Dám xin gượng kẻo bỏ lòng chủ-nhân."
Sinh rằng: "Chút phận gia-thần,
Ân lòng đãi lễ sư-tân bấy chầy.
"Những mong báo-đáp có ngày,
1830.- "Ai ngờ nên nỗi nước này như không ?
"Vẻ chi thân nhẹ lông hồng,
"Thăm lênh để nặng tấm lòng tiểu-thư.
"Dù khi giải kết bao giờ,
"Phong phần chính bắc xin nhờ ghi cho."
mộng xà: Mơ thấy rắn, do câu : Duy huỷ duy sa, nữ tử chi tường, mơ thấy loài rắn, điền đẻ con gái.

khuynh-thành: Nghiêng thành, tức sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành.

khởi nạn Mai-gia: nghĩa là nhà họ Mai gặp nạn.

Thư-phòng : Buồng sách

tẩy trần: Rửa bụi, tiệc đãi người ở xa mới đến gọi là tẩy trần.

Điềm hùng: Do câu : duy hùng duy bi nam tử chi tường : nằm mơ thấy loài gấu là điềm sinh con trai, đây nói điềm hùng chưa ứng, nghĩa là chưa có con trai.

Minh-linh: một giống sâu như con nhện con . Tò vò bắt đem về nuôi, 7 ngày thì thành tò-vò, khoét thủng tổ bay đi. Kinh Thi có câu : " Minh tinh hữu tử, quả khỏa phụ chi " Giống minh-linh có con, tò-vò cắp lấy, người ta mượn chữ minh-linh để trỏ về con nuôi.

đông-sàng: Đã chú-thích ở trên.

gia nương: Ông, bà hay là cha, mẹ, tiếng gọi tôn.

khấu đầu: Cúi đầu, nghĩa là lạy.

mẫn-tiệp, tính thông-miêng: Mẫn-tiệp : siêng năng, nhanh nhẹn ; Thông-miêng : thông minh, sáng suốt.

chính thanh: Chính sự trong sạch.

Vân-nương: Tức Vân Anh tiểu-thư

Đại danh: Tên một phủ trước, nay là đạo, thuộc tỉnh Trực-lệ.

sư-tân: Vừa là thầy, vừa là khách.

thư-trai: Phòng sách, nơi đọc sách.

Cổ thư, cổ họa: bức chữ viết và bức tranh vẽ đời cổ.

ngoạn nguyệt: Xem trăng.

thưởng hoa: Coi hoa.

khổ tâm: Nỗi khổ chứa trong lòng.

giấc hòe: tức giấc mộng, do tích "Hòe an" đã chú thích ở truyện " Bích câu Kỳ ngộ ".

đồng-sinh: Trẻ trai, trò nhỏ, đứa hầu trai.

chân hư: Thực, hư.

bóng hạc xe mây: bởi chữ hạc giá vân xa ,nói bóng là đã chết, đã quy tiên.

ba sinh: Ba đời luân-chuyển kiếp này sang kiếp khác.

Lan-sương: Giọt sương đọng ở hoa lan. Mai câu : Vòng hoa mai . Đây nói về những phẩm-vật trang-sức trau-dồi của các cô khuê-các.

thọ-đường: tức là áo quan, quan tài.

nhất đán phi-thường: một sớm bất thần nghĩa là chết.

hung-phương: Phương hướng xấu, dữ.

mệnh bạc chữ chung má đào: Bởi chữ hồng nhan đa bạc mệnh

tướng công: Tiếng gọi tôn cũng như tiên-sinh, đại nhân.

gia-thần: Người giúp việc trong nhà, tôi-tớ.

Phong phần: Đắp mả.

 ......................................................... Còn Tiếp ...........................................

No comments:

Post a Comment