Bàn về… “Nghề Cai Trị” (4/4)
“Nghề Cai Trị” (4)
Đây là bài viết cuối cùng
trong loạt 4 bài bàn về "Nghề Cai Trị":
“Không ai dám hành nghề mà
mình chưa học qua, thế mà ai cũng nghĩ mình có đủ khả năng cho một nghề khó nhất
trong các nghề: đó là “Nghề Cai Trị” (Socrates)
Ngày 1/11/1963, Tổng thống
Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị ám sát trong một cuộc đảo chính của các
tướng lãnh. Nền Đệ nhất Cộng hòa, kéo dài từ năm 1955 đến 1963, đã chính thức
cáo chung. Ngay sau đó, tình hình chính trị miền Nam đang từ tay các “nhà cai
trị” dân sự chuyển sang một giai đoạn được mô tả là “hỗn loạn” dưới quyền điều
hành của các tướng lãnh.
Quân Đội đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm
ngày 1/11/1963
(Ảnh: Pete Komada)
Hội đồng Quân nhân Cách mạng
gồm 20 thành viên được thành lập với tướng Dương Văn Minh [1] giữ chức vụ Chủ tịch;
Trần Văn Đôn, Đệ nhất Phó chủ tịch và Tôn Thất Đính, Đệ nhị Phó chủ tịch. Hiến
pháp VNCH dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đã bị xóa bỏ và Quốc hội vừa
mới bầu ngày 27/9/1963 cũng bị giải thể.
Hội đồng Quân nhân còn thành
lập Ủy ban Hành pháp để giám sát gồm các tướng Lê Văn Kim (Ủy viên Ngoại giao),
Trần Thiện Khiêm (Quân vụ), Đỗ Mậu (Chính trị), Phạm Xuân Chiểu (An ninh), Trần
Văn Minh (Kinh tế) cùng một số các quân nhân tham gia, gồm Mai Hữu Xuân, Nguyễn
Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có và Lê Văn Nghiêm. Bên cạnh đó còn có Hội đồng Nhân sĩ
gồm những thành viên dân sự làm cố vấn.
Hội đồng Quân nhân nắm quyền
trong một năm, từ 1/11/1963 đến 26/10/1964, với ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng
qua sự giám sát chặt chẽ của nhóm tướng lãnh. Trước đó, ông Thơ đã từng là Phó
tổng thống dưới thời Ngô Đình Diệm nhưng có ít quyền lực trên thực tế.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ là con một
điền chủ giàu có ở miền Nam, bắt đầu khởi nghiệp cai trị trong chính quyền thuộc
địa tại Nam Kỳ với chức vụ tỉnh trưởng. Ông Thơ cũng từng là Bộ trưởng Nội vụ của
QGVN, khi VNCH được thành lập, ông được cử làm đại sứ tại Nhật Bản.
Trong thời gian làm Tỉnh trưởng
Cần Thơ, Nguyễn Ngọc Thơ được giao nhiệm vụ đối phó với giáo phái Hòa Hảo. Ông
đã cho mời Ba Cụt, tên thật Lê Quang Vinh, một trong những chỉ huy quân sự của
Hòa Hảo về tỉnh để “thương thuyết”. Khi Ba Cụt về, thay vì một cuộc “thương
thuyết”, Nguyễn Ngọc Thơ ra lệnh bắt và sau đó giết Ba Cụt.
Tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch Hội đồng Quân
nhân Cách mạng
và Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ
Tình hình trở chính trị trở
nên rối ren với cuộc “chỉnh lý nội bộ” vào rạng sáng ngày 30/1/1964 của tướng
Nguyễn Khánh [2], ông lên nắm chức chủ tịch Hội đồng Quân nhân, vô hiệu hóa các
tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính và Mai Hữu Xuân bằng
cách đưa họ đi “an trí” tại Đà Lạt.
Tuy nhiên, tướng Nguyễn
Khánh vẫn giữ Dương Văn Minh ở cương vị Quốc trưởng còn chức Thủ tướng thì tự
ông kiêm nhiệm. Sau đó, một nhân sĩ là Nguyễn Tôn Hoàn thuộc đảng Đại Việt lên
làm Thủ tướng và tướng Trần Văn Đôn giữ chức Phó thủ tướng.
Ngày 16/8/1964, Nguyễn Khánh
ban hành “Hiến chương Vũng Tàu”, qua đó ông là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách
mạng, kiêm Quốc trưởng, kiêm Thủ tướng VNCH. Tướng Nguyễn Khánh còn là Tổng tư
lệnh kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH. Uy quyền của ông lên đến mức tột
đỉnh qua việc thâu tóm tất cả những chức vụ quan trọng.
Trước áp lực chống đối của
dư luận, tướng Khánh phải tuyên bố hủy bỏ “Hiến chương Vũng Tàu” và thành lập Ủy
ban Lãnh đạo Quốc gia theo mô hình “Tam đầu chế” để chia quyền bớt cho các tướng
Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm. Tháng 9, vai trò Quốc trưởng được giao cho
tướng Dương Văn Minh [3].
Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia ra
hai quyết định phải thực hiện trong thời hạn hai tháng, gồm việc thành lập Thượng
hội đồng Quốc gia và triệu tập Quốc hội để soạn hiến pháp mới hầu giao quyền lại
cho chính phủ dân sự.
Ngày 26/10, Thượng hội đồng
Quốc gia được triệu tập và bầu kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng. Quốc trưởng
cũng đã chỉ định ông Trần Văn Hương, đô trưởng Sài Gòn, làm Thủ tướng. Cũng
trong tháng này, tướng Khánh cũng được Quốc trưởng phong Đại tướng cùng với tướng
Dương Văn Minh [3].
Chính phủ của Thủ tướng Trần
Văn Hương dù được hậu thuẫn của nhiều thành phần nhưng lại bị phe Phật giáo chống
đối kịch liệt trong khi Thủ tướng lại không chịu nhượng bộ cải tổ nên tình hình
trở nên tê liệt. Thượng Hội đồng và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu cũng không giải
quyết được bế tắc này nên phe quân đội ra lệnh giải thể Thượng Hội đồng vào
ngày 20/12/1964, một lần nữa, quyền hành lại trở về tay Hội đồng Quân lực.
Trước đó, vào tháng 9/1964,
hai tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát đã âm mưu làm một cuộc đảo chánh nhưng
bị nhóm tướng trẻ gồm Nguyễn Cao Kỳ, Lê Nguyên Quang, Nguyễn Bảo Trị, Tôn Thất
Xứng, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Phước Vĩnh Lộc, Nguyễn Thanh Sang và Đặng Văn
Quang chống lại.
Nhóm “tướng trẻ” muốn các vị
tướng thuộc thế hệ trước về hưu để rộng đường nắm quyền bính. Yêu sách của nhóm
tướng này được đệ lên Thượng Hội đồng Quốc gia và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu
nhưng không được chấp thuận. Tướng Nguyễn Khánh bèn thành lập Hội đồng Quân lực
để làm hậu thuẫn.
Hai ngày sau khi thành lập,
Hội đồng Quân lực ra thông cáo giải tán Thượng Hội đồng Quốc gia và bắt giam một
số nhân vật. Trước áp lực của phe quân nhân, Thủ tướng Trần Văn Hương phải cải
tổ nội các, thu nhận bốn vị tướng là Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Minh, Linh
Quang Viên, và Nguyễn Cao Kỳ vào thành phần chính phủ.
Dù vậy, xung khắc giữa Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và chính phủ vẫn không giải quyết được. Các
thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích Trí Quang, Thích Hộ Giác đều tuyên bố tuyệt thực
và đòi giải tán chính phủ của Thủ tướng Trần Văn Hương. Nhiều Phật tử xuống đường
biểu tình và tổ chức tuyệt thực tập thể.
Ngày 24/1/1965 Hội đồng Quân
lực bãi nhiệm Thủ tướng Trần Văn Hương và đem giam lỏng ông ở Vũng Tàu. Biến cố
này đã chấm dứt sự cầm quyền của chính phủ dân sự và đưa phe quân nhân vào
cương vị điều hành đất nước trở lại.
Tuy vậy, tình hình vẫn còn
nhiều căng thẳng vì ngày 20/2/1965, Đại tá Phạm Ngọc Thảo lại chủ mưu đảo
chánh, đòi truất quyền tướng Nguyễn Khánh. Âm mưu này bất thành nhưng phe quân
nhân, qua dàn xếp nội bộ, ép tướng Khánh lưu vong và ủy quyền cho Thủ tướng
Phan Huy Quát lập chính phủ dân sự.
Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara
(trái), Thủ tướng Nguyễn Khánh
và Tham mưu trưởng Maxwell
D. Taylor (Tháng 3/1964)
Hai nhân vật chính dần xuất
hiện trong Hội đồng Quân lực là Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu [4] và Thiếu tướng
Nguyễn Cao Kỳ [5]. Hai vị tướng này chia quyền, nắm hai địa vị chủ chốt: Nguyễn
Văn Thiệu là chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia còn Nguyễn Cao Kỳ là chủ tịch Ủy
ban Hành pháp Trung ương từ tháng 6/1965 đến tháng 9/1967.
Cuộc Tổng Tuyển cử năm 1967
dẫn đến nền Đệ nhị Cộng hòa kéo dài từ năm 1967 đến 1975 chính thức kết thúc thời
kỳ “quân quản”. Đệ nhị Cộng hòa là chính thể dân sự, thành lập trên cơ sở của bản
Hiến pháp tháng 4/1967 và cuộc bầu cử tháng 9/1967.
Ngày 1/11/1967 được xem là
ngày chính thức thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa và thể chế này chấm dứt khi Tổng
thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội đầu hàng vào ngày 30/4/1975.
“Hội đồng Quân lực” tại lễ Quốc khánh
1/11/1966
Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa
thiết lập bang giao với 86 quốc gia trên thế giới qua danh hiệu “chính quyền
pháp lý của miền Nam” và thêm 6 quốc gia khác nhìn nhận VNCH là “chính quyền hiện
hữu” (de facto). Tuy nhiên, nếu quốc gia nào công nhận chính phủ Cách mạng Lâm
thời miền Nam Việt Nam thì quan hệ bị VNCH cắt đứt, chẳng hạn như trường hợp
Indonesia vào năm 1964.
Nền Đệ nhị Cộng hòa ngoài việc
phải đối đầu quân sự với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và
VNDCCH từ miền Bắc còn phải giải quyết việc định cư dân tỵ nạn Cộng sản vì tình
hình an ninh tại các địa phương hẻo lánh.
Thống kê tiết lộ, chỉ riêng
vào năm 1972, có đến 758.000 dân phải bỏ nhà cửa chạy từ những vùng do VC quấy
nhiễu để về định cư tại các tỉnh và thành phố do VNCH kiểm soát. Bản đồ hành
chánh của VNCH ngày càng teo tóp trong khi dân số ngày càng gia tăng tại các
thành phố lớn đã trở thành một gánh nặng đối với các “nhà cai trị” miền Nam.
Chính phủ còn đề ra công cuộc
cải cách điền địa với chương trình Người cày có ruộng, được Quốc hội thông qua
vào đầu năm 1970. Trong thời gian 4 năm, 750.000 hộ nông dân (khoảng 5 triệu
dân) được cấp phát hơn một triệu hecta đất. Đó cũng là nét nổi bật trong thời Đệ
nhị Cộng Hòa bên cạnh những mảng tối của chính trị và quân sự.
Năm 1967, chính quyền Đệ nhị
Cộng hòa đã cho xây dựng tượng đài Thủy quân lục chiến, cao 9 mét, trong tư thế
xung phong hướng vào trụ sở Hạ viện. Dư luận đương thời cho đó là một điềm gở
khi quân đội "chĩa súng" vào Quốc hội.
Dù là một cách nói châm biếm
nhưng quả thật thời gian “quân quản” và cả thời Đệ nhị Cộng hòa quyền bính hoàn
toàn nằm trong tay các tướng lĩnh với sự tài trợ từ Hoa Kỳ và sự góp mặt của
“quân đội đồng minh” thuộc khối Tự Do đến từ các nước Hoa Kỳ, Úc, New Zeland,
Nam Triều Tiên, Philippines và Thái Lan. Đài Loan cũng từng gửi 31 chuyên gia đến
Việt Nam và Canada cũng đóng quân ở Việt Nam nhưng lại trung lập và nhằm mục
đích gìn giữ hòa bình.
Tượng Thủy quân Lục chiến
“chĩa súng” vào Quốc hội
(Ảnh: Quentin Jones, 1969)
Các “nhà cai trị” thời kỳ
này vốn xuất thân từ quân đội nên đã thể hiện sự lúng túng, vụng về trong việc
điều hành quốc gia nói chung và xử lý các biến cố nói riêng. Chính Tổng thống
Ngô Đình Diệm trước đó đã coi thường các tướng lãnh, coi họ như “hữu dõng vô
mưu”, chỉ giỏi trong binh nghiệp nhưng bước sang hoạt động chính trị thì họ
hoàn toàn không có đủ bản lĩnh để bước vào “nghề cai trị”.
Tướng Nguyễn Khánh là một
thí dụ điển hình. Ông tướng có “hàm râu dê” này vào thời kỳ uy quyền lên đến mức
tột đỉnh đã từng tuyên bố “Quân đội là cha quốc gia!” khiến uy tín của ông càng
lúc càng xuống thấp và ngày càng mất lòng dân.
Tướng Khánh đã vấp sự phản đối
quyết liệt của các đảng phái, các cuộc biểu tình chống tướng Khánh nổ ra khắp
nơi. Ngày 25/8/1964, hàng chục ngàn người kéo đến nơi tướng Khánh làm việc, họ
hô “Đả đảo Nguyễn Khánh!”. Tướng Khánh buộc phải ra gặp đoàn biểu tình và cũng
hô… “đả đảo” chính mình(!).
Tướng Nguyễn Khánh trên bìa
báo Time ngày 7/8/1964
Tướng “râu kẽm” Nguyễn Cao Kỳ
là một thí dụ khác về tính cách của một vị tướng khi nhảy vào chính trường. Điểm
yếu của ông Kỳ là thường có những phát biểu bốc đồng, thiếu suy nghĩ, một đức
tính cần tránh của một chính khách.
Tướng Cao Văn Viên, cựu Tổng
Tham mưu trưởng quân đội VNCH, trong môt bài phỏng vấn lúc cuối đời, đã phê
phán tướng Nguyễn Cao Kỳ là “khoác lác” và “nhận về mình công trạng của người
khác” trong việc chính phủ VNCH áp dụng những biện pháp cứng rắn để đàn áp sự
chống đối của Phật tử ở Huế vào năm 1968.
Chỉ một tuần trước ngày Sài
Gòn thất thủ, ông Kỳ đã có một tuyên bố hùng hồn trước một đám đông đang hoang
mang vì tình hình ngày càng bi đát của VNCH: “tử thủ Sài Gòn cho đến giọt máu
cuối cùng”… rằng ông chỉ thích “ăn cơm nước mắm” và rằng ông luôn nhớ “cà pháo…
mắm tôm…”.
Hôm đó là ngày 21/4/1975,
nhưng chỉ tuần sau, ngày 29/4/1975, ông đã tự lái trực thăng cùng tướng Ngô
Quang Trưởng ra chiến hạm Midway thuộc Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ. Trong khi đó gia
đình ông đã di tản trước đó.
Có thể nói, tướng Nguyễn Cao
Kỳ là một nhân vật khá đặc biệt nhưng lại nhiều may mắn khi thời cơ được trao đến
tay ông từ người Mỹ. Ông có tính khí “bốc đồng”, phát biểu về nhiều vấn đề theo
cảm tính, hành động theo kiểu “anh hùng Lương Sơn Bạc”. Người thích thì nói ông
là người “trực tính”, kẻ ghét lại bảo ông là “ngựa non háu đá”.
Một số người lại nhận xét tướng
Nguyễn Cao Kỳ là “con người của thời thế” giữa lúc các tướng lãnh tranh dành
quyền lực. Nhưng ông dứt khoát không thể nào là “nhà cai trị” thành công khi
trình độ chính trị còn non nớt, ấu trĩ… thiếu hẳn tư cách cần có để trở thành một
lãnh tụ.
Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ và
Phó tổng thống Hubert Humphrey
(Ảnh Corbis, chụp ngày
10/2/1966)
Nếu so sánh các tướng Nguyễn
Khánh và Nguyễn Cao Kỳ với tướng Nguyễn Văn Thiệu người ta thấy ông Thiệu có phần
nổi bật hơn, cả về tư cách lẫn bản lãnh chính trị. Ông đã có những câu nói để đời,
nổi bật nhất là nhận xét mà ngày nay nhiều người còn nhắc đến: “Đừng nghe những
gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm!” và một câu thể hiện quan
điểm về tổ quốc: “Đất nước còn, còn tất cả, đất nước mất, mất tất cả”.
Tuy nhiên, trên bình diện quốc
tế, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng chỉ là một quân cờ trên bàn cờ thế giới,
hay cụ thể hơn, một con chốt trên bàn cờ giữa hai phe Tư bản và Cộng sản.
Ông Thiệu nhìn rõ điều đó
qua một câu nói rất chân tình: “Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa
thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi
sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!”… để rồi đến những ngày cuối cùng của VNCH ông đã phải
nhìn nhận: “Họ [Hoa Kỳ] đã đâm sau lưng chúng tôi”.
Xét cho cùng, cả hai miền
Nam-Bắc Việt Nam không ai là “kẻ thắng cuộc” mà việc thắng-bại lại thuộc về các
nước lớn như Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Cộng trong một cuộc chiến mà chiến trường
được chọn là Việt Nam.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đặt bia lưu niệm vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam với sự chứng
kiến của Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker và Tướng Frederick Weyand, Chỉ huy trưởng Lực
lượng Quân đội Mỹ tại VN
Các “nhà cai trị” trong thời
kỳ Đệ nhị Cộng hòa thật ra chỉ là những “tay mơ”, họ bỏ súng ống để nhảy vào
làm chính trị khi thời cơ đến. Có người ví chính khách giỏi là một con thú có
thể ngồi trên hàng rào nhưng đôi tai lại đặt trên mặt đất. Dựa trên lập luận
này, các lãnh tụ một thời đã mặc áo treilli hoàn toàn không phải là những “nhà
cai trị” giỏi.
Ở Phương Đông, Hàn Phi [6],
một nhà lý luận chính trị sống ở thế kỷ 3 trước Công nguyên tại Trung hoa cũng
đã từng nhận xét về thuật trị quốc của người xưa, và những điều ông nói vẫn còn
đúng với thời nay:
“Trông cậy dân làm điều tốt
thì trong nước không quá mười người, nhưng khiến dân đừng làm bậy thì cả một nước
được ổn định. Bậc cai trị dùng số đông, không dùng số ít, cho nên không trọng Đức
mà trọng Pháp”.
Hàn Phi cho rằng vua không
nhất thiết phải tài cao đức trọng, không cần làm gương cho cả nước soi chung. Để
cai trị thì vua cần có “thế” tức uy quyền để áp đặt và có “pháp” để chỉ cho dân
điều nên làm và không nên làm. Hàn Phi còn giải thích:
“Vua cũng chẳng cần phải
làm, thay vào đó vua cần nắm vững thuật trị nước để thông qua nó xây dựng và vận
hành bộ máy chính quyền”.
Đó chính là “vô vi nhi vô bất
vi”, được hiểu theo nghĩa Vua không làm gì nhưng chẳng cái gì không được làm.
“Vô vi” là cách để vua dùng trong việc cai trị thiên hạ còn “hữu vi” là để bầy
tôi được vua dùng vào mục đích đó.
Hàn Phi (280-233 TCN)
Ở Phương Tây, Niccolo
Machiavelli [7], một trong những người sáng lập khoa chính trị học từ thế kỷ thứ
16 tại Ý vào thời Phục Hưng đã từng phân tích vai trò của những “nhà cai trị” một
cách mỉa mai nhưng lại hoàn toàn đúng với mọi thời đại trong tác phẩm The
Prince (Quân Vương hay Hoàng Tử):
“Bậc quân vương phải biết học
hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của
cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì lại không thể
chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy, và là sư tử để
dọa sói…”
Trong Quân Vương,
Machiavelli đề ra sách lược chính trị để bình định nước Ý lúc bấy giờ đang
trong thời kỳ nội chiến. Quân Vương đã trở nên bất hủ và trở thành một tác phẩm
kinh điển về triết học chính trị hay cụ thể hơn là về thuật cai trị.
Machiavelli gắn liền với một
châm ngôn thực dụng: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”, cũng vì thế, các lối
hành xử gắn liền với thủ đoạn hèn hạ, đê tiện để đạt được mục đích.
Cái tên Machiavelli của ông
đã đi vào từ ngữ phương Tây, cụ thể là trong tiếng Anh, chỉ sự nham hiểm. Theo
Oxford English Dictionary năm 1626, “Machiavellianism” được hiểu là thủ đoạn xảo
quyệt, "Machiavellian" được dùng như một tĩnh từ: quỷ quyệt, xảo quyệt,
nham hiểm; dùng mọi thủ đoạn để đạt mục đích.
Bản thân Machiavelli từ một
trí thức cố gắng xây dựng một học thuyết thực dụng để giúp các đấng quân vương
trị quốc, ông đã đặt mình vào vị thế trung thực của một trí thức dấn thân khi
nói về sự “không trung thực trong chính trị”.
Những “nhà cai trị” thời
nay, dù không phải là các bậc Quân vương của thời Machiavelli, nhưng vẫn có thể
rút ra bài học từ cuốn sách The Prince khi tác giả đưa ra những nhận xét qua 26
chủ đề được nói đến trong tác phẩm. Trong chủ đề “Phương thức cai trị những
vương quốc đã từng có chủ quyền”, Machiavelli viết:
“Cai trị một thành phố đã từng
có tự do mà không áp dụng nguyên tắc đó thì rất dễ bị chính thành phố này lật đổ.
Trong những thành phố như vậy, luôn có nơi trú ẩn cho tinh thần tự do và những
thể chế truyền thống, những điều chưa từng bị lãng quên cho dù bởi thời gian
hay lợi lộc… Ký ức về thời kỳ tự do trước đây khiến họ không thể bị khuất phục.”
Đối với “những vương quốc bị
chinh phục bằng vũ lực”, Machiavelli đưa ra nhận xét: “Thuyết phục thì dễ nhưng
duy trì niềm tin mới là điều khó. Bởi vậy, cần phải đảm bảo rằng khi người ta
không còn tin nữa thì phải dùng vũ lực buộc người ta phải tin”. Phải chăng đó
là bài học cai trị vẫn còn có thể áp dụng vào chính trị ngày nay.
Muốn chiến thắng trong việc
cai trị, Machiavelli cho rằng bậc quân vương phải “biết tự bảo vệ trước kẻ thù;
tăng thêm đồng minh; chinh phạt bằng vũ lực hoặc bằng thủ đoạn khiến dân chúng
chịu khuất phục và sợ uy quyền”. Những nguyên tắc này cho đến ngày nay các “nhà
cai trị” vẫn còn áp dụng.
Từ những nhân vật lịch sử cụ
thể, Machiavelli khẳng định quan điểm của mình về một đấng quân vương:
“Không thể gọi là tài trí
khi tàn sát đồng bào của mình, phản bội bạn bè, phản trắc, không biết xót
thương và vô thần. Bằng những phương cách này, người ta có thể đạt được quyền lực
chứ không thể có vinh quang.”
Niccolo Machiavelli
(1469-1527)
Những bài học về “nghề cai
trị” của Hàn Phi, Machiavelli và nhiều nhà chính trị cả Đông lẫn Tây vẫn còn có
giá trị trong trong thuật cai trị của thế giới ngày nay. Điều quan trọng là những
người làm chính trị có quan tâm đến những kinh nghiệm của những người đi trước
hay không.
***
Chú thích:
(Nguồn: Wikilpedia)
[1] Dương Văn Minh
(1916–2001), còn gọi là “Minh Cồ” hay “Big Minh”, là Tổng thống cuối cùng của
VNCH. Dù làm Tổng thống trong thời gian quá ngắn ngủi, vỏn vẹn 3 ngày (từ ngày
28 đến 30/4/1975), nhưng ông được xem là có công chính cho Sài Gòn khỏi bị tàn
phá bằng cách kêu gọi binh sĩ của Quân lực VNCH ngừng bắn và “đầu hàng vô điều
kiện” vào ngày 30/4/1975.
Khi Nhật đảo chính Pháp, ông
Minh đang phục vụ tại Vũng Tàu và bị Nhật cầm tù năm 1945. Khi Pháp trở lại,
ông bị Tây bắt cùng với ông Nguyễn Ngọc Thơ. Hai cái răng cửa của ông bị Tây
đánh gãy và nhiều năm sau này ông vẫn không trồng răng giả để giữ kỷ niệm về trận
đòn của cảnh sát Pháp. Vì vậy trong quân đội còn gọi ông là “Minh Sún”. Năm
1964, ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng Đại tướng, nhưng ông không nhận.
Theo Lữ Giang trong “Tướng
Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” (http://daubinhlua.blogspot.com/2012/05/dai-tuong-duong-van-minh.html):
“… Trong các tướng lãnh tham
gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất
là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính và thủ
đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham
lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính
sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai
trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng
là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ”.
Dương Minh Đức, con trai của
Dương Văn Minh, nói về cha mình: “Ông là người không thích làm chính trị, mục
tiêu suốt đời của ông là hòa giải, hòa bình dân tộc, nước Việt Nam phải do người
Việt Nam làm chủ, vì vậy ngừng chiến là phương cách tốt nhất, bất cứ chính quyền
phía nào nắm quyền cũng được, cũng là điều tốt nếu chính quyền đó biết lo cho
dân… Ông cho rằng: nếu một chiến thắng mà phải đánh đổi bằng hàng triệu sinh mạng
đồng bào thì đó không phải là một chiến thắng…”
Ngày 8/8/1983, Dương Văn
Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người
con trai. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và
sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó.
Ngày 5/8/2001, ông bị té từ
xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm
sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ. Sau đó,
ông được hoả thiêu ngày 18/8/2001 tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang
Rose Hill, Nam California.
[2] Nguyễn Khánh
(1927–2013) đã từng giữ chức Quốc trưởng và Thủ tướng của VNCH, ông cũng là
Đại tướng, Tổng tư lệnh và Tổng tham mưu trưởng trong giai đoạn 1964-1965.
Tướng Nguyễn Khánh ra đời tại
Trà Vinh, thời trẻ có tham gia Việt Minh rồi lại học Trường Võ bị Liên quân Đà
Lạt. Sau đó, ông sang Pháp tu nghiệp ở Trường quân sự Saint Saumur. Thời gian
này, ông lấy tên là Raymond Khánh hoặc Nicolas Turner Khánh.
Khi cuộc đảo chính ngày
1/11/1963 nổ ra, tướng Khánh đã án binh bất động, không tỏ rõ thái độ. Khi đảo
chính thành công, ông tuyên bố ủng hộ Hội đồng Quân nhân Cách mạng và ông được
thăng cấp Trung tướng. Ngày 30/1/1964, được sự ủng hộ của Mỹ và "nhóm các
tướng trẻ", tướng Khánh đã thực hiện cuộc "chỉnh lý" cướp quyền,
truất phế các tướng lĩnh chủ chốt của cuộc đảo chính.
Nhóm các tướng trẻ thống nhất
việc truất phế tướng Khánh và ngày 25/2/1965, tướng Nguyễn Khánh phải nhận chức
đại sứ lưu động ở nước ngoài. Trước khi đi, ông còn nắm theo một miếng đất và
tuyên bố: “Tôi có mang theo nắm đất quê hương, một ngày nào đó nhất định sẽ trở
về”.
Tuy nhiên, lời tuyên bố này
không thể thực hiện được. Nguyễn Khánh qua đời tại bệnh viện Kaiser ở San Jose,
California, Hoa Kỳ, ngày 11/1/2013.
[3] Trong lịch sử 20 năm
của Quân lực VNCH, có 162 người được phong cấp tướng, trong đó có 1 thống
tướng (truy phong), 5 đại tướng. Ngoài ra còn có 44 Trung tướng, 44 Thiếu tướng,
68 Chuẩn tướng. Rất nhiều tướng lĩnh (chiếm 1/3) được phong hàm tướng trong
giai đoạn 1963-1965, thời kỳ mà dân chúng gọi mỉa mai là “loạn tướng”.
· Thống tướng Lê Văn Tỵ (truy phong năm
1964)
· Đại tướng Trần Thiện Khiêm (phong năm
1964)
· Đại tướng Dương Văn Minh (phong năm
1964)
· Đại tướng Nguyễn Khánh (phong năm
1964)
· Đại tướng Cao Văn Viên (phong năm
1967)
· Đại tướng Đỗ Cao Trí (truy phong năm
1971)
[4] Nguyễn Văn Thiệu
(1923–2001) là Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia VNCH thời kỳ 1965-1967 và Tổng
thống VNCH thời kỳ 1967-1975. Năm 1963, ông tham gia lực lượng đảo chính lật đổ
chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau đảo chính, ông được phong Thiếu tướng.
Khi tướng Nguyễn Khánh thực
hiện "chỉnh lý", nắm quyền lãnh đạo chính quyền, tướng Nguyễn Văn Thiệu
được cử giữ chức Tham mưu trưởng, sau đó là chức Tổng trưởng Quốc phòng. Năm
1965, ông được thăng Trung tướng. Cũng năm này, chính phủ của Thủ tướng Phan
Huy Quát đã giải tán và trao quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Hội đồng Quân lực.
Hội đồng tướng lĩnh đã bầu
ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch
Ủy ban Hành pháp Trung ương. Ông trở thành Quốc trưởng và tướng Kỳ trở thành Thủ
tướng của chính phủ mới. Ông Nguyễn Văn Thiệu giữ vai trò Tổng thống của nền Đệ
nhị Cộng Hòa từ năm 1967 đến 1975.
Ngày 25/4/1975, Nguyễn Văn
Thiệu rời Việt Nam với tư cách là đặc sứ của VNCH đến Đài Bắc để phúng điếu tướng
Tưởng Giới Thạch của Đài Loan. Sau đó, ông đến Anh định cư. Đầu những năm 1990,
ông Thiệu chuyển sang định cư tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một cuộc
sống thầm lặng trong quãng đời còn lại ở đây.
Ông Nguyễn Văn Thiệu qua đời
ngày 29/9/2001 tại Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess Medical Center tại
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ, sau khi bị đột quỵ tại nhà ở vùng Foxborough, thọ
78 tuổi.
[5] Nguyễn Cao Kỳ
(1930–2011) đã từng là Thủ tướng (1965-1967) và Phó Tổng thống (1967-1971)
VNCH; từng là đồng minh rồi đối thủ của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; từng
được coi là người có tư tưởng chống Cộng trong thời kỳ trước 1975 rồi sau đó, kể
từ năm 2004, lại được Nhà nước Việt Nam coi là biểu tượng của sự hòa hợp hòa giải
dân tộc.
Nguyễn Cao Kỳ là người nhận
được nhiều ý kiến trái chiều từ nhiều phía. Theo lời tự thuật của ông với báo
chí trong những lần trở về Việt Nam, ông kiếm sống bằng cách đi làm thuê trong
hơn 10 năm đầu sống trên đất Mỹ. Sau khi định cư tại Mỹ, ông Kỳ vẫn ưu tư về hiểm
họa Trung Quốc. Hễ khi nào các trường Đại học Hoa Kỳ mời nói chuyện, ông Kỳ đều
vận động, thuyết phục Hoa Kỳ trở lại Việt Nam, vì ông tin rằng chỉ có Hoa Kỳ mới
có đủ sức mạnh để ngăn giấc mộng bành trướng từ Phương Bắc. Các nước nhỏ như Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc nếu không có sự bảo trợ của Mỹ thì cũng đã bị Trung Quốc
khống chế.
Ông Nguyễn Cao Kỳ từ năm
2004-2008, sau khi sống tại Hoa Kỳ, đã về Việt Nam bốn lần. Ông có tư tưởng muốn
hàn gắn quan hệ giữa tầng lớp Việt Kiều ngoài nước và chính quyền trong nước, đồng
thời xây dựng quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Trong cuộc họp báo tại khách
sạn Sheraton TP Hồ Chí Minh vào chiều 15/1/2004, ông Kỳ tuyên bố: "Tôi cũng
muốn nói thêm rằng những người mà giờ phút này, sau 30 năm khi đất nước đã thống
nhất và đây là lúc cần sự tập hợp của tất cả người VN trong cũng như ngoài nước
để phục hưng đất nước, để VN trở thành một con rồng châu Á."
Những câu nói nổi tiếng của
ông Nguyễn Cao Kỳ:
· “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con
rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng
tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của
nhân dân Việt Nam”
· “Hãy coi rằng ngày 30 tháng 4 là ngày
Quốc giỗ của Việt Nam Cộng Hoà”.
Ông Nguyễn Cao Kỳ qua đời
ngày 23/7/2011 tại một bệnh viện ở Malaysia, hưởng thọ 80 tuổi. Thi hài của ông
được hoả táng, sau đó tro cốt được đưa về Mỹ.
Đọc thêm về Nguyễn Cao Kỳ
qua bài viết “Chuyện xung quanh ông Nguyễn Cao Kỳ” tại http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/10/chuyen-xung-quanh-ong-nguyen-cao-ky.html
[6] Hàn Phi (280-233 TCN)
sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung
Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn, thích cái học "hình danh."
Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng, không
biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách.
Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi
là thuyết Pháp Trị. Không phải ông là người đầu tiên nêu lên học thuyết này mà
trước đó Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đã khởi xướng. Tư tưởng của Hàn
Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội
thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là
dùng pháp luật:
"Pháp luật không hùa
theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng
cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái
đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".
Ông chủ trương cho dân chúng
tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng
theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần
làm gì, cứ ngồi ở trên để kiểm soát kẻ dưới. Chủ trương "vô vi nhi trị"
đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử; chính ra nó là một thứ cực hữu
vi.
Phi cho rằng bọn nhà Nho
dùng lời văn làm rối loạn luật pháp, bọn du hiệp dùng võ lực phạm đến điều ngăn
cấm, gặp lúc yên ổn thì nhà vua dùng bọn ham danh, gặp lúc nguy cấp thì lại
dùng kẻ sĩ mang giáp trụ. Như thế, thành ra ngày nay người nhà vua nuôi lại
không phải là những người nhà vua cần dùng, những người nhà vua cần dùng đều lại
không phải những người nhà vua nuôi.
[7] Niccolò Machiavelli
(1469-1527): sinh ra tại thành phố Firenze, Ý. Người ta biết rất ít về thời
còn trẻ của Machiavelli nhưng một điều chắc chắn là ông đã được thừa hưởng nền
giáo dục về văn hóa, lịch sử Hy Lạp và La Mã.
Machiavelli được coi là nhà
lý luận đầu tiên của nền chuyên chính tư sản. Ông có đầu óc phê bình mạnh bạo,
tư tưởng duy lý phi tôn giáo, lòng căm ghét bọn quý tộc ăn bám, khát vọng muốn
xây dựng nước Ý thành một quốc gia thống nhất, tự do, bình đẳng với một chính
quyền mạnh, sử dụng bạo lực để xây dựng trật tự mới.
Tư tưởng của ông thể hiện
trong các tác phẩm văn học, trong các bài chuyên luận chính trị và hành động của
Machiavelli được gọi là “Học thuyết Machiavelli” (còn gọi là chủ nghĩa
Machiavelli). Friedrich Engels đã nói: “Machiavelli là một trong những người khổng
lồ của thời đại Phục hưng…”
Những câu nói nổi tiếng của
Machiavelli:
· "Nhà vua vừa là chồn cáo, vừa là
sư tử."
· "Con người muốn xứng đáng là một
con người phải tiến thẳng vững vàng tới mục đích. Mục đích sẽ chứng minh tính
đúng đắn của biện pháp."
1 nhận xét:
Ngoc Chinh Nguyen18:05 26
tháng 6, 2014
Chợt nhớ lại chuyện xưa: Cuối
năm 1974, tôi và một số bạn giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội được biệt phái
về Tổng cục Quân huấn của tướng Phan Trọng Chinh để thành lập Ban Tu thư &
Dịch thuật. Một trong những tác phẩm mà chúng tôi phải dịch là “The Prince” của
Niccolo Machiavelli. Điều này chứng tỏ quân đội VNCH cũng rất quan tâm đến “Thuật
trị quốc” nhưng không biết các vị tướng có đọc không.
Trả lời
No comments:
Post a Comment