Sông Bến Hải
Sông Bến Hải
Posted on November 26, 2016 by dongsongcu
Hiệp định Genève 20-7-1954 lấy sông Bến Hải làm ranh giới
đình chiến giữa hai miền Nam Bắc, từ đó hai chữ Bến Hải đi vào lịch sử Việt
Nam.
Sông Bến Hải còn có tên là Rào Thanh bắt nguồn từ vùng núi
Động Chân, tỉnh Quảng Trị, thuộc dãy Trường Sơn, cao hơn mặt biển 500m, chẩy
theo hướng từ tây nam sang đông bắc, đổ ra biển ở Cửa Tùng, thuộc quận Vĩnh
Linh, Quảng Trị. Sông dài chừng 100km, nơi rộng nhất khoảng 200m, hai đầu sông
rất hẹp, ở thượng nguồn nơi có nhà thờ Phước Sơn, sông chỉ rộng 20m, ở Cửa Tùng
lòng sông rộng 30m. Sông Bến Hải cũng còn được gọi là sông Bến Hói, theo tiếng
địa phương hói có nghĩa là dòng sông nhỏ, từ Bến Hói đọc trại ra là Bến Hải.
Từ đầu nguồn sông Bến Hải chẩy được 80km thì gặp sông Sa
Lung từ phía tây bắc đổ vào, hai sông hợp lưu chẩy tiếp ra biển, qua làng Minh
Lương ở bờ bắc nên có tên là sông Minh Lương. Do phải kiêng húy tên vua Minh Mạng,
nên cả tên làng và tên sông đều đổi thành Hiền Lương, cây cầu gần ngã ba sông cũng
mang tên là Hiền Lương.
Cầu Hiền Lương nối liền quốc lộ số 1 bắc qua sông Bến Hải,
nơi sông rộng hơn 150m, lui một ít về phía nam vĩ tuyến 17, thuộc quản hạt quận
Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Tính đến nay đã có nhiều lần cấu trúc chiếc cầu bắc
qua sông Bến Hải thay đổi, nhưng cây cầu lịch sử vẫn là cây cầu từ 1952 đên
1967. Cầu bắt đầu xây dựng bằng gỗ thô sơ năm 1922 dành cho người đi bộ, thay đổi
nhiều lần đến khi xây lại năm 2003 tất cả là 8 lần.
Cây cầu mà tôi đã đứng trên đó do người Pháp xây dựng năm
1952 bằng bê tông cốt sắt dài 178m, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng
tải tối đa 18 tấn, gồm 7 nhịp, mặt cầu lát bằng 894 tấm ván gỗ thông, chia ra
miền bắc một nửa, miền nam một nửa, mỗi bên 89m. Ở giữa cầu ngăn ra bằng hai vạch
song song, trừ cảnh sát hai bên có thể đi qua hết chiều dài của cầu, người khác
chỉ được đứng trong phạm vi giới hạn nam bắc của mình. Cây cầu này tồn tại 15
năm từ 1952 cho đến 1967 khi máy bay Mỹ phá sập.
Mỗi đầu cầu có một đồn cảnh sát 16 người (phía bắc gọi là
đồn công an) thường xuyên cử hai nhân viên tuần tiễu an ninh trên cầu. Nghe nói
ở Cửa Tùng cũng có một đồn cảnh sát ở bờ bắc thuộc xã Vinh Quang và một đồn ở
phía nam thuộc xã Cát Sơn. Sau năm 1965, khi chiến tranh leo thang thì hệ thống
đồn bót dọc hai bên sông Bến Hải đều ngưng hoạt động.
Phục vụ tại sư đoàn 1 bộ binh từ 1963 đến 1965 (1), tôi
đã nhiều lần ra thăm cầu Hiền Lương, mổi lần đối với tôi là một kỷ niệm khó
quên. Vì là trong vùng 5 cây số phi quân sự, nên mỗi lần đến cầu đều phải mặc
thường phục, nếu đi quân xa thì mang phải mang số ẩn tế, có khi vội thì lấy bùn
bôi lấp đi bảng số quân xa.
Lần đầu tiên vào cuối năm 1963, lúc mới đến đơn vị mới là
đã muốn đi thăm Bến Hải. Từ Huế theo quốc lộ số 1, qua Quảng Trị rồi Đông Hà,
khi vào tới địa hạt Vĩnh Linh là đã thấy lòng nao nao vì nhớ nhà sau 9 năm xa
miền Bắc. Dòng sông chẩy chậm, trên cầu gió nhẹ, đứng ở bên này vạch trắng mà
nhớ lại những xót xa lúc xuống tầu há mồm rời miền Bắc.
Nói xong anh giơ tay hô lớn đả đảo Nguyễn Khánh, rồi đòi anh công an trả nợ
phần của anh đối với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên anh công an bị ngọng, trách ngược lại
người “đồng bào” kỳ cục. Chúng tôi bồi thêm, cật vấn anh ta tại sao chân cầu
phía bắc lại có cái cổng lớn trên ghi bốn chữ “Nam Bắc Một Nhà”, giữa nhà sao lại
xây cổng?
Ngày 19-3-1965 tôi cũng muốn ra chứng kiến cảnh trục xuất
giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến và ký giả Cao Minh Chiếm
qua cầu Hiền Lương, nhưng vì bận công tác khác nên không thể ra coi được.
Năm 1967 cầu bị phi cơ Mỹ đánh sập, đến 1972 khi đem quân
chiếm miền Nam, công binh cộng sản bắc cầu phao qua sông Bến Hải lùi 20m về
phía thượng lưu cầu cũ.
Năm 2003 công việc phục chế cầu Hiền Lương phỏng theo kiểu
cũ hoàn thành, mặt cầu được lát bằng gỗ lim.
Tôi cứ băn khoăn về những yếu tố nào trong cuộc điều đình
mặc cả giữa Pháp và Việt Minh trong cuộc đàm phán Genève đã đưa đến thỏa thuận
nhận sông Bến Hải làm ranh giới, Cho đến mấy năm gần đây nhờ những tài liệu mới
xuất bản (2) mới có thể lần ra manh mối việc chia đôi đất nước. Xin ghi lại ở
đây những nét chính yếu.
Vào tuần lễ thứ ba của hội nghị, phương án vạch một giới tuyến nam bắc hầu
như đã được công nhận, Phạm Văn Đồng đưa ra ý kiến lấy vĩ tuyến 13 làm ranh giới,
các nước phương tây phản đối dữ dội.
Chu Ân Lai thấy cần phải thuyết phục phía Việt Minh, trên đường từ Genève
trở về Bắc Kinh qua thăm Ấn Độ và Miến Điện, bèn triệu tập một phiên họp tại Quảng
Tây với Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, cùng hai cố vấn Trung Quốc
bên cạnh Việt Minh là La Qúi Ba và Vi Quốc Thanh, để thông báo cho biết tình
hình đàm phán và vấn đề chia vùng.
Cuộc gặp gỡ này diễn ra tại Liễu Châu (thành phố thuộc tỉnh Quảng Tây)
trong 8 phiên họp từ ngày, từ 3 đến 5 tháng 7, 1954. Sau khi Võ Nguyên Giáp và
Vi Quốc Thanh trình bày tình hình chiến trường, Chu Ân Lai thuyết giảng dài về
vấn đề chiến tranh và hòa bình. Ông trình bày rất tỉ mỉ, cho rằng trước mắt có
ba khả năng, thượng sách là hòa được, trung sách là đánh rồi hòa, hạ sách là
đánh tiếp. Cuối cùng ông cho biết có hy vọng vạch đường phân giới tạm thời tại
vĩ tuyến 16. Ông khuyến dụ: từ vĩ tuyến 16 trở ra bắc là nơi Việt Nam hưng quốc,
có 13 triệu dân, có hải cảng, có thể xây dựng. Vì người Pháp đòi chia vùng ở vĩ
tuyến 18 và vì vĩ tuyến 16 ở phía nam Đà Nẵng nên muốn trấn an người Pháp, ông
bảo cảng Đà Nẵng, Huế và quốc lộ số 9 (từ Đông Hà sang Lào, ở phía bắc thị xã
Quảng Trị) có thể đặc biệt lưu lại cho Pháp một hai năm, như thế chúng ta có thể
đòi các điều kiện khác.
Hồ Chí Minh nói vào lúc xế chiều ngày 4 tháng 7, ông nói
ta phải giúp Mendès-France khỏi đổ, hạ quyết tâm tranh thủ hòa bình. Buổi tối
hôm đó Chu Ân Lai báo cáo về trung ương, xin lùi ngày về Bắc Kinh, họp thêm một
ngày nữa liên quan đến phương án giải quyết cụ thể.
Trong phiên họp sáng ngày 5 tháng 7, 1954 Võ Nguyên Giáp
biểu thị đồng ý chọn vĩ tuyến 16, nhưng nói thêm vì Phạm Văn Đồng đang đề xuất
phương án vĩ tuyến 13, nên có thể lùi từng bước, đến vĩ tuyến 16 là giới hạn cuối
cùng, khi rút quân miền Nam thì rút từ cấp tỉnh trở lên, nhưng từ cấp huyện trở
xuống và đội du kích không rút, đem cất giấu vũ khí.
Vi Quốc Thanh đồng ý với ý kiến chủ hòa của Chu Ân Lai, nếu tiếp tục đánh,
có thể đuổi được kẻ địch yếu, nhưng lại đưa vào kể địch mạnh (Mỹ). Đó là tình
hình đòi hỏi chúng ta phải tránh né nhất. Chu Ân Lai nói xen vào: đó không phải
là giả thiết mà là sự thật.
Khi kết quả hội nghị Liễu Châu đã thực hiện hoàn toàn
theo dự kiến của Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh phát biểu có tính cách tổng kết, hiện
nay chúng ta đang đứng trước ngã tư đường, có khả năng hòa cũng có khả năng chiến,
phương hướng chủ yếu là tranh thủ hòa chuẩn bị chiến. Bởi vì khẩu hiệu trước
đây là kháng chiến đến cùng, bây giờ lại muốn hòa, đối với người bình thường thậm
chí là cán bộ, rốt cuộc thì cái nào đúng đây. Nên vấn đề hàng đầu là đả thông tư
tưởng, nếu chuẩn bị tiếp thu Hà Nội, thì phải chuẩn bị một loạt cán bộ mà hiện
nay không đủ, vẫn cần các đồng chí cố vấn giúp đỡ.
Ngay trong ngày kết thúc hội nghị, Hồ Chí Minh đã tự tay
thảo chỉ thị 5/7 gửi cho Phạm Văn Đồng, xác định “phương án thấp nhất trong đàm
phán” (chấp nhận vĩ tuyến 16), chỉ thị này gửi qua Trung ương đảng Cộng sản
Trung quốc trước, nếu không có ý kiến, sẽ chuyển cho đồng chí để tiến hành.
Tối ngày 5 tháng 7, cử hành phiên họp thứ tám, chủ yếu
bàn về tình hình sau khi ngưng bắn, tiếp quản thành thị, hội nghị thảo luận và
sửa chữa bốn điều trong “Bố cáo yên dân khi vào thành phố” do La Qúi Ba khởi thảo,
tiếp theo bàn luận và sửa chữa “Chính sách vùng tiếp quản” cũng do La Qúi Ba khởi
thảo. Cuối cùng Chu Ân Lai tuyên bố kết thúc hội nghị.
Một tuần lễ sau khi về Bắc Kinh, Chu Ân Lai trở lại
Genève ngày 12-7-1954, nghe các phụ tá báo cáo tình hình đàm phán. Thứ trưởng
Ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng đoàn đại biểu Việt Minh lần lữa không chịu
theo chỉ thị 5/7 của Hồ Chí Minh là do đã đề cao lực lượng của mình và đặc biệt
là đánh giá quá cao chiến thắng Điện Biên Phủ, vì thế đã không nhượng bộ thích ứng,
đồng thời còn có tư tưởng Liên bang Đông Dương, không phân biệt nổi cách mạng
nhân dân và đấu tranh giải phóng dân tộc là hai loại không cùng tính chất.
Khó khăn hiện nay là Pháp chủ trương lấy vĩ tuyến 18 làm giới hạn, trong
khi Trung ương Cộng sản Trung Hoa và Việt Nam đồng ý lấy vĩ tuyến 16, nhưng
đoàn đại biểu VN vẫn dừng lại ở vĩ tuyến 14-15.
Khi Không quân Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu oanh tạc bắc vĩ
tuyến 17, nhiệm vụ của quân y sư đoàn là bay trên trực thăng phía nam sông Bến
Hải để yểm trợ cứu cấp trường hợp phi công bị trúng thương. Tôi nhớ hình như hồi
đó quân đội Việt Nam sử dụng trực thăng loại Huey, chở được tám người, hai cáng
thương, thường bay hai chiếc để hỗ trợ lẫn nhau. Trường hợp may mắn, chúng tôi
đã có hy vọng tiếp cứu đuợc phi công Phạm Phú Quốc, nếu máy bay trúng đạn của
anh còn bay được sâu về phía nam. Cuối cùng chúng tôi chẳng cứu được ai mà trớ
trêu hơn nữa, chính chúng tôi phải lo cho mình, số là hôm ấy một trong hai chiếc
trực thăng hỏng máy, phải đáp xuống đất, tất cả dụng cụ trang bị quân sự và y
khoa phải tháo gỡ cùng với phi hành đoàn đưa sang chiếc thứ hai bay về sân bay
thành nội Huế.
9 giờ 30 tối hôm đó Chu Ân Lai đến khách sạn của đoàn đại
biểu Việt Nam hội đàm với Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Phan Anh, Trần Công Tường
thì được biết ngày 11 và 12-7-1954 Phạm Văn Đồng đã gặp Mendès-France, Phạm Văn
Đồng thử thăm dò vĩ tuyến 16, nhưng Mendès-France ngang nhiên từ chối, kiên trì
đòi vĩ tuyến 18. Đến nửa đêm, nhận thấy nơi Phạm Văn Đồng trú ngụ không đủ bảo
đảm bí mật, Chu Ân Lai đề nghị về nơi ông trú ngụ tại biệt thự Vạn Hoa bàn tiếp,
tại đây Chu Ân Lai cho Phạm Văn Đồng biết là nếu tiếp tục đánh nhau, ít ra cũng
phải ba năm, thế nhưng Mỹ can thiệp là điều khó tránh khỏi, lúc đó không phải
là vấn đề ba năm nữa.
Chu Ân Lai cho rằng nếu VN muốn giữ vùng tập kết tại Liên
Khu Năm (Quảng Ngãi, Bình Định) thì phía Pháp cũng đòi giữ vùng tập kết tại đồng
bằng sông Hồng. Nếu dứt khoát lấy ranh giới vĩ tuyến 16 thì có thể thành lập một
dạng quốc gia ở phía bắc, qua phổ thông bầu cử mà hoàn thành thống nhất.
Chu Ân Lai còn cho biết sau chỉ thị 5/7, Mao Trạch Đông
có thương nghị lại với Hồ Chí Minh và hai người đã đồng ý lấy đường số 9 làm giới
tuyến, dù điểm này không viết trong văn kiện 5/7.
Ngày hôm sau, 13-7-1954, Chu Ân Lai tiếp Mendès-France
lúc 10 giờ 30 sáng tại biệt thự Vạn Hoa. Thủ tướng Pháp trải ra một bản đồ trước
mặt Chu Ân Lai và nói: không có đường giới tuyến nào thích hợp hơn vĩ tuyến 18.
Nhất định ngài sẽ nói với tôi Việt Minh chiếm nhiều nơi giữa vĩ tuyến 13 đến
16, thế nhưng giữa vĩ tuyến 16 và 18 chúng tôi có vùng chiếm lĩnh.
Không thể lấy diện tích ra để so sánh, trên thực tế những
thành phố như Hà nội Hải phòng, Huế, Tourane, đồng bằng sông Hồng, tính quan trọng
về dân số, chính trị, kinh tế đều lớn hơn những vùng mà Việt Minh rút khỏi. Lấy
dân số ra mà nói, vùng chúng tôi phải rút là 300.000 dân, còn Việt Minh chỉ phải
rút có 30.000 người.
Vạch đường giới tuyến về địa lý, lịch sử và logique đều
nên lấy porte d’Annam (cổng An Nam tức là Hoành Sơn Quan do vua Minh Mạng cho
xây năm 1833 trên đèo Ngang) gần vĩ tuyến 18 là hợp lý nhất. Vì biết
Mendès-France chiều hôm ấy sẽ về Paris gặp Foster Dulles, Chu Ân Lai nhấn mạnh
muốn để cho hòa bình được củng cố phải có sự bảo đảm của các nước tham dự, ám
chỉ không muốn Mỹ đứng ngoài cuộc đàm phán, đồng thời khéo léo cho biết Việt
Minh có khả năng nhượng bộ.
Đến ngày 19 tháng 7, cuộc đàm phán vẫn chưa đạt được thỏa
thuận cuối cùng, vấn đề vạch đường giới tuyến còn giằng co. Hồi 12 giờ 45 ngày
hôm đó, Mendès-France và Eden cùng với các phụ tá đến gặp Chu Ân Lai thảo luận
một giờ đồng hồ. Khi kết thúc Eden đề nghị phụ tá Caccia của ông sẽ gặp Trương
Văn Thiên thảo luận thêm vào buổi chiều. Năm giờ bốn mươi lăm phút chiêù ngày
19-7-1954, thứ trưởng Trương Văn Thiên đến nơi ở của phái đoàn Anh, hội kiến với
Caccia, phụ tá Eden. Trương Văn Thiên thông báo nhượng bộ cuối cùng, có thể chấp
nhận đường giới tuyến khoảng 10 cây số về phía bắc đường số 9. Thiên nhấn mạnh
nếu đối phương không tiếp nhận, chúng tôi chỉ có thể mua vé bay bay về nhà.
Caccia nói 10 cây số sợ rằng hẹp quá. Thiên nói có thể bắt chước Triều Tiên,
thiết lập khu phi quân sự 5 cây số ở mỗi bên. Caccia đề nghị là giữa đường số 9
và vĩ tuyến 17 có hai con sông, có thể chọn một trong hai con sông đó làm giới
tuyến (Bến Hải và Sa Lung?). Tiếp đó hai người bàn đến vấn đề tổng tuyển cử…
(3)
Chiều tối ngày 20 tháng 7 năm 1954 vì đại biểu Campuchia,
đại biểu Lào và đại biểu Việt Nam Ngô Đình Luyện lại có những đề nghị khác, cuộc
thương lượng phải kéo dài thêm, mà hạn chót của Mendès-France đối với quốc hội
Pháp là nửa đêm, nên đồng hồ trong phòng họp phải ngưng lại vào lúc 24 giờ. Mãi
đến 3 giờ 20 sáng đại biểu quân sự hai bên mới có thể tề tựu tại đại sảnh của
Liên Hiệp Quốc, thiếu tướng Delteil đại diện quân đội viễn chinh Pháp, thứ trưởng
Quốc Phòng Tạ Quang Bửu đại diện Việt Minh ký tên trên hiệp định đình chiến.
Sau khi ký xong Tạ Quang Bửu tươi cười tới trước mặt Delteil đề nghị bây giờ
chúng ta hãy cùng uống một ly sâm banh. Delteil trả lời: chắc ông biết rõ là
tôi không thể nhận lời, nói xong ông ta đi thẳng về phía phái đoàn của mình.
Sông Bến Hải đi vào lịch sử từ giờ phút đó.
Phạm Hữu Trác
Ghi chú
(1) Hồi đó Sư đoàn 3 Bộ binh của Quân lực Việt Nam Công Hòa chưa thành lập,
Sư đoàn I Bộ binh trách nhiệm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, tức là khu chiến
thuật 11.
(2) Phần lớn tài liệu trích từ quyển “Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngoã hội nghị”
bản chữ Hán do Tiền Giang (钱江,Qian
Jiang) viết xong 24-11-2004, bản dịch sang Việt ngữ “Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954” của Dương Danh Dy.
(3) Ghi chú bổ túc – Việt Thức: Ông Trần Văn Đỗ,
trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định
Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và nhân danh phái đoàn Quốc
gia ra một tuyên bố riêng:
“… chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội
nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết
Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt.
Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình
quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt
Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”
No comments:
Post a Comment