Tháng Tư (1/2)- Nỗi buồn
https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/4024534787564564
Tho
Nguyen
April 26 at 1:19 AM ·
Tháng Tư (1)- Nỗi buồn
Trưa 30.4.1975, sau lời kêu gọi của tướng Minh phát trên đài Sài Gòn, cậu thanh niên Hà Nội 24 tuổi đã phóng xe đạp như điên từ phố Quán Sứ, sang Tràng Thi đến Hồ Gươm. Tôi đạp xe vòng quanh hồ, vừa đạp vừa reo hò như thằng điên. Xung quanh tôi, hàng trăm người cũng phóng xe như vậy
Tôi mừng vì nghĩ rằng phe chính nghĩa đã thắng, kẻ thù đã đầu hàng. Nhưng trước tiên tôi mừng vì chiến tranh kết thúc, sẽ không ai chết nữa. Tôi sắp gặp lại ông bà nội ngoại, cô bác, anh em mà 20 năm qua tôi chỉ được nghe ba, má kể.
Vài ngày sau tôi có
mặt ở Huế, từ đó tôi đi khắp Miền Nam. Là
một cán bộ đoàn thanh niên, tôi
rất tự hào được gọi là „Cán bộ“, là
„Giải phóng“. Trong đầu tôi
khái niệm địch ta được định hình rõ ràng.
Nhưng
chàng trai gốc miền Nam tập kết đã dần nhận ra một thực tế khác hẳn. Tôi đã thích thú
khám phá một miền Nam, tuy còn tan hoang, tuy còn rất nhiều điều bất cập, nhưng có nhiều điều thú
vị mà ở miền Bắc tôi chưa hề biết đến.
Kỷ niệm của tôi về văn hóa, con người ở Huế tháng 5.1975 được viết ở đây:
https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/1675495975801802
Cảm nhận của tôi về sinh hoạt văn hóa ở Quy Nhơn được tả ở đây:
https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/1837899256228139
Rồi tôi
hiểu: Hình ảnh kẻ thù
(enemy image) của tôi quả là
độc hại cho lương tri con người.
Những người hôm qua
còn bị tôi coi là
„Ngụy“ thật ra chẳng khác gì
tôi. Giữa anh bộ đội miền
Bắc được ghi công và anh lính Cộng hòa „có tội“ chỉ khác nhau ở nơi sinh. Ai cũng phải làm nghĩa
vụ công dân cho chế độ mình đang sống. Ngoài Bắc gọi là nghĩa vụ, trong Nam gọi là quân dịch.
Người thanh niên Bắc trốn lính
bị gọi là kẻ đào ngũ. Người miền Nam trốn lính bị gọi là đào binh. Sau
30.4.75 anh đào binh có thể được coi là giác ngộ, phản chiến.
Người lính Bắc ngã
xuống được gọi là liệt sỹ, gia đình
được ghi công. Huân chương tử sỹ được treo trên tường. Nhiều người mẹ có con
đi lính miền Nam tử trận
không dám treo ảnh
con mặc quân phục lính cộng hòa.
Báo
chí viết nhiều bài về các đợt “Nhà ngoại cảm tìm mồ liệt sỹ“. Liệt sỹ tức là không có phía bên
kia. Hài cốt người lính Bắc được mang về địa
phương, chôn
tại nghĩa trang liệt sỹ. Hài cốt người lính
Nam nằm bên cạnh, người ta tử tế
chôn
chỗ cũ, nơi rừng sâu.
Không
có công bằng với người chết làm sao có thể công bằng với người
sống.
Cho đến nay chỉ
có 74 người lính
miền Nam được nhắc đến với danh hiệu tử sỹ, đó là
những người lính
đã hy sinh trong trận hải
chiến Hoàng Sa tháng giêng 1974[1]. Nhưng chưa có một hành động chính thức nào của nhà nước và xã hội để vinh danh hoặc ít nhất là khôi phục danh dự cho họ.
Hai tuần trước tôi viết bài
„Khước từ“ với nguyện vọng : „Đại dịch Covid-19
đang tạo cơ hội để ngày 30.4 năm nay, 45 năm kết thúc
cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, sẽ không
phải là ngày trống giong cờ mở, pháo hoa sáng trời của bên
này đồng thời là ngày nuốt nước mắt của bên kia.“
Nhiều người phê
phán ước mong này của tôi. Họ cho là
bên thắng đáng được ăn mừng trên nỗi buồn của bên
kia. Họ cho là nửa bên kia của tổ quốc từng là một chế độ bất chính, đáng bị trừng phạt, kể cả mọi công dân trong đó.
Tôi không hề đôi co với các lời bình đó, vì trước đây 45 năm, tôi đã từng nghĩ như họ.
Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, một người Cộng Sản từng bị mất cả vợ và ba người con trong chiến tranh, [2] đã coi ngày 30.4 là „ Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có
hàng triệu người vui,
mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là
vết thương
chung của dân tộc, cần được giữ lành
thay vì lại tiếp tục làm
cho nó thêm rỉ máu“.
Những ai mong muốn trống giong cờ mở ngày 30.4 để khẳng định vị thế của người chiến thắng chắc chưa hiểu giá trị nhân bản trong lời tâm sự của ông Võ Văn Kiệt.
Võ Văn Kiệt was a
Vietnamese politician who served as the Prime Minister of the Socialist
Republic of Vietnam from 1991 to 1997. He was a well regarded Vietnamese
revolutionary and political leader.
Từ hai tuần nay, toàn dân Việt Nam bị sốc bởi một sự thật: Trung Quốc dùng chính bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Tổng Lý Chu Ân ngày 14.9.1958 để cáo buộc Việt Nam vi phạm các cam kết về Hoàng Sa, Trường Sa. Bức công hàm này thực ra đã được dư luận mạng nêu lên hơn chục năm, nay mới được báo chí nước nhà công khai đưa tin và thi nhau bình luận.
Không phải là
sử gia, không phải là luật gia, tôi
không dám nêu giải pháp để hóa
giải vấn đề hóc búa này, như hàng trăm nhà thông thái
Việt Nam đưa ra mấy ngày qua. Nào là „Công hàm đó không có
giá trị pháp lý“, nào là „Phải quay lại công nhận VNCH“, nào là „Chỉ công
nhận 12 hải lý, chứ không
nói gì đến HS-TS“… Tôi
thấy tất cả đều bế tắc. Rõ ràng đây là một vấn đề đau đầu mà chính người Việt tự gây ra cho mình.
Liên
quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng, ngày 21.12. 2015 Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh đã đăng một bài
lý luận khẳng định vai trò bình đẳng của hai nhà
nước Việt Nam từ 1954-1975. Trích nguyên văn:
„Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7-1954), hai chính
quyền thực hiện
việc quản lý hai miền Nam - Bắc đất nước Việt Nam. Trên thực tế, cả hai chính
quyền đều là hai
thực thể chính
trị, thỏa mãn
các điều kiện để được
công nhận là quốc gia: có dân cư ổn định, có lãnh thổ xác định, có chính phủ và có khả năng tham gia vào
các quan hệ quốc tế. Như
vậy, có thể nói rằng trong khoảng từ năm 1954 đến năm 1975, trên
lãnh thổ Việt Nam đã tồn tại hai quốc gia, VNDCCH và
VNCH.[3]
Thế thì khỏi phải cãi nhau nhà nước nào là bất hợp pháp, đáng bị xóa sổ. Cuộc chiến 20 năm chỉ là đọ sức giữa hai thực thể chính
trị để thống nhất thành một chế độ. Miền Bắc XHCN đã chiến thắng với một giá rất đắt để rồi sau bao năm, đất nước lại lần mò
trên con đường sở hữu tư
nhân với nền
kinh tế thị trường. Mọi cái đuôi chỉ là chơi chữ.
Dân tộc Việt Nam đã
trải qua bao cuộc chinh phạt vì giành quyền lãnh
đạo đất nước: Từ loạn 12 Sứ Quân, Mạc Đăng Dung, Trịnh-Nguyễn phân tranh đến Tây
Sơn. Tất cả đều là nồi da xáo thịt và
có lúc dẫn đến mất nước.
Hôm qua, một nữ nhà
báo ở Hà Nội đã hỏi tôi:
Tại sao không ai tìm cách tránh cuộc chiến khốc liệt vừa qua?
Có chứ! Nhiều người Việt từ hai phía đã tìm cách tránh cuộc chiến huynh đệ này. Câu chuyện „Mối tình Maneli“ có thể là một dẫn chứng cho cố gắng bắt tay giữa VNDCCH và VNCH vào đầu những năm 1960. Mieczysław Maneli là trưởng phái đoàn Ba-Lan trong ủy ban quốc tế giám sát hiệp định Geneve 1954 tại Việt Nam[4]. Cho đến nay, sự kiện này vẫn chưa được công khai.
Mieczysław Maneli was a
Polish lawyer, diplomat and academic best remembered for his work with the
International Control Commission during the Vietnam War, especially the
"Maneli Affair" of 1963.
Trong
khi cả thế giới chìm trong chiến tranh lạnh thì Việt Nam trở thành chiến trường thi thố sức mạnh của CNTB và CNXH.
Nếu chúng
ta coi nhau như anh em một nhà, quyết không
bắn giết nhau thì không đế quốc nào
có thể nhảy vào Việt Nam.
Cuộc chiến khốc liệt đã nổ ra chính
vì số người Việt thích bạo lực, coi trọng đấu tranh ý thức hệ nhiều hơn số
người nghĩ đến quyền lợi dân tộc.
Cuộc chiến đó đã khiến chúng
ta mất Hoàng Sa, một phần Trường Sa và nếu tiếp tục chia rẽ, thù ghét nhau, sẽ mất thêm
nhiều thứ khác.
Köln
26.4.2020
(Còn
tiếp)
[1] https://thanhnien.vn/…/danh-sach-cac-quan-nhan-viet-nam-con…
[2] https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B5_V%C4%83n_Ki%E1%BB%87t
[3] http://lyluanchinhtri.vn/…/1216-su-tiep-noi-chu-quyen-viet-…
[4] https://www.facebook.com/daohieuwriter/posts/3100568310028179
No comments:
Post a Comment