3 án lệ quan trọng về bầu cử tổng thống Hoa Kỳ
https://www.luatkhoa.org/2020/07/3-an-le-quan-trong-ve-bau-cu-tong-thong-hoa-ky/
3 án lệ quan trọng về bầu cử tổng thống Hoa Kỳ
Published 4 weeks ago on 04/07/2020
By Nguyễn Quốc Tấn Trung
Một phòng bỏ phiếu
ở
Mỹ.
Ảnh:
Getty Images.
Ít có cuộc bầu cử nào trên thế giới lại được chú ý và tốn giấy mực như cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Từ các ứng cử viên, cơ chế bầu cử đại cử tri đoàn: https://www.luatkhoa.org/2016/11/tom-lai-dai-cu-tri-la-cai-chi-chi-tai-sao-trump-it-phieu-hon-lai-thang/,
quá trình bỏ phiếu gay cấn ở các tiểu bang… luôn giúp
cho người ta hào hứng theo dõi cuộc tranh đua chức danh nhà
nước quyền lực nhất thế giới.
Tuy nhiên, cũng giống như hầu hết các vấn đề quản trị nhà nước khác của Hoa Kỳ, khó có thể hoàn thiện bức tranh toàn cảnh của cuộc bầu cử mà không nói về những lần các bên liên quan phải “đáo tụng đình”.
Là một quốc gia có truyền thống tư pháp mạnh mẽ, nơi mà hầu hết các tranh chấp công dân – công
dân; hay công dân – nhà nước, đều được giải quyết bằng phán quyết của tòa, các tranh chấp về bầu cử tổng thống cũng nổ ra khá thường xuyên, và đều được dàn xếp thông qua các quyết định tư pháp.
Dưới đây là ba án
lệ quan trọng Luật Khoa muốn giới thiệu với bạn đọc, có thể giúp chúng
ta hiểu rõ thêm về vai trò của tư pháp và văn hóa pháp lý Hoa Kỳ.
Bush v. Gore (2000): Tiếng nói cuối
cùng
Trong gần hai thập kỷ trở lại đây, các luật gia nghiên cứu về Hoa Kỳ buộc phải nhắc đến vụ án Bush v. Gore: https://supreme.justia.com/cases/federal/us/531/98/.
Dù không hẳn tạo ra các nguyên tắc pháp lý tiền lệ đặc biệt quan trọng cho tiến trình bầu cử, phán quyết một mặt chứng minh tầm ảnh hưởng bao trùm của Tối cao Pháp viện lên mọi vấn đề chính trị quốc gia, một mặt thể hiện sự trân trọng của tất cả các nhóm xã hội đối với Tối cao Pháp viện với tư cách là người quyết định cuối cùng trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng đầy tranh cãi hồi năm 2000.
Trong hoàn cảnh: https://edition.cnn.com/2000/ALLPOLITICS/stories/11/30/jackson.undervote/index.html
thời điểm đó, cuộc bầu cử tổng thống ở tiểu bang Florida để lại nhiều ngàn phiếu gây tranh cãi ở các quận như Miami-Dade và Palm
Beach, có khả năng quyết định lại toàn bộ 25 phiếu Đại cử tri của Florida, vốn đã được tuyên bố là thuộc về ứng cử viên của Đảng Cộng hòa, George W. Bush. Cụ thể hơn, số phiếu này được máy đếm ra là các phiếu trắng, tức không ghi nhận bầu cho ai.
Theo các luật sư bảo vệ quyền lợi cho
ứng cử viên
còn lại của Đảng Dân chủ, đương
kiêm phó tổng thống Albert
Gore, đây là những phiếu bầu hợp
pháp và chỉ
không đếm được
bởi những hạn chế thiết kế của hệ thống đếm phiếu thẻ bằng
máy. Theo họ, số lượng
phiếu này cần phải được đếm lại, bằng tay không. Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đồng
tình với lập luận của phía Albert Gore.
Phía ông Bush, đương nhiên, không có lý do gì phải chấp nhận một rủi ro đáng giá 25 phiếu đại cử tri, khẳng định rằng chúng đều là những phiếu không có giá trị về mặt pháp lý. Do đó, việc đếm lại là không cần thiết.
Hai ứng cử
viên G. W. Bush và Al Gore tranh luận trên truyền hình năm 2000. Ảnh: Boston Global.
Câu hỏi: https://www.oyez.org/cases/2000/00-949
mà đội ngũ luật sư của ông Bush đặt ra cho Tối cao Pháp viện cũng vô cùng khéo léo:
“Việc Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đặt ra các
quy tắc bầu cử mới (ý chỉ luật tiểu bang và liên bang không có quy định
đếm phiếu bằng tay – ND) có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không? và
Việc đếm phiếu không quy chuẩn bằng tay có vi phạm các điều khoản về bảo vệ bình đẳng (equal
protection) và chuẩn mực pháp lý (due process) hay không?”
Như vậy, thay vì để câu hỏi ở trạng thái nguyên vẹn là “có nên kiểm phiếu bằng tay hay không?”, nay Pháp viện phải xem xét liệu việc cho kiểm phiếu bằng tay có phải là đang đặt ra các quy tắc pháp lý bầu cử mới hay không? Một góc nhìn hoàn
toàn khác biệt, hợp lý, và có lợi hơn cho ông Bush.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ nghiêng về các lập luận của đội ngũ luật sư của Bush, với 7/9 thẩm phán cho rằng Pháp viện tiểu bang Florida đã vi hiến, và 5/9 thẩm phán cho rằng đếm phiếu bằng tay mà không có quy chuẩn luật định vi phạm các nguyên tắc Equal Protection và Due Process.
Việc đếm phiếu lại do đó đã không thể diễn ra.
Nhờ phán quyết này, ông Bush có đủ 25 phiếu đại cử
tri của
bang này, và cuối
cùng là tổng
cộng
271 phiếu đại
cử
tri toàn quốc,
dư đúng
một
phiếu để
có thể
trở
thành tổng
thống
Hoa Kỳ.
Quan trọng hơn cả, theo Thẩm phán Stephen G. Breyer, dù ông không đồng tình với kết quả cuối cùng, phản ứng của các đảng phái cũng như dân chúng đối với phán quyết thể hiện sự tôn trọng rất lớn của người dân dành cho tòa và hệ thống tư pháp quốc gia. Đó là những gì tốt đẹp về nền pháp quyền và văn hóa pháp lý Hoa Kỳ.
Stephen
G. Breyer
Stephen Gerald Breyer is an
Associate Justice of the Supreme Court of the United States. He was nominated
by President Bill Clinton on May 17, 1994 and has served since August 3, 1994.
Smith v. Allwright (1944): Quyền bỏ phiếu nội bộ đảng
“Chế độ nô lệ sẽ
không thật
sự
chấm
dứt cho đến
khi người da đen có
quyền
bỏ
phiếu”.
Đây là tuyên bố nổi tiếng của Frederick Douglass vào tháng Năm năm 1865, sau khi chính phủ Liên hiệp miền Bắc đạt được chiến thắng quyết định tại Appomattox trong cuộc Nội chiến 1861 – 1865.
Frederick
Douglass
Frederick Douglass was an
American social reformer, abolitionist, orator, writer, and statesman. After
escaping from slavery in Maryland, he became a national leader of the
abolitionist movement in Massachusetts and New York, gaining note for his
oratory and incisive antislavery writings.
Lo ngại của Frederick Douglass về tàn dư của chế độ nô lệ không thừa. Quá trình Tái thiết (Reconstruction) Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến tại miền Nam được vận hành chủ yếu bởi chính những người da trắng thua trận, vốn vẫn còn một niềm tin mãnh liệt vào chế độ nô lệ và sự thấp kém của người Mỹ gốc Phi.
Dù vào nửa cuối thế kỷ 19, đã
có nhiều dân
biểu, thượng
nghị sĩ gốc Phi được bầu vào
Quốc hội Hoa
Kỳ, sự phân
biệt đối xử ngầm dành cho người da đen vẫn tồn tại suốt nhiều thập
niên.
Một trong số đó, phải kể đến việc Đảng Dân chủ (thời điểm này vẫn còn là chính đảng đại diện cho sự phân biệt – định kiến) không cho phép cử tri da đen tham gia vào các kỳ bầu cử sơ bộ bên trong nội bộ đảng. Căn cứ pháp lý là các đạo luật riêng rẽ ở từng tiểu bang, ghi nhận rằng các chính đảng có quyền tự thiết lập nguyên tắc bầu bán riêng của mình trong các cuộc bầu cử nội bộ.
Như vậy, dù quyền bầu cử trên toàn quốc dành cho người Mỹ gốc Phi đã được công nhận và thi hành trên thực tế, họ vẫn có khả năng bị loại ra khỏi quá trình đóng góp tiếng nói trong việc quyết định ứng viên bên trong từng đảng. Nói
cách khác, anh có quyền đi bầu
trong các cuộc tổng tuyển cử; nhưng việc chọn ra ứng cử viên
là ai thì anh không có quyền
tham gia.
Cử tri da đen đòi quyền bỏ
phiếu
ở
Mỹ.
Ảnh:
crmvet.org.
Mãi đến năm 1923, Lonnie E. Smith, một cử tri da đen thuộc quận Harris, Texas, khởi kiện đảng bộ Đảng Dân chủ tiểu bang Texas vì quy định rằng chỉ có các công dân da trắng mới được bỏ phiếu cho kỳ bầu cử sơ bộ trong nội bộ đảng này.
Lonnie
E. Smith
Lonnie Smith was a
well-known dentist in Houston, Texas, an officer in the Houston branch of the
National Association for the Advancement of Colored People (NAACP), and a civil
rights activist. He is best known for his
role in the landmark U.S. Supreme Court case bearing his name, Smith v.
Allwright.
Để trả lời câu hỏi hành vi loại trừ quyền bầu cử của công dân dựa trên màu da, sắc tộc của các tổ chức chính trị, tổ chức tư nhân có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không, Tối cao Pháp viện lập luận:
“Hoa
Kỳ
là một
nền
dân chủ
lập
hiến.
Từng
tế
bào của
hệ
thống
pháp luật
chúng ta bảo đảm
cho mọi
công dân quyền được
tham gia vào quá trình lựa
chọn
các chức
vụ
công quyền
mà không gặp
bất
kỳ
cản
trở
nào vì màu da của
họ.
Nếu
chính quyền
tiểu
bang có thể đơn
giản
tước
bỏ
quyền
công dân quan trọng
này bằng
cách trao lại
thẩm
quyền
cho một
tổ
chức
tư
nhân nhằm
thực
hiện
hành vi phân biệt
chủng
tộc
ngay cả
trước
khi cuộc
bầu
cử
chính thức
diễn
ra, các quyền
hiến định
sẽ
không còn bao nhiêu ý nghĩa nữa”.
Không chỉ vậy, Pháp viện còn nhấn mạnh vai trò của các chính đảng trong việc lựa chọn ra ứng viên để được tham gia vào cuộc tổng tuyển cử toàn quốc hay toàn tiểu bang không còn đơn thuần là một tổ chức tư nhân, mà là đang thực hiện chức năng nối dài của chính quyền.
Phán quyết chính thức xóa bỏ hệ thống bầu cử nội bộ phân biệt đối xử của các chính đảng, mà cụ thể ở đây là Đảng Dân chủ, từ đó khởi nguồn cho các biến chuyển, cải cách mạnh mẽ diễn ra bên trong từng đảng cho đến ngày nay.
Buckley v. Valeo (1976): Kiện cơ quan
lập
pháp vì pháp luật kiểm soát tài chính bầu cử
Dưới nhiều góc độ, Buckey v Valeo: https://www.oyez.org/cases/1975/75-436
là một trong những án lệ dài nhất trong lịch sử xét xử của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, với nhiều kết luận tư pháp cuối cùng được đưa ra nhất. Đây là bản án định hình nên cách thức mà chính phủ liên bang lẫn tiểu bang Hoa Kỳ hiện nay đang tiếp cận với tiêu chuẩn minh bạch và kiểm soát đóng góp tài chính cho hoạt động tranh cử của các ứng cử viên.
Về bối cảnh lịch sử, lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định đặt ra các định mức đóng góp tài chính cá nhân và nhiều quy định pháp luật khác cho hoạt động tranh cử sau vụ bê bối Watergate lịch sử đầu thập niên 1970. Một số đạo luật như Đạo luật Vận động Tranh cử Liên bang (Federal
Election Campaign Act 1971) cùng những điều khoản cũ trong Bộ luật Thuế (Internal Revenue Code 1954), được ban hành hoặc sử dụng nhằm ngăn chặn khả năng chi phối các chính trị gia, nguy cơ tham nhũng và tính liêm chính của các cuộc bầu cử liên bang.
Đáng
chú ý có thể kể đến việc đặt
giới hạn đóng
góp tài chính của từng cá nhân cho một chương
trình vận động
tranh cử, hay đặt
ra nghĩa vụ báo cáo tài chính cho các tổ chức nếu khoản đóng
góp của họ cho chương
trình tranh cử vượt quá một con
số do luật xác
định.
Kèm theo đó, Ủy ban Bầu cử Liên bang (Federal Election Commission – FEC) cũng được thành lập để đảm
bảo việc vận hành những
yêu cầu kiểm soát ngặt
nghèo mới về vấn đề
tài chính này.
Dù vừa nhìn qua, đây đều là những quy định rất cần thiết để bảo vệ sự công bằng, minh bạch và liêm chính của một cuộc bầu cử, người Mỹ không đơn giản chấp nhận nó mà không có một cuộc đấu pháp lý sòng phẳng.
James
Buckley (phải) trong đêm
bầu
cử
ở
New York, 3/11/1970. Ảnh:
National Review.
Trong vụ án, James L. Buckley –
nguyên đơn – là người thuộc đảng Bảo thủ (Conservative
Party), một đảng nhỏ buộc phải phản đối các giới hạn tài chính vì nó làm giảm năng lực cạnh tranh của đảng này với các đảng phái lâu đời như Cộng hòa hay Dân chủ. Bị đơn, Francis R. Valeo, là Thư ký và đại diện cho Thượng viện Hoa Kỳ trước tòa.
Sau hơn ba tháng tranh luận và cân nhắc, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đưa ra hàng loạt các kết luận: https://supreme.justia.com/cases/federal/us/424/1/
và lý giải đi kèm, với 7/9 phiếu đồng thuận từ các thẩm phán. Phán quyết có thể được tạm rút gọn những điểm quan trọng như sau:
Đối với giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân dành cho một ứng cử viên, một cuộc vận động tranh cử nhất định, tổng chi của cá nhân cho tất cả các cuộc tranh cử trong một năm tài chính, cùng theo đó là các yêu cầu về tiết lộ và minh bạch thông tin người đóng góp, Pháp viện cho rằng đây là những công cụ pháp lý cần thiết nhằm chống lại thực trạng các ứng cử viên của các chức danh nhà nước quan trọng có thể bị lệ thuộc vào các mạnh thường quân lớn.
Các giới hạn và biện pháp đặt ra, theo Pháp viện, vừa bảo vệ được lợi ích của một nhà nước chính trực, minh bạch, song cũng không làm ảnh hưởng quá nhiều đến quyền tự do biểu đạt của công dân.
Ngược lại, đối với việc đặt ra giới hạn chi tiêu
tranh cử của các ứng viên, đặt ra trần được phép sử dụng từ các nguồn quỹ thuộc sở hữu chính ứng viên đó, gia đình ứng viên hay của toàn bộ chiến dịch tranh cử… tạo nên hạn chế trực tiếp, xâm phạm lên quyền tự do biểu đạt được ghi nhận trong Tu chính án thứ Nhất. Tương tự như vậy, một cá nhân độc lập chi tiền để quảng bá cho hình ảnh và thông điệp chính trị của một ứng cử viên cũng được xem là
hình thức ngôn luận được bảo vệ.
Những hạn chế này sẽ giới hạn năng lực của ứng viên, công dân và các tổ chức xã hội có thể tham gia vào các hoạt động được bảo vệ như biểu đạt và tuyên truyền các thông điệp chính trị bằng các buổi mít-tinh, gặp mặt, đại nhạc hội, quảng cáo và các hoạt động công cộng khác.
Nói cách khác, theo các thẩm phán, chi tiền trong tranh cử đồng nghĩa với việc thực hiện quyền nói của mình. Hạn chế việc chi tiền đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do ngôn luận về mặt định lượng (quantity).
Cuối cùng, cùng với các kết luận khác, Tối cao Pháp viện cũng đồng thời khẳng định thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh của Ủy ban Bầu cử Liên bang được trao trực tiếp cho các
thành viên Nghị viên là vi phạm nguyên tắc tam quyền phân lập mà Hoa Kỳ theo đuổi từ thời kỳ lập quốc.
Tất cả các chức danh trong nhóm
Nhân viên Liên bang Hoa Kỳ (“Officers of the United States”) cần phải do Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và bổ nhiệm, với ý kiến và sự chuẩn thuận từ Thượng viện.
No comments:
Post a Comment