Cách
nay đúng 142 năm Triều đình nhà Nguyễn đã phải ký hòa Ước Giáp Tuất với Pháp
Ngày 15 tháng 03, 1874
·
1874 –
Chính phủ Pháp và triều
Nguyễn ký kết Hòa ước Giáp Tuất, công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp đối
với Nam Kỳ.
Traité de Saïgon
Le traité de Saigon transféra à la France la souveraineté sur des parties importantes de
l'Annam (actuel Viêt Nam), créant la colonie de
Cochinchine et lui
donnant accès à la péninsule
indochinoise. Il fut signé
en 1862 et réitéré en 1874.
Nam_Ky_Luc_Tinh1841-1862
Le premier
traité de Saigon:
Le traité de Saïgon fut
signé le 5 juin 1862 entre
le dernier empereur précolonial de l'Annam, Tu Duc, et
des représentants de l'Empire
français.
Aux termes de l'accord, l'Annam cédait aux Français Saïgon,
l'île de Poulo
Condor et
trois provinces méridionales – Bien Hoa, Gia Dinh et Dinh Tuong – qui deviendront connues sous le nom de Cochinchine. Ce traité fut confirmé par le traité de Hué signé
le 14 avril 1863.
Vua Tự Đức: 1847-1883
Le second
traité de Saigon:
Le second traité, signé le 15 mars 1874, fut négocié par Paul-Louis-Félix Philastre. Il
réitérait les stipulations de l'accord antérieur. L'Annam reconnaissait
la souveraineté entière de la France sur les trois provinces du Sud occupées par
l'amiral de la Grandière en 1867.
L'amiral par
Mascré-Souville, Musée du quai branly.
Le fleuve
Rouge (Song
Hong) fut ouvert au commerce ainsi que les ports d'Hanoï, Haiphong et Qui Nonh. Bien que la France rendît Hanoï,
l'empereur vietnamien implora l'aide de la Chine. Aussi, les deux puissances proclamèrent leur souveraineté sur
les territoires.
En mars 1882, le
premier gouverneur civil de la Cochinchine Charles Le Myre de Vilers considéra le traité de 1874 comme non
respecté, ce qui conduisit à l'occupation d'Hanoï le 27 avril 1882.
Charles
Marie[1] Le
Myre de Vilers né le 17 février 1833 à Vendôme et mort le 9 mars 1918 à Paris, est un diplomate et homme politique français. Il fut gouverneur de la Cochinchine (et ministre plénipotentiaire en Annam)
et résident général de Madagascar.
La guerre franco-chinoise et l'expédition du Tonkin allaient découler de cet affrontement,
aboutissant à la mise sous protectorat de l'Annam et du Tonkin puis à la formation de l'Indochine française.
Treaty of Saigon:
From Wikipedia, the free encyclopedia
The Treaty
of Saigon was signed on June
5, 1862, between representatives of the French
Empire and the
last precolonial emperor of the House of Nguyen, Emperor Tự Đức. Based on
the terms of the accord, Tự Đức ceded Saigon, the
island of Poulo Condor and three
southern provinces of what was to become known as Cochinchina (Bien Hoa, Gia Dinh, and Dinh Tuong) to the
French. The treaty was confirmed by the Treaty of Hué signed on April 14, 1863.
The
Second Treaty of Saigon:
The Second Treaty of Saigon, signed on
March 15, 1874, was negotiated by Paul-Louis-Félix
Philastre in 1874
and reiterated the stipulations of the previous agreement. Vietnam recognized
the full sovereignty of France over the three provinces captured by admiral La
Grandière in 1867. The Red River (Song Hong) was opened for trade as well as the ports of Hanoi, Haiphong and Qui Nhơn. Although
France returned Hanoi, the
Vietnamese emperor was anxious to get help from China. As a result, both France
and China claimed sovereignty over Vietnamese territory. In March 1882, the
first civilian governor of Cochin China,
Le Myre de Vilers, deemed the treaty of 1874 unfulfilled. This led to the
occupation of Hanoi on April 27, 1882.
Hòa ước Giáp Tuất (1874)
TRAITÉ
conclu à Saigon, le 13 mars 1874, entre la France et le royaume d'Annam
http://belleindochine.free.fr/6TraiteconcluaSaigonMars1874.htm
Hiệp ước Giáp Tuất 1874 là bản hiệp định thứ hai giữa triều
Nguyễn và Pháp, được
ký vào ngày 15 tháng
3 năm 1874 với đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn - Chánh sứ toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phó
sứ toàn quyền đại thần và đại diện của Pháp là Dupré - Toàn
quyền đại thần, Thống đốc Nam Kỳ.
Hiệp ước gồm có 22 điều khoản với nội dung chính là
thay thế bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862, công
nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, lệ thuộc về chủ quyền ngoại giao,
mở cửa cho Pháp tự do buôn bán tại các cảng biển và trên sông Hồng cùng tự do truyền đạo.
Nguyên
nhân ký hiệp ước:
Sau khi ký xong Hiệp ước
Nhâm Tuất 1862, Pháp chiếm đóng và cai trị 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Pháp quyết
định xâm chiếm và lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại của Nam Kỳ, và đến năm 1867
họ đã lấy nốt thành công 3 tỉnh này sau khi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản quyết
định giao các thành cho Pháp do biết không chống đỡ nổi.
Sau khi củng cố Nam Kỳ, nhân sự rối ren ở Bắc Kỳ, Pháp
đã quyết định từng bước tiến ra với mục đích chiếm lấy Bắc Kỳ. Để mục đích được
thuận lợi, Pháp ra những yêu sách rất ngang ngược với triều đình Huế về các
quyền lợi ở Bắc Kỳ rồi đưa quân ra và chiếm lần lượt các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương.
Tình hình diễn ra ở Bắc Kỳ cũng như sự chiếm đóng các tỉnh Tây
Nam Kỳ dẫn tới vi phạm vào bản Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 mà hai bên đã ký, và dẫn
tới việc Pháp thay thế hiệp ước mới bằng bản Hoà ước Giáp Tuất 1874 có lợi hơn
cho Pháp.
Tình
hình:
Francis Garnier lúc bấy
giờ đã chiếm được thành Hà Nội nhưng lực lượng quân sự của triều đình Huế
vẫn còn, do Hoàng Tá Viêm cầm
đầu.
Quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc vây Hà
Nội. Garnier đem quân đi đánh thì bị phục kích giết chết tại Cầu Giấy.
Francis
Garnier trên con tem năm 1943 của Liên bang Đông Dương
Mộ Hoàng Kế
Viêm tại làng Văn La,huyện Quảng Ninh, Quảng Bình
Trước cái chết của F. Garnier, phía Pháp đồng ý nghị hòa. Nguyễn Văn Tường thay
mặt cho triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Tuất (1874). Theo đó thì có hai điểm
chính:
Một điểm mâu thuẫn trong hiệp ước này là một mặt Pháp
công nhận sự độc lập của Việt Nam đối với các nước khác (điều 2) nhưng đồng
thời lại đòi chính sách ngoại giao của Việt Nam phải thích ứng với chính sách
ngoại giao của Pháp (điều 3).
Thật sự ra ở thời điểm này, Pháp vừa mới thoát ra khỏi cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ nên không coi đó là thời cơ thuận lợi cho
một cuộc viễn chinh lâu dài. Vì thế Pháp đồng ý hòa giải nhưng vẫn giữ cho mình
một vài cớ để can thiệp về sau này.
Nội
dung:
Điều 1: Sẽ có
hòa bình, hữu nghị và bền vững giữa nước Pháp và Vương Quốc An Nam.
Điều 2: Tổng
thống Cộng hòa Pháp quốc thừa nhận quyền lực của vua nước An Nam và quyền độc lập
hoàn toàn đối với bất kỳ một thế lực ngoại bang nào, tuyên hứa viện trợ, giúp đỡ
và là chỗ nương tựa cần thiết của nhà vua nếu được yêu cầu mà không phải chịu một
phí tổn nào, để duy trì nền hòa bình trên khắp các vùng đất nước, để chống trả
bất cứ một sự tấn công nào và để dẹp bỏ tình trạng cướp bóc đang quấy phá một
phần vùng biển của Vương quốc.
Điều 3: Để
đáp lại sự bảo hộ này đức Hoàng thượng - Vua nước An Nam thỏa thuận phù hợp
chính sách ngoại giao của mình với chính sách ngoại giao của nước Pháp và không
có gì thay đổi với những mối liên hệ ngoại giao hiện có của đức vua. Sự giao ước
chính trị này không áp dụng vào bản Thương ước. Tuy nhiên, trong bất cứ trường
hợp nào, đức Hoàng thượng vua nước An Nam có thể ký kết Thương ước với bất cứ một
nước nào khác không phù hợp với Thương ước đã được ký kết giữa nước Pháp và
Vương Quốc An Nam, mà không báo trước với Chính phủ của nước Pháp.
Điều 4: Tổng
thống Cộng Hòa Pháp quốc cam kết tặng hoàng thượng Vua nước An Nam:[color=red]
1.
Năm chiếc tàu chạy máy hơi nước tổng cộng là 500 mã lực, trong
tình trạng toàn hảo về mặt máy móc và bồn đun nước sôi, cùng với súng ống đạn
dược và đồ phụ tùng đúng như chế độ quân sự quy định;
2.
Một trăm khẩu trọng pháo loại 70 ly và 160 ly, với 200 viên đạn
cho mỗi khẩu súng, một ngàn khẩu súng và 500 ngàn viên đạn. Tàu và súng ống đạn
dược sẽ được chở tới Nam Kỳ và chuyển giao trong thời hạn tối đa là 1 năm kể từ
ngày trao đổi hòa ước đã được hai phía chuẩn phê;
Ngài Tổng thống Cộng Hòa
Pháp Quốc cũng cam kết rằng: Đặt dưới quyền sử dụng của đức Vua
1.
Những huấn luyện viên quân sự và hải quân đủ số cần thiết để tái
lập quân đội và hạm đội của hoàng thượng;
2.
Những kỹ sư và trưởng xưởng để điều hành những công trình do đức
Hoàng thượng đề xướng;
3.
Những chuyên viên tài chánh để tổ chức các cơ cấu thuế khóa và hải
quan trong Vương quốc;
4.
Những giáo sư để thành lập một trường đại học ở Huế. Ngài tổng
thống cũng cam kết cung ứng cho đức Vua những tàu chiến, súng óng đạn dược cần
thiết.
Tiền lương trả công cho
các dịch vụ như vậy sẽ được ấn định bởi sự thỏa thuận của hai phái đoàn cao cấp
ký giao ước[/color]
Điều 5: Đức Hoàng thượng Vua
nước An Nam công nhận chủ quyền toàn vẹn của nước Pháp trên các vùng lãnh thổ
do nước Pháp hiện đang chiếm giữ và bao gồm trong các ranh giới như sau:
Về phía Đông; vùng
biển Trung Quốc và Vương Quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Về phía Tây; vịnh Xiêm
La; Về phía Nam; vùng biển Trung Quốc; Về phía Bắc; Vương quốc Cam Bốt và Vương
quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Mười một ngôi mộ của họ Phạm ở trong lãnh vực
làng Tân Niên Đông và Tân Quan Đông (tỉnh Sài Gòn) và ba ngôi mộ của họ Hồ ở
trong lãnh vực làng Linh Chung Tây và Tân Mai (tỉnh Biên Hòa), không được bóc
mộ, đào xới, xâm phạm hay đập phá. Sẽ cấp một lô đất rộng 100 mẫu cho các ngôi
mộ nhà họ Phạm và một lô tương đương như thế cho nhà họ Hồ. Hoa lợi thu được
trên các lô đất nầy được dùng để gìn giữ và bảo toàn các ngôi mộ và chu cấp các
gia đình lo việc trông nôm các phần mộ. Các lô đất được miễn các thứ thuế và
những người trong dòng họ Phạm, Hồ cũng sẽ được miễn thuế thân, khỏi thi hành
quân dịch hay đi dân công.?
Điều 6: Nước Pháp miễn cho
đức Vua không phải trả những phần tiền chiến phí cũ còn thiếu.
Điều 7: Đức Hoàng thượng cam
kết một cách chính thức, qua trung gian chuyển giao của chính phủ Pháp, trả nợ
số tiền chiến phí còn thiếu nước Tây Ban Nha là một triệu đồng đô la - hối xuất
0.72 lượng (bạc) cho mỗi đô la- và hoàn trả số nợ nầy bằng cách lấy phân nửa số
thu nhập các thuế quan đánh trên bất cứ mặt hàng hóa nào trên các bến cảng được
mở ra cho Đức Hoàng thượng cam kết một cách chính thức, qua trung gian chuyển
giao của chính phủ Pháp, trả nợ số tiền chiến phí còn thiếu nước Tây Ban Nha là
một triệu đồng đô la - hối xuất 0.72 lượng (bạc) cho mỗi đô la- và hoàn trả số
nợ nầy bằng cách lấy phân nửa số thu nhập các thuế quan đánh trên bấu mặt hàng
hóa nào trên các bến cảng được mở ra cho những người Âu, Mỹ. Số tiền thâu được
mỗi năm nộp vào Kho bạc ở Sài Gòn để trả cho chính phủ Tây Ban Nha, lập biên
nhận gởi cho chính phủ An Nam.
Điều 8: Tổng thống Cộng Hòa
Pháp và Hoàng thượng đức Vua ban bố đại xá trọn vẹn và giải trừ tất cả mọi sai
áp cầm giữ trên các tài sản của những công dân nước mình từ trước cho đến khi
hai bên ký kết hòa ước vì họ có dính líu hợp tác với phía bên này hay phía bên
kia.
Điều 9: Nhận biết rằng đạo
Gia tô truyền dạy con người theo đàng lành, Hoàng thượng đức Vua từ bỏ và chống
lại mọi sự ngăm cấm nhằm mục đích chống đạo này và cho phép thần dân của Hoàng
thượng theo đạo và truyền đạo một cách tự do.
Vì vậy, những tín đồ
Gia tô giáo của Vương quốc An Nam sẽ có thể tụ hội tại các nhà thờ với một số
lượng có giới hạn để hành lễ đọc kinh. Các tín đồ sẽ không bị ép buộc dưới bất
cứ một lý do nào để phải thi hành những điều trái với đạo giáo của họ, hoặc là
phải chịu một sự kiểm trau đặc biệt nào. Họ sẽ được tham dự các kỳ thi tuyển và
làm việc nơi các công sở mà không vì thế phải thi hành bất cứ một điêu gì mà
đạo cấm đoán.
Hoàng thượng thỏa
thuận bãi bỏ việc đăng ký tình trạng phân bổ số tín hữu Gia tô đã được thi hành
từ 15 năm trước đây và sẽ được đối xử giống như những thần dân khác trong vấn
đề kiểm kê dân số và thuế má. Hoàng thượng cũng thỏa thuận xét lại vấn đề quốc
phòng một cách khôn khéo trong cách dùng văn tự hay ngôn ngữ, những lời lẽ va
chạm tôn giáo và sửa đổi các điều khoản nào trong bản Thập Điều có dùng những
lời lẽ va chạm như thế.
Những giáo sĩ giám mục
và các người thừ sai có thể nhập cảnh tự do vào Vương quốc và lui tới các địa
phận truyền giáo của ho với một giấy thông hành do thống đốc Nam Kỳ Hạ ban cấp
được chiếu khán bởi thượng thơ bộ Lễ hay của tổng đốc tỉnh thành. Họ có thể
thuyết giảng mọi nơi các giáo điều của đạo Gia tô. Họ không phải bị đặt dưới
một sự giám sát đặc biệt nào và các làng mạc cũng không còn phải bắt buộc báo
trình lên chức quan của triều đình về việc tới lui và sự hiện diện của họ.
Các hàng giáo sĩ người
An Nam sẽ được hành đạo một cách tự do giống như những người thừa sai bề trên
của họ. Nếu hạnh kiểm của họ đáng quở trách và nếu theo luật pháp hiện hành mà
tội phạm của họ được xếp vào hàng khinh tội bị phạt bằng trượng hay bằn roi thì
hình phạt trượng hay roi sẽ được cải giảm bằng một hình phạt tương đương.
Các hàng giáo sĩ giám
mục, các người của hội thừ sai, các linh mục người An Nam sẽ được quyền mua,
thuê đất cát và nhà cửa, xây cất nhà thờ, bệnh xá, trường học, nhà mồ côi và
tất cả những tiện nghi khác để dùng trong việc phụng vụ tôn giáo của họ.
Tài sản do họ tạo dựng
để phụng vụ tôn giáo hiện đang bị sái áp sẽ được trao trả lại cho họ.
Tất cả những điều kê
khai ở trên nếu không có ngoại lệ thì cũng áp dụng cho những người thuộc hội
thừ sai Tây Ban Nha.
Sau khi hòa ước được
hai bên chuẩn phê, đức vua sẽ ban một dụ chỉ truyền rao kắp công chúng rằng
quyền tự do đã được hoàng thượng ban cho các tín đồ Gia tô của Vương quốc.
Điều 10:
Triều đình An Nam có thể mở một trường cao đẳng ở Sài Gòn đặt dưới quyền giám
thị của giám đốc Nha Nội vụ và chương trình dạy học ở trường ấy không có điều
gì đi ngược với đạo lý và sự thi hành quyền lực của người Pháp được mang ra
giảng dạy. Tự do tín ngưỡng được áp dụng nơi trường học đó.
Trong trường hợp có sự
vi phạm, người thầy dạy học vi phạm những điều quy định sẽ bị tống khứ về nơi
xứ sớ của đương sự và hơn nữa nếu trường hợp trầm trọng, trường cao đẳng có thể
bị đóng cửa.
Điều 11:
Triều đình An Nam thỏa thuận mở các thương cảng ở Thị Nại, trong tỉnh Bình
Định, ở Ninh Hải trong tỉnh Hải Dương, tỉnh thành Hà Nội, và đường thủy vận
sông Nhỉ Hà từ ngoài biển lên tới tỉnh Vân Nam.
Một thỏa ước bổ túc
cho bản Hòa ước cùng có hiệu lực chấp hành như bản Hòa ước sẽ ấn định các điều
kiện chấp hành cho việc thông thương.
Thương cảng Ninh Hải,
Hà Nội và đường thủy vận chuyển tiếp sẽ đước thông thương liền ngay sau khi hai
bên ký chuẩn phê hoặc sớm hơn nếu có thể được; thương cảng Thị Nại sẽ được
thông thương trong vòng một năm sau.
Các thương cảng hoặc
những đường thủy vận khác có thể được thông thương sớm hơn tùy số lượng và mức
quan trọng của tình hình giao thương hiện hữu đòi hỏi cần phải như thế.
Điều 12:
Người Pháp hay người Pháp gốc An Nam và những người ngoại quốc nói chung nếu
tuân hành luật pháp của xứ sở thì có thể gây dựng, sở hữu và tự quyết định một
cách tự do đối với tất cả những công cuộc làm ăn buôn bán và kỹ nghệ nơi các
tỉnh thành đã được đề cặp ở trên. Chính phủ của hoàng thượng sẽ tùy theo trường
hợp mà cắt đặt đất đai cần thiết cho công cuộc thiết đặt cơ sở của họ.
Họ cũng sẽ có thể vận
hành và buôn bán trên lưu vực sông Nhỉ Hà từ ngoài biển qua đến tỉnh Vân Nam
bằng cách chịu nộp thuế theo luật pháp ấn định và với điều kiện là họ không
được thực hiện những dịch vụ buôn bán dọc trên lưu vực sông nầy khoang từ biển
vào tới Hà Nội và từ Hà Nội đến biên giới Trung Quốc.
Họ có thể tự do tuyển
chọn và thuê mướn những người mại bản, thông ngôn, nhà văn, thợ thuyền, thủy
thủ và người làm mướn việc nhà.
Điều 13:
Tại mỗi cửa thương khẩu đã được mở, nước Pháp sẽ cử nhiệm một toà Lãnh sự hoặc
một Cơ quan Trợ tá có thẩm quyền đầy đủ với thành phần nhân sự không quá 100
người, để gìn giữ an ninh và bảo vệ uy quyền của toà lãnh sự, để thi hành nhiệm
vụ cảnh sát đối với những người ngoại quốc cho đến khi nào tất cả mọi lo âu vê
mặt nầy không còn nữa nhờ ở việc thiết đặt các mối liên hệ tốt đẹp qua sự thi
hành Hòa ước một cách trung chính.
Điều 14:
Về phía thần dân của Hoàng thượng, họ có thể tự do lưu thông, cư trú, sở hữu và
buôn bán ở nước Pháp và tại những lãnh thổ thuộc địa của Pháp đúng theo luật
lệ. Để bảo đảm cho họ được che chở bảo vệ, Hoàng Thượng có thể tùy ý cắt cử
những nhân viên của tới cư trú ở các thương cảng hay tỉnh thành do Hoàng Thượng
chọn lựa.
Điều 15:
Công dân Pháp, Âu Châu, Nam Kỳ Hạ hay những công dân ngoại quốc khác muốn sinh
sống ở tại các vùng chọn lựa vừa kể ở trên thì các đương sự phải đăng ký tại cơ
quan Trú Sứ Pháp để nơi đây thông báo chính quyền sở tại.
Thần dân của An Nam
muốn sinh sống trên lãnh thổ của Pháp cũng phải tuân theo cùng một quy định như
vậy.
Những công dân nước
Pháp hay của những nước ngoài muốn du lịch trong nước sẽ được chấp nhận nếu các
đương sự được cấp phát một sổ thông hành từ một cơ quan đại diện của Pháp và có
sự đồng ý cùng sự kiểm thự các chức quyền An Nam. Các đương sự không được buôn
bán, nếu vi phạm hàng hóa sẽ bị tịch thâu.
Cách đi lại du lịch
như thế gặp nhiều nguy hiểm vì tình trạng của đất nước hiện nay, những khách
ngoại quốc chỉ có thể đi thưởng ngoạn khi mà chính quyền An Nam, với sự đồng ý
của với cơ quan Trú Sứ Pháp ở Huế, nhận định rằng tình hình đất nước đã khá ổn
định.
Những chuyến du hành
trong nước của các công dân người Pháp mang tính chất tìm tòi nghiên cứu thì cũng
phải khai trình, du hành dưới danh nghĩa nầy, các đương sự sẽ được chính quyền
che chở và cung cấp thông hành cần thiết, được giúp đỡ để chu toàn công tác và
chương trình nghiên cứu của họ.
Điều 16:
Tất cả những việc tranh tụng giữa những công dân Pháp với nhau hoặc giữa người
Pháp với người ngoại quốc khác sẽ được phân xử bởi trú sứ Pháp.
Khi người Pháp hoặc
người ngoại quốc khác có việc tranh tụng với người An Nam thì hoặc có điều gì
khiếu nại hoặc đòi hỏi thì các nguyên đơn trước hết phải làm đơn trình lên Trú
Sứ để cố gắng dàn xếp một cách ổn thỏa.
Nếu việc dàn xếp ổn
tha không thể thực hiện được thì Trú Sứ sẽ nhờ đến sự trợ tá của một quan án
sát An Nam để giải quyết vụ tranh tụng, viên trú sứ và quan án cả hai cùng nhau
cứu xét sự vụ tranh tụng theo luật lệ mà phán xử thỏa đáng.
Thủ tục cũng áp dụng
cho trường hợp tranh tụng giữa một người An Nam với một người Pháp hay với một
người ngoại quốc: nguyên đơn người An Nam sẽ gởi đơn lên quan án và nếu quan án
nầy không thể dàn xếp thỏa đáng thì sẽ cùng viên quan Trú Sứ giải quyết việc
tranh tụng.
Tuy nhiên, mọi tranh
tụng giữa những người Pháp với nhau hay giữa người Pháp với một người ngoại
quốc thì chỉ có viên Trú Sứ Pháp có thẩm quyền xé xử.
Điều 17:
Những vụ phạm pháp đại hình hay tiểu hình của những người Pháp hay của người
ngoại quốc xảy ra trên lãnh thổ nước An Nam phải được trình báo và phán xử bởi
các tòa án có thẩm quyền ở Sài Gòn. Khi có sự yêu cầu của viên Trú sứ Pháp, các
chức quyền địa phương phi dùng mọi nỗ lực để truy bắt tên hoặc bọn tội phạm và
giải giao đến viên Trú sứ..
Khi một vụ phạm pháp
đại hình hay tiểu hình của một thần dân người An Nam xảy ra trên lãnh thổ của
Pháp, quan Lãnh sự hoặc quan Ủy viên của Hoàng thượng phải được thông báo một
cách chính thức các thủ tục truy tố áp dụng với phạm nhân và trong khả năng bảo
đảm rằng mọi hình thức luật định đã được tôn trọng đúng mức.
Điều 18:
Khi có kẻ bất lương phá rối hoặc cướp giật trên phần lãnh thổ của Pháp rồi chạy
trốn sang sang lãnh thổ của nước An Nam thì chức quyền địa phương khi được
thông báo phải gắng sức truy lùng bắt kẻ phạm pháp để giải giao cho chức quyền
Pháp.
Cùng một thể thức, nếu
những kẻ trộm, cướp hay phạm tội hình sự nào là thần dân của đức Vua mà lại
chạy sang ẩn náu trên phần lãnh thổ của Pháp; Những kẻ đó phải được truy bắt
ngay sau khi được thông báo và phải được giải giao về cho chức quyền bản xứ của
đương phạm.
Điều 19:
Trong trường hợp một người dân của nước Pháp hay của ngoại quốc qua đời trên
lãnh thổ của nước An Nam hoặc là một người dân của nước An Nam qua đời trên
lãnh thổ của Pháp thì tài sản của người quá cố sẽ được giao trả cho những người
thừa kế của họ; nếu những người thừa kế vắng mặt thì viên Trú Sứ sẽ có nhiệm vụ
gọi những người thừa kế luật định để chuyển giao.
Điều 20:
Để bảo đảm và tạo điều kiện dễ dàng cho việc thi hành các điều khoản và những
quy định trên bản hiệp ước nầy, một năm sau kể từ ngày ký chuẩn phê, ngài Tổng
thống Cộng Hoà Pháp Quốc sẽ bổ nhiệm một viên Trú Sứ ngang hàng với một quan
Thượng thư bên cạnh hoàng Thượng đức Vua An Nam. Viên Trú Sứ có nhiệm vụ bảo
toàn mối liên lạc hữu nghị, giữa Các Thành viên Cao cấp của hai bên đối ước và
giám sát việc thi hành theo lương tâm các điều khoản của bản Hòa Ước.
Đẳng trật của viên Trú
Sứ nầy, những danh dự và quyền lợi mà đương sự được hưởng, sẽ được ấn định sau
nầy theo một thỏa thuận chung, và trên một nền tảng hỗ tương hoàn toàn giữ hai
bên đối ước.
Hoàng Thượng đức Vua
An Nam có quyền bổ nhiệm các Trú Sứ ở Paris và ở Sài Gòn.
Tất cả những loại chi
phí dùng cho nhiệm kỳ phục vụ của những Trú Sứ nầy bên cạnh Chính phủ đồng minh
của mình sẽ do chính phủ của mỗi đương sự đài thọ.
Điều 21: Hòa Ước
nầy thay thế Hòa Ước năm 1862, và chính phủ Pháp có trách nhiệm tìm kiếm sự đồng
thuận của chính phủ Tây Ban Nha. Trong trường hợp chính phủ Tây Ban Nha không
chấp nhận những sự thay đổi để thay thế Hòa Ước 1862 thì Hòa Ước nầy chỉ có hiệu
lực giữa nước Pháp và nước An Nam mà thôi, và những điều ước cũ có liên hệ tới
Tây Ban Nha vẫn còn hiệu lực chấp hành. Trong trường nầy, nước Pháp sẽ đảm nhận
việc trả tiền bồi thường chiến phí và sẽ thay thế vai trò chủ nợ của Tây Ban
Nha đối với con nợ là nước An Nam để được hoàn trả đúng theo những quy định nơi
điều thứ 7 của hoà ước hiện tại.
Điều 22: Hoà ước
nầy được thực hiện một cách vĩnh viễn, sẽ được chuẩn phê và nghi thức chuẩn phê
sẽ được tổ chức và trao đổi tại Huế, trong vòng thời hạn một năm hoặc sớm hơn nếu
có thể được. Hòa Ước sẽ được phát hành và có hiệu lực kể từ ngay sau khi trao đổi.
Bởi các lẽ ấy, các quan khâm sai đã lần lược ấn ký vào bản Hòa Ước nầy.
Làm tại Sài Gòn, tại dinh Thống Đốc Nam Kỳ thuộc Pháp, làm thành
bốn bản, vào Chủ nhật, ngày 15 tháng 03 năm 1874, tương ứng với ngày 27 tháng 1
âm lịch niên hiệu Tự Đức thứ 27.
Phó đề đốc Dupré, Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường
Tham
khảo:
·
Bang giao Đại Việt - triều Nguyễn, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin 2005
No comments:
Post a Comment