Nhà Tiền
Lê (Hán-Nôm: 家黎 • 黎朝, nhà Lê • Lê triều
980-1009)
Nhà Tiền Lê
Nhà Tiền Lê
Đại Cồ Việt
Đế quốc
980–1009
Đại Cồ Việt dưới thời
vua Lê Hoàn
Lịch sử
Chiến tranh chống Tống 981
Nhà Lê (Hán-Nôm: 家黎 • 黎朝, nhà
Lê • Lê triều), hay còn được gọi là nhà Tiền Lê (Hán-Nôm: 家前黎 • 前黎朝, nhà
Tiền Lê • Tiền Lê triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Đinh Phế Đếnhường ngôi cho Lê Hoàn vào năm 980, trải
qua ba đời quân chủ và chấm dứt khi Lê Long Đĩnh qua đời.
Lịch
sử
Thành lập
châu Á vào giữa thế kỷ thứ 9 đến hết thế kỷ
thứ 10, ta có thể thấy rõ lãnh thổ Đại Cồ Việt (màu vàng)
Sau khi Đinh Tiên Hoàng và con là Đinh
Liễn bị ám hại, Vệ Vương Toàn lên ngôi, Lê Hoàn
làm phụ chính, xưng là Phó vương.
Triều thần sợ Lê Hoàn cướp ngôi vị Thiếu đế, nên các công thần
là Định Quốc công Nguyễn Bặc và Ngoại giáp Đinh Điền dẫn quân về kinh đô định giết Lê
Hoàn.
Lực lượng này thua trận và bị Lê Hoàn giết.
Năm 980, quân Tống nhân cơ hội đem quân sang muốn cướp nước. Khi triều
đình đang bàn kế hoạch xuất quân. Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo
trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người:
"Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để
thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết
để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ? Chi bằng
trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn".
Quân sĩ đều hô vạn tuế.
Lúc đó, người đứng đầu triều đình là Dương Thái hậu không còn cách nào khác
do mọi quân sĩ đều tôn lập Lê Hoàn, bèn thuận theo, sai lấy áo long cổn khoác
lên người Lê Hoàn, đưa Lê Hoàn lên làm Hoàng
đế. Đây chính là thời khắc lập ra nhà Tiền Lê.
Cai trị
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tiến hành chuẩn bị chống lại nhà Tống
trong Chiến tranh Tống - Việt năm 981, với
chiến thắng thuộc về Lê Hoàn.
Sau chiến thắng, Lê Hoàn liền sai sứ sang nhà Tống cống các đồ
thổ sản và dâng biểu tạ lỗi nhằm giữ mối quan hệ hòa hảo không đáng đánh mất
giữa Việt và Tống, đồng thời cũng thảo phạt Chiêm
Thành đang rất mạnh ở phía Nam.
Ngay sau bàn định ngoại trị, Lê Hoàn vì muốn ổn định chính trị
bên trong, đã cưới Dương Thái hậu làm một trong các Hoàng hậu của mình.
Theo quan điểm Nho
giáo của các nhà chép sử sau này, như trong Đại Việt sử ký toàn thư đã viết, thì ông bị chê
trách về đạo vợ chồng do ông đã lập Dương Thái hậu làm Hoàng hậu của mình.
Tuy nhiên, điều đó cũng không cản trở ông có nhiều thành tựu xây
dựng quốc gia, cũng như chứng minh được tài trị vì của mình.
Trong khi cai trị, ông đã cho xây dựng nhiều công trình, đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để
chấn hưng nền kinh tế.
Ông là vị Hoàng đế trong lịch sử mở đầu cho lễ tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông
nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam.
Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục
noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.
Vì vậy, trong thời gian ông trị vì, tôn hiệu của ông được quần
thần dâng tôn là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng
Hiếu hoàng đế.
Nội chiến giữa các Hoàng tử
Lê Hoàn là một vị Hoàng đế có rất nhiều con trai. Con trưởng của
ông là Lê Long
Thâu đã được chọn làm người kế vị từ những năm đầu tiên khi ông
lên ngôi, nhưng lại đột ngột qua đời sớm vào năm 1000, để
lại ngôi vị Thái tử bỏ ngỏ.
Vào lúc này, người con thứ 5 của ông là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh tự ứng cử mình làm Thái tử. Theo ghi
nhận của ĐVSKTT, Lê Hoàn rất thích Long Đĩnh và tính chọn làm Trữ quân, nhưng
bị các đại thần thân cận ngăn lại vì nhiều người con lớn và tài ba hơn Long
Đĩnh, trong đó có Lê Long
Tích, giữ tước vị Đông Thành vương và là con trưởng nhất lúc đó của
ông sau khi Lê Long Thâu qua đời.
Lê Hoàn bỏ ý định lập Long Đĩnh làm Thái tử, nhưng cũng không
chọn trưởng tử Long Tích, mà chọn người anh cùng mẹ của Long Đĩnh là Nam Phong
vương Lê Long Việt.
Ngay lập tức, các hoàng tử là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh, Đông
Thành vương Lê Long Tích, Trung Quốc vương Lê Long
Kính tranh vị với Thái tử Lê Long Việt.
Trong nước 8 tháng không có ai làm chủ.
Tới đầu năm 1006,
vào mùa đông năm 1005, Đông
Thành vương Lê Long Tích bị Thái tử Long Việt đánh bại, chạy đến châu Thạch Hà
(Hà Tĩnh) thì bị người bản địa giết chết.
Vài tháng sau, Lê Long Việt thuận lợi lên ngôi Hoàng đế.
Trước sự thắng thế của Lê Long Việt, các hoàng tử khác tạm thời
án binh bất động.
Tuy nhiên, Lê Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị em cùng mẹ
là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh giết chết lên thay.
Lê Long Đĩnh lên ngôi, tôn hiệu Khai Thiên Ứng Vận Thánh
Văn Thần Vũ Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế
Lê Long Đĩnh trị vì
Là một người có nhiều quân công, Lê Long Đĩnh liền sau đó hiểu
rằng ông phải đích thân đi dọn dẹp các hoàng tử khác mới mong được sự trị vì
vững chắc và yên ổn.
Khi đó, Ngự Bắc vương Lê Long
Cân và Trung Quốc vương Lê Long Kính chiếm trại Phù Lan để làm
phản. Lê Long Đĩnh thân đi đánh, khiến Ngự Bắc vương Long Cân phải bắt Trung
Quốc vương Long Kính đem nộp và xin đại xá.
Long Đĩnh tha cho Long Cân, còn Long Kính bị xử tử. Ngự Man
vương Lê Long Đinh do khiếp sợ cũng đầu hàng. Từ đấy về
sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả.
Sau đó, Lê Long Đĩnh đã củng cố ngoại giao bằng những chính sách
rất mềm dẻo đối với nhà Tống. Ông rất chuộng Phật
giáo, bằng việc xin thỉnh kinh Đại Tạng về.
"Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14 (1008), sau khi nước
ta đã hòa với Tống rồi, vua Đại Hành sắc ông Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã
sang sứ nước Trung Hoa, cống hiến đồ thổ sản và xin vua Tống ban cho bộ
"Cửu kinh" và "Đại Tạng kinh".
Vua Tống trao cho những bộ ấy và cho sứ giả đưa về. Đó là lần
đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa vậy".
Cửu kinh gồm: Kinh
Dịch, Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh
Xuân Thu, Hiếu
Kinh, Luận
Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ; là 9 bộ sách vĩ đại
nền tảng của văn minh Trung
Hoa lần đầu tiên nhập vào Việt
Nam là do Lê Long Đĩnh lấy về.
Còn kinh Đại Tạng là
một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung
Hoa sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến
cuối thế kỷ thứ 10 mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển.
Ngoài ra, ông cũng chăm lo kinh tế bằng cách cho xây đắp các
tuyến đường lớn, những con đường thủy bộ cho vững chắc để tiện việc giao
thương.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1009, Lê Long Đĩnh lại
xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung
Châu thuộc Trung Hoa, nhưng Tống đế chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi
hàng hóa tại Liêm
Châu và trấn Như Hồng, là
những nơi giáp vùng biên giới thôi.
Theo An Nam chí lược, vua Tống cho rằng Giao Chỉ
thường cướp phá vùng bờ biển nước Tống, nay cho buôn bán ở Ung Châu không tiện,
cứ theo lệ cũ là trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và Trấn Như Hồng.
Lê Đế Long Đĩnh trong 4 năm cầm quyền đã 5 lần cầm quân đánh dẹp
(ở các vùng đất thuộc Hưng
Yên, Phú Thọ, Tuyên
Quang, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày
nay), vì nhà nước Đại Cồ Việt vẫn là nhà nước mới và vẫn chưa thực sự mạnh để
các nơi tuân phục, điều này tiếp diễn nhiều năm trong thời kỳ đầu của nhà Lý.
Sự trỗi dậy của họ Lý
Sách ĐVSKTT nói, Lê Ngọa Triều tính hiếu sát thường thiêu sống,
dìm nước hay dùng dao cùn mà tùng xẻo tù nhân; sư sãi vốn có thế lực rất lớn
đối với chính sự nhưng Ngọa triều từng sai người róc mía trên đầu sư Quách
Ngang để làm trò cười; lại nuôi nhiều bọn hề làm trò khôi hài trong triều để
làm loạn lời tâu việc của các quan.
Do những việc làm đó, Ngọa triều bị quan lại và dân chúng căm
ghét. Sử cũng chép rằng, vì chơi bời sa đọa, nên Lê Long Đĩnh bị bệnh
trĩ không ngồi được, phải nằm mà coi chầu, nên được gọi
là Lê Ngọa Triều.
Tuy nhiên, nhiều nhận định chơi bời sa đọa không phải là nguyên
nhân sinh ra bệnh trĩ, mà thể Lê Long Đĩnh bị suy nhược bởi nhiều nguyên nhân
nào đó.
Vào lúc này, vị vua họ Lê suy nhựoc đang không biết có một người
mình tin cậy lại là người có khả năng thay thế mình. Chính là vị trưởng quản
lính thân vệ, Lý Công Uẩn.
Tượng Lý Thái
Tổ tại Kiến Sơ
“
|
Lúc đó, ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét đánh, người
hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ:"Thụ căn điểu điểu, mộc biểu
thanh thanh, hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành, đông a nhập địa, mộc dị tái
sinh, chấn cung kiến nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ
thái bình"
(Dịch nghĩa: Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hòa
đao rụng, mười tám hạt thành, cành đông xuống đất, cây khác lại sinh, đông mặt
trời mọc, tây sao náu hình, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình).
Sư Vạn
Hạnh, một nhà sư có địa vị khi ấy tự đoán riêng rằng: "Thụ
căn điểu điểu", chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là vua, chữ điểu đồng âm
với yểu, nên hiểu là yếu. "Mộc biểu thanh thanh", chữ biểu nghĩa là
ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ thanh âm gần giống với chữ thanh nghĩa là
thịnh; Hòa, đao, mộc [ghép lại] là chữ Lê; Thập, bát, tử là chữ Lý; Đông A là
chữ Trần; nhập địa là phương Bắc vào cướp: "Mộc dị tái sinh" là họ
Lê khác lại sinh ra. "Chấn cung kiến nhật", chấn là phương Đông,
kiến là mọc ra; nhật là thiên tử. "Đoài cung ẩn tinh",
"đoài" là phương tây, "ẩn" cũng như lặn, "tinh"
là thứ nhân. Mấy câu này ý nói là vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ
Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tửở phương đông mọc ra thì thứ nhân ở phương tây
lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình".
"Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường
thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều,
nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại
đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì
còn ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để
xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một".
Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh
giấu ở Tiêu Sơn. Song từ ấy cũng lấy thế tự phụ mới nảy ra lòng nhòm ngó ngôi
vua, mà người ta cũng quy phụ.
Tương truyền, khi Lê Long Việt bị giết, triều đình phải bỏ
chạy, không ai dám đến gần xác vị Hoàng đế trẻ, nhưng chỉ có Lý Công Uẩn là
ôm đến gào khóc, Lê Long Đĩnh vì ấn tượng hành động này, về sau cất nhắc Lý
Công Uẩn nhiều chức vị quan trọng thân cận. Có lần, Lê Long Đĩnh ăn qủa khế
lại thấy hột mận (chữ Lý nghĩa là mận), mới tin lời sấm ngữ, ngầm tìm người
họ Lý giết đi, thế mà Lý Công Uẩn ở ngay bên cạnh lại không hề bị nghi ngờ.
Nhân các con của Long Đĩnh còn bé, Điện tiền Lý Công Uẩn cùng
Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân Tùy
Long vào làm Túc vệ.
Chi hậu là Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có
muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích rằng:
Đào Cam Mộc (chữ Hán: 陶甘沐; 942-1015) là đại thần nhà Tiền Lê và là đại công thần nhà Lý trong lịch sử
Việt Nam.
“Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất
nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nỗi
nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao nhác,
mong tìn chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết
đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê,
trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm
gì!".
Lý Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc
có mưu khác, mới giả cách mắng rằng:
"Sao ông lại nói như thế, tôi phải bắt ông nộp
quan!"
Đào Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng:
"Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám
phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ
chết".
Công Uẩn nói:
"Tôi đâu nở cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết
ráo, nên răng ông đó thôi".
Hôm sau, Đào Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn:
"Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời
sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che dấu được nữa. Chuyển họa làm
phúc, chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi
ngại gì nữa?".
Công Uẩn nói:
"Tôi đã hiểu rỏ ý ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu
thực như lời ấy thì nên tính kế thế nào?".
Cam Mộc nói:"Thần Vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng
người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, Thân
vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước
chảy chỗ thấp, có ai ngăn được!".
Đào Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện
với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, điều họp cả ở
trong triều, bàn rằng:
"Hiện nay, dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa
bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối
mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách
lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có
giữ được cái đầu hay không?".
Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên
tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô
"vạn tuế", vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm
sau làm niên hiệu Thuận Thiên năm đầu.
Đốt giềng lưới, bãi ngục tụng, xuống chiếu từ nay ai có việc
tranh kiện cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết.
|
”
|
Từ
đây nhà Lý chính thức thành lập.
Nội
trị
Bộ máy chính quyền
Nhà Tiền Lê nối tiếp và hầu như giữ nguyên mọi quy củ của nhà
Đinh. Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đặt chức quan trong triều,
phong Hồng Hiến làm Thái sư, Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại tổng
quản, Đinh Thừa Chinh làm Nha nội đô chỉ huy sứ.
So với nhà Đinh tập trung hết quyền hành về tay hoàng đế, vua Lê
đã chia trách nhiệm cho các đại thần. Chỉ riêng việc đánh dẹp thì nhà vua
thường thân chinh cầm quân.
Đánh dẹp trong nước
Trong thời gian cai trị, các vua Tiền Lê vẫn gặp phải sự chống
đối của các tù trưởng địa phương, nhất là những nơi xa xôi hẻo lánh.
Năm 989, Lê Đại Hành sai viên Quảng giáp là Dương Tiến Lộc đi
thu thuế hai châu Hoan và Ái. Tiến Lộc đem người hai châu ấy xin theo về với
Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Dương Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái làm
phản. Lê Đại Hành thân hành đi đánh, giết chết Tiến Lộc và rất nhiều người 2
châu đó.
Năm 999, Lê Đại Hành lại thân đi đánh Hà Động, dẹp
được tất cả 49 động. Sau đó vua Lê lại phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên
(Cao Bằng).
Người Cử Long làm
loạn không phục triều đình. Năm 1001, Lê Đại Hành lại thân chinh đi đẹp được
loạn.
Sang thời Ngọa Triều vẫn phải đối phó với sự chống đối của các
địa phương. Năm 1008, Ngọa Triều thân hành đi đánh hai châu Đô Lương, Vị Long,
bắt được vài trăm người bản địa. Cùng năm, vua Lê lại đi đánh châu Hoan và châu
Thiên Liễu, bắt được tù binh về giết.
Giao thông
Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983, Lê Đại Hành sai quan Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn
người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến Châu Địa Lý.
Năm 1003, vua Lê lại thân hành đi Hoan Châu, ra lệnh vét kênh Đa
Cái cho Thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ám Châu.
Năm 1009, triều thần đề nghị xin đào kênh, đắp đường và dựng cột
bia ở Ái Châu. Lê Ngọa Triều xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu Ái đào đắp
từ cửa quan Chi Long qua
Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung. Sau đó Lê Long Đĩnh lại ra lệnh đóng thuyền để ở các
bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại.
Tháng 7 năm đó, nhân đi đánh châu Hoan Đường, hành quân đến Hoàn
Giang[f], Lê
Long Đĩnh sai Hồ Thủ Ích đem hơn 5.000 quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường
từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để tiện cho việc hành quân về phía nam.
Kinh tế
Các loại
thuế
Nhà Tiền Lê đặt ra lệ đánh thuế căn cứ vào số lượng tài sản về
ruộng đất. Thuế thân chia ra hai loại:
Tiền công dung là tiền công dịch (như lao động công ích) mà người dân phải
chịu mỗi năm 10 ngày và có thể nộp tiền thay vào việc tạp dịch
Tiền thuế hộ: là tiền mỗi gia đình phải nộp hàng năm
Tiền thuế điệu: Tiền mỗi hộ phải nộp để đóng vào việc quân
Nhà Tiền Lê đặt ra thuế thổ sản theo phép thời Tam Đại (Hạ, Thương, Chu) của Trung
Quốc, chỉ lấy cống phẩm mà không thu bằng tiền. Đồng thời, triều
đình có chính sách khuyến khích thương mại. Những người buôn bán không phải nộp
thuế, coi như họ chỉ bán những nông phẩm sản xuất ra mà đã chịu thuế ruộng đất
rồi
Nông
nghiệp
Nhà Tiền Lê xem trọng nông nghiệp. Vào đầu xuân năm 987 vua Lê Đại Hành đã thực hiện lễ cấy tịch điền, để
động viên, khuyến khích nhân dân sản xuất nôg nghiệp.
[color=red]Đó là lễ tịch điền đầu tiên mà một vị vua Việt Nam thân
hành đi cày mà được sử sách ghi nhận lại.[/color]
Thương
mại
Sử sách không chép rõ về hoạt động thương mại trong nước. Đối tác quan hệ buôn bán
ngoại thương chủ yếu của Đại Cồ Việt là Trung
Quốc. Hai bên lập ra những nơi giao dịch song phương gọi là Bạc
dịch trường đặt trên đường thông lộ biên giới.
Những Bạc dịch trường quan trọng trong thời kỳ này là trại Vĩnh
Bình (được Lê Văn Siêu phỏng đoán là chợ Kỳ Lâm hiện nay), tại
Sách Nam Giang thuộc trại Cổ Vạn và châu Tô Hậu (Lê Văn Siêu phỏng đoán là châu
Thất Khê), trại
Hoành Sơn (Na Chàm ở ải Nam Quan). Trại
Hoành Sơn tụ tập nhiều nhà buôn từ châu Quảng Nguyên của Đại Cồ Việt và châu
Đặc Ma của nước Đại Lý (Vân Nam) và
các lái buôn từ Quảng Châu của Tống.
Hai bên gặp nhau thường uống
rượu làm vui rồi mới bàn chuyện buôn bán. Người Tống làm nhà ở tại chỗ lâu ngày
và thường dìm giá làm người bán phải bán rẻ; nhưng phú thương người Việt cũng
không chịu, cầm giữ giá lâu
Các quan chức địa phương biên giới cũng hỗ trợ cho quan hệ buôn
bán của các thương gia hai bên. Nếu xảy ra việc kêu ca vì người bán cân thiếu
thì phía Đại Cồ Việt lại cử sứ sang Khâm châu để thử lại cân để kiểm tra. Không
những thế, chính triều đình nhà Tiền Lê cũng sai người sang giao dịch thẳng với
khách buôn người Tống. Hàng bán của Đại Cồ Việt gồm có vàng, bạc, tiền
đồng. Lê Văn Siêu cho rằng đây không chỉ là thị trường hàng
hóa mà còn là thị trường tiền tệ mà hai bên trao đổi ngoại
hối.
Văn hóa
Sử sách không ghi chép nhiều về những dấu ấn văn hóa thời Tiền
Lê. Ảnh hưởng lớn nhất trong các tôn giáo là đạo Phật đã có từ thời thuộc
Đường. Các nhà sư đã được sự tin cậy của hoàng đế, cho làm quan trong triều để
bàn kế sách quốc gia.
Sử sách ghi lại hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là bài thơ
của nhà sư Đỗ Pháp
Thuận đối đáp với sứ Tống và bài từ khúc của sư Khuông Việt tiễn sứ Tống ra về năm 987. Lê Quý Đôn có lời ca ngợi hai ông: "Sư
Thuận thơ ca làm sứ Tống kinh sợ, Chân Lưu có từ khúc vang danh một thời".
Đối
ngoại
Với Trung Quốc
Thực hiện chính sách:"thuần phục giả độc lập thật". Về
cơ bản, quan hệ ngoại giao giữa nhà Tiền Lê với nhà Tống có nhiều thuận lợi.
Nhà Tống tỏ ra dè dặt, mềm dẻo với các vua Lê vì luôn phải đối phó với nguy cơ
từ người Khiết Đan ở phía bắc.
Sau thất bại năm 981, vua
Tống bằng lòng công nhận Lê Hoàn, phong ông làm Tiết độ sứ và không hỏi tới dòng dõi nhà
Đinhnữa.
Tranh vẽ Tống
Thái Tông.
Trong lần đi sứ năm 987, Lý Giác làm thơ tiễn có câu:
"Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu", nghĩa là: Ngoài trời
lại có trời soi nữa. Sư Khuông Việt nói rằng thơ này có ý tôn Lê Hoàn không
khác gì vua Tống.
Năm 990, nhà Tống lại cử Tống Cảo đi sứ Đại Cồ Việt lần nữa. Lê Văn
Siêu bình luận điều này cho rằng: thượng quốc ít khi chịu mất công vì nước nhỏ
như vậy, vì nhà Tống trong thời kỳ giao tranh với nước Liêu năm 986 và bộ lạc
Thảng Cốt năm 990.
Khi sứ Tống là Tống Cảo sang phong chức, Lê Hoàn nhận tờ chiếu
của vua Tống mà không chịu quỳ, nói thác rằng bị ngã ngựa đau chân. Lúc đó sứ
Tống im lặng không thắc mắc gì. Lê Văn Siêu cho rằng điều này hoàn toàn là do
sự ngang ngạnh của vua Lê và không phải Tống Cảo không biết, nhưng đã không
phản ứng.
Trong sớ tâu Tống Thái Tông sau này, Tống Cảo nói rằng dù thác
cớ đau chân nhưng ngay sau đó Lê Hoàn lại có thể đi chân đất, cầm cần câu lội
xuống nước câu cá.
Trong lần tiếp sứ Tống, Lê Hoàn còn làm những việc trêu chọc sứ
phương bắc khác như sai người mang con hổ đến
công quán cho sứ Tống xem; lại sai mang con trăn lớn
đến công quán, hỏi sứ Tống có ăn được thì làm cơm thết đãi. Sứ Tống khước từ
không nhận và không dám nổi nóng theo tư thế của sứ giả thiên triều.
Sau đó Lê Hoàn nói với Tống Cảo về việc ngoại giao:
Sau này có quốc thư thì
cho giao nhận ở đầu địa giới, khỏi phiền sứ thần đến tận đây nữa.
Tống Cảo về tâu lại, Tống Thái Tông bằng lòng với đề nghị của
vua Lê.
Năm 995-996 ở biên giới hai bên đã có biến cố vì sự bạo loạn của
các thổ quan vùng khe động. Tướng nhà Tống bắt bắt hơn 100 người làm loạn trả
lại cho Đại Cồ Việt.
Phía nhà Lê cũng bắt 27 người trả lại phía Tống và sai sứ sang
tạ ơn.
Nhà Tống lại sai Lý Nhược Chuyết mang chiếu thư và đai ngọc sang
ban cho Lê Hoàn.
Sang năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh ngôi, trong nước loạn lạc. Mình Đề
phải ở lại trú ở Quảng Châu. Triều thần nhà Tống xui Tống Chân Tông phát binh đánh, nhưng vua
Tống cho rằng nhà Lê giữ lệ tiến cống và sai con sang chầu, không nên đánh để
giữ cho phía nam yên ổn.
Tranh vẽ Tống
Chân Tông.
Năm 1006, Lê Long Đĩnh giết anh là Trung Tông giành được ngôi vua. Nhà
Tống không can thiệp. Sang năm 1007, Tống Chân Tông sai sứ sang phong cho Long
Đĩnh làm Giao Chỉ quận vương và đúc ấn đưa sang.
Năm 1009, Lê Ngọa Triều sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần. Vua
Tống cho rằng tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ muốn trả lại; nhưng sợ phật
ý vua Lê, đợi cho sứ Đại Cồ Việt về rồi mới mang thả ra biển.
Lê Ngọa Triều sau đó lại xin áo giáo mũ trụ giát vàng, vua Tống
bằng lòng cho.
Với Chiêm Thành
Lê Đại Hành nổi giận, sai đóng chiến thuyền sửa
binh khí, tự làm tướng đi đánh.
Năm 982, vua Lê khởi binh thân hành nam tiến. Quân Đại Cồ Việt thắng lớn, chém chết vua Chiêm là Ba
Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to, nhiều quân sĩ bị bắt sống.
Quân Lê bắt lính cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà
sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng
vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu nước Chiêm.
Một viên tướng là Quảng giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại Chiêm Thành
và sau này chiếm lấy nôi vua chiêm thành.
Năm 992, vua Chiêm mới là Harivarman II sai sứ sang xin lại 360
tù binh bị bắt giữ mang về châu Ô Lý.
Harivarman II sai sứ là Chế Đông sang dâng sản vật địa phương, vua Lê trách là
trái lễ, không nhận. Harivarman II sợ hãi, năm 994 lại sai cháu Chế Cai sang
chầu. Từ đó quan hệ hai bên khá yên ổn không xảy ra xung đột.
Phạm Cự
Lạng
Tiểu sử Thiền Sư Vạn Hạnh | Tài Tiên Tri Xuất Chúng Giúp Lý Công Uẩn Lên
Ngôi, Thắng Tống Bình Chiêm
No comments:
Post a Comment