Sunday, April 21, 2019


Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa (1/2)

Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa

Hồi ký của Hoa Nghiêm/
Thursday, September 21, 2017
Tạp chí Thời Nay (1972)

Chủ blog: luật sư Trần Hồng Phong. Liên hệ: ecolaw3@gmail.com


BLA: (Sách) - Hồi ký hấp dẫn dưới đây nói về một cuộc trú đóng luân phiên 4 tháng, canh giữ bảo vệ đảo Hoàng Sa, của một đại đội thuộc quân đội Việt Nam Cộng Hoà (Miền Nam trước năm 1975),  khoảng đầu những năm 1960. Một câu chuyện chân thật, thú vị, giúp chúng ta hình dung được trên đảo Hoàng Sa từng có những loài sinh vật nào, những ai ở trên đó? một ngôi đền thiêng với pho tượng phật bằng đồng đen, nỗi hoảng sợ khi rất nhiều người đổ bệnh, sự xuất hiện đến khó tin của một vị khách người Nhật trên chiếc ghe nhỏ bé và liều "thuốc quý" của ông ...vv. Và trên hết, là sự bình thường giản dị, nhưng trong sáng, hy sinh và cao cả biết bao - trong trọng trách gìn giữ lãnh thổ thiêng liêng của những người lính Miền Nam ngày trước. Đây là một trong số khá hiếm những bài viết về đảo Hoàng Sa từng xuất bản. Tôi tin rằng những người từ 50 tuổi sẽ thích bài viết này. Và sẽ thật đặc biệt, biết đâu đấy, nếu tình cờ chú bác nào đọc bài viết này lại chính là một thành viên trong đại đội giữ đảo năm ấy. 

<< (ảnh chụp bài viết trên bán nguyệt san Thời Nay số 284 (1972))

Hồi ký "Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa" được đăng trên bán nguyệt san Thời Nay số 284, xuất bản ở Miền Nam năm 1972. Tôi có duyên mua được số báo này tại một nhà sách cũ ở Sài Gòn gần đây. Thời Nay nguyên là một tạp chí tư nhân nổi tiếng, chuyên viết về văn hoá - lịch sử, thành lập từ năm 1959 ở Sài Gòn, chủ bút là ông Nguyễn Văn Thái.

Ngày 19/1/1974, Trung Quốc đã bất ngờ đổ quân đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam (Hải chiến Hoàng Sa). Mặc dù những người lính phía Việt Nam Cộng Hoà đã anh dũng chiến đấu hy sinh, nhưng do yếu thế hơn về tương quan lực lượng, nên chúng ta đã mất Hoàng Sa từ ngày ấy. Cũng từ ấy đã không còn dấu chân người Việt đi tuần tra trên đảo Hoàng Sa như trong hồi ký này nữa. Gần 50 năm đã trôi qua, ngày nay bọn Trung Quốc đã xây dựng sân bay, bến tàu và thành lập "thành phố" ở đảo Hoàng Sa và  đang dã tâm thực hiện tham vọng bành trướng chiếm gần trọn biển Đông, bao gồm toàn bộ quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Liệu chúng ta có quyền hy vọng một ngày nào đó con cháu đời sau sẽ lấy lại được Hoàng Sa về với đất mẹ?

...............


Một quân nhân ghi lại những ngày nhọc nhằn lẫn thích thú khi theo gót Lỗ Bình Sơn sống một thời gian trên hòn đảo hoang vắng "tạo thời cuộc". Thời Nay đăng thiên hồi ký hấp dẫn này thành hai kỳ hiến bạn đọc. (Ghi chú: Lỗ Bình Sơn là nhân vật văn học Robison Crusoe)

Đại đội chúng tôi còn năm hôm nữa sẽ xuống tàu ra đồn trú ở đảo Hoàng Sa. Đơn vị chúng tôi là đại đội tiếp lực đóng tại Vĩnh Điện thuộc Tiểu đoàn X. Sau những năm dài vào sinh ra tử chiến đấu cam go, nay có dịp xả hơi nên tuy phải đổi ra một đảo hoang vắng mọi người đều có vẻ thoải mái. Ngay từ khi mới nhận được lệnh, chúng tôi liền giở thư báo tin cho người nhà biết và mua sắm các loại vật dụng cùng thực phẩm cần thiết.

Biết rằng Hoàng Sa là một quần đảo hoang vu không có dân cư, để chuẩn bị thức ăn tươi, ngoài số quân nhu vật thực do đơn vị đảm trách, các trung đội họp nhau vạch kết hoạch chung tiền mua hạt giống rau củ, đậu cà, mua gà con, heo giống đem theo nuôi, người ta còn mua cả lưỡi câu, lưới, chỉ, ny lông để bắt cá. Riêng cá nhân mỗi người đều sắm sửa mang theo nào tiêu, ớt, hành, tỏi, dầu, đường, bột mì. Người thì mang theo thuốc lá, cà phê hộp, sữa, sách, truyện, có người mang theo cả chó con, mèo và cả chim sáo nữa. Chúng tôi chuẩn bị sống cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết Lỗ Bình Sơn trên hoang đảo.

Vào lúc 5 giờ chiều, con tàu chở đại đội chúng tôi rời bến Đà Nẵng rẽ sóng về hướng đông. Chúng tôi vui nhộn khi xuống tàu nhưng độ vài giờ sau một phần lớn anh em không quen sóng đã nằm dã dượi khắp sàn tàu. Anh hạ sỹ Duệ đã tiên liệu sẵn cho mấy hộp thuốc trừ mửa nautamine nhưng không đủ để phân phát cho tất cả mọi người, chỉ biếu cho trường hợp các bạn say sóng quá nặng. Chiều hôm đó không ai dám ăn cơm no, có nhiều người đành chịu nhịn đói. Hai ngày ảm đạm chỉ thấy trời nước mênh mông chậm chạp trôi qua. Đến sáng ngày thứ ba thì tàu cập bến trước sự vui mừng chờ đợi của anh em binh sỹ đại đội trú đóng lâu nay trên đảo đang mong đợi ngày trở về quê nhà ...

Hoàng Sa là một hòn đảo của biển Nam Hải, giữ một vị trí chiến lược rất quan trọng ở Thái Bình Dương, nằm về phía đông nam của đảo Hải Nam được người Pháp trú đóng năm 1938. Sau đó thì bị quân đội Nhật chiếm cứ và sau này vào năm 1947 thì Trung Hoa cũng muốn dành, lạm nhận là thuộc hải phận đảo Hải Nam.

Đảo Hoàng Sa nơi chúng tôi trú đóng hình hơi thuân thuẫn dài khoảng 2 cây số và rộng độ 1 cây số. Lên đảo chúng tôi đi qua một đoạn đường cát vàng rộng chừng 20m, kế đến là một loại rừng thưa mọc toàn một loại cây lá to bằng bàn tay màu xanh lá chuối non mà tôi chưa hề gặp trong đất liền. Thân cây cứng và cao độ vài thước, lá mềm, người ta gọi là cây Trăng. Trong rừng thưa có đường sá ngang dọc lát đá hẳn hoi, dẫn đến trung tâm của đảo là nơi quy tụ những nhà cửa bằng gạch làm nơi đồn trú cho những đơn vị quân sự.

Nhà cửa ở đây đều xây bằng gạch, lợp ngói, khá đầy đủ tiện nghi, ngăn nắp, có nhà bếp, nhà vệ sinh, chuồng nuôi heo, nuôi gà, có bể đựng nước, có giếng, có chuồng ủ phân trồng cây ... Người ta bảo rằng các cơ sở này do Pháp xây cất ngày trước để dự bị trong kỳ Thế chiến II không cho người nước khác chiếm, đặc biệt là người Nhật. Cách không xa nơi quân đội đóng là đài thiên văn do một nhóm 5 chuyên viên phụ trách với rất nhiều máy móc phức tạp để hằng ngày đo gió, đo nước mưa, tiên đoán thời tiết ... Đây cũng là tổng đài vô tuyến điện mà đơn vị chúng tôi phải nhờ mỗi khi muốn liên lạc với đất liền.

Vắng thú rừng

Nhiệm vụ của đơn vị chúng tôi là cố thủ bảo vệ đảo này và kiểm soát mọi tàu bè ghe buồm đi vào hải phận thuộc đảo. Chung quanh đảo là một dải cát viền quanh, rải rác có tám toà pháo đài kiên cố xây mặt ra biển. Tuy vậy ban đêm chúng tôi không canh gác ở pháo đài mà chỉ thay phiên nhau chia từng tiểu đội đi tuần tra dọc bờ biển bao quanh đảo.

Ban ngày sau khi tập thể thao buổi sáng sớm, ngoài ban hoả đầu quân lo việc cơm nước cho đơn vị, chúng tôi phân công chia nhau toán thì tập dượt văn nghệ để thỉnh thoảng ban đêm trình diễn giải trí cho anh em, toán thì đi câu cá, câu mực, đi bắt cua, còng, sò, toán thì cuốc xới đất đai để trồng trọt các loại rau ớt, hành, ngò, toán thì phục trách chăn nuôi heo gà, toán thì đi kiếm củi, múc nước đem về nấu nướng ...

Thảo mộc trên đảo đa số chỉ ròng rặc một loại cây Trăng lá to bằng bàn tay màu lá chuối non. Sai với điều tôi lầm tưởng là ở đảo có lẽ có nhiều dừa lắm nhưng ở đây chẳng thấy bóng dáng một cây nào cả. Gần các cơ sở xây cất có một cây vông nem khá lớn trổ hoa đỏ hoét là thứ hoa duy nhất mà chúng tôi gặp suốt bốn tháng trời trú ngụ trên đảo. Rải rác gần đài thiên văn có năm bảy cây dương liễu là thứ cây quen thuộc khi còn ở quê nhà. Cây vông và các cây dương liễu kia theo người ta nói là do người Pháp đã trồng trước đây. Để ý quan sát các loại rau cỏ dại tôi nhận thấy có loại ra muống biển mọc gần bờ biển, còn rải rác trên đảo thì có loại rau sam, rau dền, rau trai. Có thì có cỏ chỉ, cỏ cú, cỏ may ...

Trên đảo vắng thú rừng, chỉ có vài con heo hoang nghe đâu hồi trước được nuôi nhưng đã xổng chuồng chạy vào rừng luôn. Trên bờ bể thì có loại còng như ở đất liền. Đặc biệt ở đảo này có loại cua vỏ màu xanh lục sanh sản rất nhiều, nuôi sống bằng lá cây Trăng thổ sản trên đảo. Thứ cua này bò chậm chạp dễ bắt nhưng lại leo cây rất giỏi và chúng thường làm ổ trong các bọng cây hoặc đào hang ở dưới gốc cây. Cua này quá nhiều ở khắp rừng trên đảo chứ không thấy xuống nước. Ban đầu chúng tôi còn bắt nấu cả con để ăn nhưng nhiều người chê bụng cua hôi mùi lá cây nên về sau chỉ bắt bẻ lấy hai càng cho nhiều thịt, còn cua thì thả đi. Không rõ về sau chúng có mọc càng khác hay không hoặc sống chết thế nào.

Ban đêm thì có những con vích to bằng mặt bàn từ dưới biển bò lên ven rừng thưa cạnh bờ cát để đào cát đẻ trứng. Vích là một loại rùa biển vỏ màu xám mà mềm hơn mu rùa đất, cũng chia làm mười ba mảnh, rất khoẻ mạnh, một người cưỡi trên lưng vẫn chạy như không. Thường đêm chúng từ biển sâu lên bờ đến ven rừng bới cát đẻ trứng. Chúng đẻ xong lấp cát lại như cũ, mỗi ổ có thể sắp đến một thùng rưỡi dầu hoả trứng. Trứng to hơn trứng gà nhưng vỏ mềm, luộc chín thì lòng đỏ đông cứng lại, còn lòng trắng thì cứ bầy nhầy chứ không rắn lại như trứng gà. Vích ban ngày lặn xuống biển sâu, ban đêm mới lên bờ đẻ. Chúng tôi thường rình bắt trong lúc chúng đang nằm đẻ bằng cách thình lình đến lật ngửa chúng ra và hè nhau khiêng về hạ thịt.

Đêm đầu tiên ra đảo chúng tôi bị một phen hoảng vía vì đang đêm bỗng được toán tuần tiễu báo cáo có nghe tiếng đào cát và tiếng thở hổn hển. Đơn vị tôi liền được cấp chỉ huy một mặt cho bắn bích kích pháo ngăn chặn quanh đảo, một mặt dùng vũ khí cá nhân bắn tưới hột sen vào các vị trí nghi ngờ. Nghe tiếng súng dữ dội, các nhân viên thiên văn đài chạy sang hỏi và sau khi được nghe kể lại như trên, các bạn ấy nói rằng đấy có thể là tiếng vích bới cát để đẻ trứng vì họ ở đây đã lâu nên đã nhiều lần nghe như vậy và đã có nhiều đơn vị trước đây cũng đã lầm như chúng tôi. Trung uý đại đội trưởng ra lệnh ngưng bắn, cho đi quan sát lại và quả nhiên tìm thấy có bảy tám con vích đang đào cát đẻ trứng. Từ đấy ban đêm chúng tôi chia nhau đi bắt vích, tính suốt thời gian trú đóng trên đảo bắt có đến bảy tám chục con.

Chung quanh bờ bể dưới nước không phải là bãi cát lài mà là một vòng đai san hô rộng khoảng 500 mét trên mặt sóng đánh phẳng lì. San hô mọc không đều nên khi nước thuỷ triều hạ xuống, có những vũng nước lớn như những cái đìa cạm bẫy chứa nào cá, mực, tôm, chình chưa kịp rút lui bị mắc kẹt. Chúng tôi chỉ việc lấy vợt xúc hoặc lấy dùi sắt đâm, đập đem về nấu nướng không phải dùng đến lưới bủa gì cả. Hải sản ở đây gồm đủ loại cá trên đất liền như các trích, cá ngừ, cá thu, cá chuồn, cá sòng, mục nang, mực ống, bạch tuộc ...vv, tôm, hải săm, sao biển, sứa cũng không thiếu gì. Hơi xa bờ biển một chút thì có cá heo, cá bò, cá mập. Một lần chúng tôi chèo ghe ra xa suýt bị đắm vì bầy cá heo bơi lượn chung quanh để đùa với chúng tôi.

Nhưng hải sản làm cho chúng tôi lưu tâm hơn cả là những con sò khổng lổ gồm hai mảnh vỏ to như hai chiếc nón lá Huế úp lại cũng rải rác nằm trong vòng đai san hô quanh đảo, vô phước ai dẫm chân lọt vào mồm nó mà nó ngậm lại thì nhất định là đứt nghiến cả ống chân. Ban đầu chúng tôi bắt loài sò này về nấu nướng cả con làm nhiều món ăn rất thích thú. Nhưng về sau nhiều quá ăn chán chúng tôi không ăn thịt cả con nữa mà chỉ bắt khiêng về dùng dao bén xẻo lấy hai sợi gân khổng lồ khép mở miệng sò to bằng bắp tay thái mỏng thành tấm theo kiểu máy gọt gỗ bút chì phơi khô để dành đem về biếu bạn bè nhắm rượu.

Ngôi đền thiêng

Nói đến những con sò khổng lồ này tôi không khỏi nhớ đến cái chết của anh Tế, một bạn đồng đội hiền lành mà đến nay vẫn còn là một nghi vấn trong đầu óc mọi người.

Nguyên gần bến tàu trên đảo có một cái đền tục danh gọi là Đền Đức Bà. Bến tàu nầy xây ở phía nam của đảo Hoàng Sa để tránh gió Bắc những khi biển động. Đền là một toà nhà xây rất kiên cố, lợp ngói, nhìn kiến trúc bên ngoài khi mới đến chúng tôi không ngờ đấy là một ngôi đền. Cạnh đền có một bảng lớn bằng mặt bàn một bên khắc chữ nho,  một bên khắc chữ Pháp ghi sự tích người đầu tiên khám phá ra đảo nầy. Trong đền, trên bệ thờ là một bức tượng đồng đen đúc và trạm trổ một nữ thần đầu đội mũ giống như nơi tượng đài Địa Tạng Bồ Tát, một tay cầm một vật giống như gậy tích trượng, một tay để trên đùi. Người ta không biết gốc tích pho tượng này ở đâu chỉ nghe rằng người Pháp trước đây đã nhiều lần dự định chuyên chở đi nơi khác nhưng không thành công vì không xê dịch nổi hoặc khi thì xảy ra tai nạn ghe tàu, khi thì người chủ trương bị chết thảm ...

Trước những hiện tượng siêu nhiên, cuối cùng người Pháp cũng đành nhượng bộ lập đền thờ pho tượng này ở cách bến tàu không xa. Các đơn vị lúc đến đồn trú hay trước khi rời đảo ra đi đều có làm heo gà tế lễ rất trọng thể xem như vị thần bảo hộ cho đảo. Rằm, mồng một hàng tháng các đơn vị đều có cắt người hương khói trang nghiêm.

Người ta nói rằng trước đây ngay cả người Pháp cũng thường thắp hương cúng thần tượng trong đền này khi đến cũng như lúc ra đi. Dưới bờ biển, ngay trước đền có một đầm nước khá sâu giữa đám san hô, trong đầm này mỗi khi nước rút người ta thường thấy rất nhiều tôm cá, đặc biệt là có một cặp mực nang dài hơn một thước và thật nhiều con sò khổng lồ to lớn hơn những nơi khác rất xa nhưng không ai dám bắt vì e ngại khi nghe người ta bàn tán với nhau rằng đó là cặp ngựa của ngài và những con sò linh thiêng chầu hầu Đức Bà.

Trong trung đội tôi có anh Tế có tiếng là bạo gan, một hôm rắn mắt xuống bắt mấy con sò thật to đưa về cắt gân đem phơi. Từ đó anh đau èo ọp và đâu độ 20 hôm sau thì anh ta chết, ngày nay mộ anh vẫn còn cô quạnh trên đảo vắng.

Người ta bàn tán với nhau là anh bị Đức Bà phạt, nhưng thực ra trong lúc anh đau thì trong đại đội tôi đã có đến mười người dần dần lâm bệnh có triệu chứng như anh, uống thuốc đem theo thứ gì cũng thấy không thuyên giảm. Chúng tôi từ độ ấy sáng nào cũng chăm tập thể thao, nhiều bạn lại rất siêng năng hương khói Đền Đức Bà và cũng từ đấy chúng tôi sống trong phập phồng lo ngại ...

Ba tháng vui vẻ trôi qua nhưng chúng tôi đã sống trong sự ảm đạm và ái ngại từ ngày một số anh em đồng đội chúng tôi lần lượt ngã bệnh. Anh Hương, anh Oanh không còn vui vẻ kể chuyện khôi hài sau các bữa ăn. Anh Minh, anh Lương và anh Thuận biếng đánh đàn, thổi sáo. Anh Đức, một người nhiệt tâm tỷ mỉ sưu tầm công phu các loại vỏ sò, ốc không còn thơ thẩn ven bể nhặt những mẩu vỏ sò, o61c màu sắc rực rỡ như ngày nào. Anh Hinh, anh Mít chuyên viên đi tìm ổ trứng vích trên cát chán nản suốt ngày nằm lên nằm xuống dã dượi.

Anh Tấn, anh Liệu bị bệnh nặng hơn cả, hai chân tê bại, hai ống chân các các ngón chân không cử động được chút nào mặc dù trước đấy đã cố gắng tìm cách ngăn ngừa bằng thể dục, tắm nắng, xoa bóp. Hai anh buồn tủi sống trong tuyệt vọng, vẫn thường nuốt lệ khóc thầm. Anh Hoan, anh Bình, anh Hách hai chân phù thủng, tiểu tiện ít đi. Anh Lân, anh Hiền trước đây là những lực sỹ có hạng lại nổi tiếng là giỏi võ Bình Định một mình địch nổi 10 người nay bỗng mắc chứng nhọc mệt, hồi hộp. Mỗi khi gắng sức làm việc gì là tim đập mạnh, đau ở ngực, thỉnh thoảng còn đau nhói ở tim, dùng đủ mọi thứ thuốc đau tim, bổ tim của ban y tế đại đội mang theo nhưng hoàn toàn vô hiệu. Một số khoảng 20 anh em khác thì sức khoẻ suy nhược, ăn mất ngon, gầy trông thấy hoặc mê mệt ngồi đâu ngủ đấy.

Có một điều lạ là bầy gà còn lại hơn bốn trăm con của chúng tôi trước kia khoẻ mạnh dong dảy nay cũng thấy nhiều con mắc bệnh biếng ăn thường nằm tựa mình vào thành chuồng như thể chân bị đau, cánh xệ, nếu xua đuổi làm cho chúng hoảng sợ chúng run rẩy đứng dậy đi vòng quanh chuồng loạng quạng và xiêu té. Năm bảy hôm sau những con gà ấy bị tê liệt không đi được nữa và chẳng bao lâu thì chết. Chúng tôi bàn tán với nhau có lẽ khí hậu trên đảo không hạp với người ở đất liền và khắc khoải trông đợi cho chóng đến ngày trở về Đà Nẵng.


(Còn tiếp phần 2)

No comments:

Post a Comment