Tiếng nước tôi (8/19)
Aug 21, 2013
Tiếng nước tôi: Từ vựng
Từ-vựng là cái vốn chữ, kho từ-vựng của một người là tập hợp các từ trong một
ngôn ngữ mà người đó biết đến và sử-dụng.
Vốn từ-vựng là phương-tiện cơ-bản và hữu-dụng trong giao-tiếp và thu nhận
kiến-thức. Muốn phát biểu tâm-ý mình một cách chính xác, ta cần nắm vững cái vốn
chữ của mình, đối với bất cứ ngôn-ngữ nào cũng vậy.
Tiếng Mỹ thì đối với tôi đã quá muộn, nhưng cái kho-tàng chữ Việt của tôi
thì tôi lại muốn gìn-giữ và phát triển, vì tư-tưởng và ngôn-ngữ là những điều
không ai có thể tước đoạt của tôi được.
1. Nguồn-gốc từ-vựng Việt-Nam
Ngôn-ngữ đi đôi với lịch-sử và không ai sẽ ngạc-nhiên khi biết rằng kho chữ
của ta gồm có những chữ thuần Việt (Nôm), những chữ Hán-Việt (di-tích của 1000
năm thống-trị), những chữ gốc Pháp (di-tích của 80 năm đô-hộ), và những chữ
khác (Anh, Đức...).
1.1 Từ thuần Việt
Từ thuần Việt là cốt lõi, cái gốc của từ-vựng tiếng Việt. Những từ thuần Việt
này thường là bộ phận gốc của từ-vựng tiếng Việt, biểu thị các sự vật, hiện tượng,
khái niệm cơ bản nhất và tồn-tại từ rất lâu.
Nếu so sánh các từ trong phần thuần Việt này với các từ tương-ứng trong tiếng
Mường, các tiếng Tày-Thái, Môn-Khơme, người ta thấy chúng có sự giống nhau nhất
định về ngữ-âm và ngữ-nghĩa.
Tương ứng Việt-Mường: vợ, chồng, ông, ăn, uống, cười, bơi, nằm,
khát, trốn, gáy, mỏ, mâm, rá, chum, nồi, vại, váy, cơm, cây, củ, rạ, mây, cau,
cỏ, gà, trứng...
Tương ứng Việt – Tày Thái: đường, rẫy, bắt, bóc, buộc, ngắt, gọt, đẵn,
bánh, vắng, mo, ngọn, mọn, méo, vải, mưa, đồng, móc, nụ, gà, chuột, đâm...
Tương ứng với các ngôn ngữ nhóm Việt Mường đồng thời với nhóm Bru-Vân Kiều:
trời, trăng, đêm, bụng, ruột, kéo, bốc, ngáy, khạc, củi, hột, rắn, khô...
Tương ứng với nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer ở Tây Nguyên Việt Nam: trời,
mây, mưa, sấm, sét, bàn chân, đầu gối, da, óc, thịt, mỡ, bố, mẹ, mày, nó, nuốt,
cắn, nói, kêu, còi, mặc, nhắm, bếp, chổi, đọi...
Tương ứng với nhóm Việt-Mường và các ngôn ngữ Mon-Khmer khác:
sao, gió, sông, đất, nước, lửa, đá, người, tóc, mặt, mắt, mũi, răng, lưỡi, cổ,
lưng, tay, chân, máu, xương, cằm, đít, con, cháu...
Tương ứng với nhóm Việt Mường và Tày Thái: bão, bể, bát, dao, gạo,
ngà voi, than, phân, cày, đen, gạo, giặt...
Tương ứng Việt – Indonesia: bố, ba, bu, mẹ, bác, ông, cụ, đất, trâu, sông,
cái, cây, núi, đồng, mất, nghe, đèn, đêm, trắng, tuổi, ăn, cướp, bướm, sáng, rất,
nấu, này/ni, là, rằng, ngày...
Được sử-dụng nhiều trong sinh-hoạt hàng ngày nên từ ngữ tiếng Việt thường
có đặc-điểm của từ-ngữ giao-tiếp đơn-giản. Điều đó làm cho chúng không thể dùng
để biểu thị các sắc-thái nghĩa trang-trọng hay khái-quát. Tiếng Việt vay mượn một
số từ-ngữ ngoại lai khác, đặc biệt là tiếng Hán, có nghĩa cơ-bản giống với từ
tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc-thái nghĩa khác.
1.2 Từ Hán-Việt
Từ Hán-Việt là từ-vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung-Quốc
nhưng đọc theo âm Việt. (Người Hàn và người Nhật cũng đã mượn chữ Hán một cách
quy-mô).
Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán bắt đầu khi nhà Hán của Trung Quốc
xâm chiếm nước Việt. Quá-trình tiếp xúc lâu dài đã đưa vào tiếng Việt một khối-lượng
từ ngữ rất lớn của tiếng Hán (khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt, theo các nhà
nghiên cứu).
Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về cách
đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt và với người Việt Nam. Đó gọi
là cách đọc Hán-Việt.
Có những chủ-trương nên dùng chữ Hán-Việt trong các trường hợp dưới đây:
– Để tỏ lòng kính trọng, như trong các xưng danh, ta gọi “người quá cố”
thay cho “người đã chết”, “nhạc phụ (mẫu)” thay cho “cha (mẹ) vợ” khi ta nói
trước đám đông.
– Để tránh những hình ảnh sống sượng hay ghê tởm: giao hoan (làm tình), xuất
huyết (chảy máu), hoại thư (thối thịt), đại tiện (đi ỉa), v.v.
– Làm ngắn gọn một câu dài: vô song (không ai sánh được), khả thi (có thể
làm được), tòng phạm (kẻ hùa theo cùng làm ác), tư cách (cách cư xử riêng của một
người),…
– Dùng trong chuyên môn để không lẫn lộn với đời thường, như trong ngành
xây dựng gọi “trắc địa” thay vì “đo đất”; trong vật lý, “quán tính” chỉ “sức ỳ”
của vật, “mã lực” là đơn vị đo lực chứ không là “sức ngựa”; trong báo chí, “tốc
ký” là một phương pháp “viết nhanh”; trong ngoại giao, hai quốc gia “đối thoại”
với nhau chứ không “nói chuyện”, trong tôn giáo, “tịnh xá” của tu sĩ không thể
gọi là “nhà yên (lặng)”, v.v…
– Cách xưng hô của những nhân vật thời cổ. Dù ta không biết những người thời
xưa gọi nhau như thế nào, nhưng để tạo không khí cổ kính cho câu chuyện, ta cần
dùng những xưng danh Hán-Việt như: huynh đài, các hạ, tiểu thư, phu nhân, ...
Một nhận xét cũng đáng để ý là chữ Hán-Việt thường ít cụ thể hơn chữ Nôm,
nhưng nhờ vậy mà chữ Hán-Việt mang cho ta một cảm giác lãng đãng, mênh mang.
Thí dụ: những chữ “thuyền viễn xứ”, “khách tha phương”, người “đồng hương”,
lời “ly biệt” cho ta cái cảm giác bàng bạc, dạt dào mà sẽ không thể có nếu dùng
chữ thuần Việt tương đương là “thuyền xa xứ”, “khách xa nhà”, người “cùng quê”,
lời “chia tay”.
Từ vựng Hán-Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, phần thì
bổ túc cho những từ ngữ không có trong có trong tiếng Việt, ngoài ra gia tăng
ngữ nghĩa thêm tinh tế cho dù có sẵn những chữ thuần Việt song hành. Ngày nay,
khi muốn sử dụng một thuật-ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt
như: "lập trình", "vi mạch", "Wiki hóa"..., cũng
như tiếng Pháp sẽ dùng gốc La Tinh hay Hy-Lạp để đặt chữ mới.
1.3 Từ gốc Tây phương
Kể từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng
đáng kể đến tiếng Việt và các từ-ngữ gốc Pháp thâm-nhập khá nhiều vào tiếng Việt.
Sự ảnh hưởng này là do tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ nhà
nước và trong giảng dạy ở nhà trường, cũng như trong các loại sách báo khác.
Ảnh hưởng này kéo theo sự xuất hiện của nhiều từ gốc Pháp trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như:
Tên món ăn: bít-tết (bifteck), kem (crème), phó-mát (fromage), rượu vang
(vin), ...
Tên quần áo: may ô (maillot), si líp (slip), sơ-mi (chemise), len (laine),
...
Tên thuốc: canxi (calcium), vitamin, pênixilin, ...
Thuật ngữ hành chánh: loong toong (planton), buya rô (bureau), công táp
(comptable)...
Thuật ngữ quân sự: lô-cốt (blockhaus), đoan (douanes), com măng đô
(commando),...
Thuật ngữ âm nhạc: tăng-gô (tango), ácmônica, viôlông, tông (ton),...
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật: bê-tông (béton), cao su (caoutchouc), mỏ-lết
(molette)...
Đồng thời một số từ tiếng Anh, tiếng Đức cũng du nhập vào tiếng
Việt, ví dụ như: mít tinh (meeting), boong ke (bunker),...
Ngoài ra, ảnh hưởng của Nga cũng dẫn đến sự du nhập của một số từ gốc Nga
như: bônsêvích (bolchevich), Xô Viết,...
Thời gian gần đây, do xu-thế hội-nhập toàn cầu, tiếng Anh gần như trở thành
một ngôn-ngữ ngoại-giao quốc tế chính-thức, xu-hướng tiếp nhận trực tiếp
ngôn-ngữ ngày càng trở nên phổ biến. Ví dụ: in-tơ-nét (internet), ma-két-tinh
(marketing); sô (show),…
1.4 Từ hỗn-chủng
Từ hỗn-chủng là từ sử-dụng hỗn hợp của 3 loại trên.
Ví dụ: vôi hoá: "vôi" là thuần Việt, "hoá" là Hán-Việt;
ôm kế (ohmètre : máy đo
đơn-vị điện Ohm): "ôm" là từ ngoại lai (Ohm), "kế" là
Hán-Việt;
nhà băng: "nhà"
là thuần Việt, "băng" là từ gốc Pháp (banque).
2. Ngôn-ngữ thực dụng
Chúng ta sử-dụng một ngôn-ngữ để nói với người khác, nghe (và hiểu) người
khác nói, viết (thơ, điện thơ, mẫu đơn...), đọc (báo chí, thơ, văn tự, ...).
Từ-vựng còn tuỳ thuộc người nói, tuỳ thuộc nơi chốn, tuỳ thuộc phạm vi giao
tiếp...
2.1 Từ địa-phương (Phương ngữ)
Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa-phương
khác nhau về kinh-tế, văn-hoá sẽ khác nhau. Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng
phương ngữ chính: phương ngữ Bắc (Bắc bộ), phương ngữ Trung (Bắc Trung Bộ),
phương ngữ Nam (Nam Trung bộ và Nam bộ).
Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ-âm, rồi đến từ-vựng, cuối cùng
là một chút khác biệt ngữ-pháp. Sự khác biệt về ngữ-âm là nhiều nhất, nhưng có
thể đoán được. Sự khác biệt về từ vựng có thể dẫn đến sự hiểu lầm nhiều nhất.
Chúng ta thử so sánh một số từ Bắc / Trung / Nam:
này / ni, nì / nầy ; ấy / nớ, tê /
đó ; thế / rứa / vậy
quả / trấy / trái ; dứa / dứa / thơm,
khóm ; củ đậu / củ độ / củ sắn /
dọc mùng / môn ngọt / bạc hà ; tào
phớ / đậu pha / tàu hủ non ;
nem rán / ram / chả giò ; mũ / mạo / nón ; tất / tất / vớ ; chăn / chăn
/ mền ; ...
Chúng ta để ý thấy tự-vựng Bắc và Trung có phần giống nhau nhiều hơn là
Nam.
Phân-tích Nam-Bắc thì ta nhận thấy có những tổ-hợp song âm nhưng tiếng
Nam chọn yếu tố thứ nhất còn tiếng Bắc chọn yếu tố thứ hai.
Thí dụ: dơ bẩn, đau
ốm, lời lãi, bao bọc, mai mối, hư hỏng, dư thừa, kêu gọi, sợ hãi, hình ảnh, la
mắng, bồng bế, …
Còn đây là những tổ-hợp ngược lại, người miền Bắc chọn yếu tố đầu, người miền
Nam chọn yếu tố sau.
Thí dụ: thóc lúa, giẫm đạp, đón rước, lừa gạt, sắc bén,
lau chùi, thứ hạng, chăn mền, chậm trễ, tìm kiếm, vâng dạ, đùa giỡn, thuê mướn,
mau lẹ, hung dữ, trêu chọc...
Phương ngữ vùng nào tất nhiên được người dân vùng đó dùng để giao tiếp. Tuy
nhiên phương ngữ miền Bắc được dùng nhiều trong các đài thông-tin đại-chúng như
đài truyền hình ... Tuy nhiên, ngày càng có xu hướng nhiều chương trình bắt đầu
có người điều-khiển chương-trình dùng phương ngữ miền Nam, nhưng vẫn chiếm tỉ-lệ
thấp trong khi phương ngữ miền Trung hầu như vắng bóng.
Gần đây khi giao-thông vận-tải, truyền hình, phim ảnh và Internet phát triển,
nhìn chung người ngoài Bắc và trong Nam có xu-hướng dễ hiểu nhau hơn, ở một mức
độ nào đó có ảnh-hưởng lẫn nhau.
Ví dụ: ngoài Bắc cũng dùng từ "nhậu,
dzô" hoặc trong Nam cũng dùng từ "vào" trong bóng đá hoặc từ bác
xưng hô trên internet nhiều hơn.
2.2 Từ ngữ nghề nghiệp
Từ-ngữ chuyên môn trong tiếng Việt là những từ-ngữ sử-dụng hạn chế trong một
nghề nào đó của xã hội, những người không trong nghề có thể ít biết hoặc không
biết.
Ví dụ:
- Nghề nông có các từ ngữ: cày vỡ, cày ải, bón lót, bón đón đòng, bón thúc,
gieo thẳng, gieo vại, lúa chia vè, lúa đứng cái, lúa von,...
- Nghề làm muối An Hoà dùng đến 80 từ-ngữ liên quan để chỉ những công-cụ sản
xuất, những thao tác nghề nghiệp, những vật liệu, những sản phẩm, phương tiện
di chuyển...
Ngoài ra trong tiếng Việt còn có nhiều thành-ngữ, tục-ngữ thể hiện
kinh-nghiệm, cách thức làm việc,... trong nghề nào đó. Ví dụ trong nghề mộc có
các câu: mộc gia nề giảm, cắt cưa đóng đanh,...
2.3 Thuật-ngữ
Thuật-ngữ trong tiếng Việt bao gồm những từ-ngữ là tên gọi chính xác của
các khái-niệm và đối-tượng sử dụng giới hạn trong một lĩnh-vực chuyên môn của
con người.
Ví dụ:
- trong Toán học có các thuật ngữ: đạo hàm, tích phân, vi phân,...
- trong ngữ-âm học có các thuật ngữ: âm vị, âm tiết, nguyên âm...,
- trong âm-nhạc, có những chữ như bát độ, tiết tấu, cao độ, dấu hoá, phách,
...
Đặc điểm cơ bản của thuật ngữ là chính xác, có hệ thống, và giá-trị quốc tế.
Lẽ tự-nhiên, từ-ngữ nghề-nghiệp và thuật-ngữ chỉ được sử-dụng rất hạn chế bởi
một số người chuyên môn.
2.4 Từ lóng
Tiếng lóng (slang / argot) là một hình-thức phương-ngữ xã-hội không
chính-thức của một ngôn-ngữ, thường được sử dụng trong giao-tiếp thường ngày, bởi
một nhóm người. Tiếng lóng ban đầu xuất hiện nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn
đạt theo quy ước, chỉ những người bên trong mới hiểu. Khác với những từ-vựng
nói trên, tiếng lóng thường không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát
ra mà mang ý nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng.
Từ lóng trong Việt ngữ được sử dụng bởi nhiều thành phần xã hội. Những từ
mang nghĩa tục tĩu được học sinh, sinh viên, dân chợ búa, nông thôn, xóm lao động
nghèo dùng nhiều nhất.
Những từ nhẹ nhàng thay thế cho các vấn đề tế-nhị thì được
dùng ở ngữ-cảnh lịch sự, hoặc trong cộng đồng trí-thức.
Những từ còn lại dùng
trong các ngữ-cảnh gia đình, giữa bạn bè, đồng nghiệp, ở hàng quán,...
Đặc trưng nhất là giới trẻ thanh-thiếu niên ở bất cứ nơi nào và bất cứ thời-đại
nào. Yếu tố tâm-lý là trong cái tuổi chuyển-tiếp từ "trẻ con" sang
"người lớn" đó, họ cần khác người (lớn) và họp nhau để "chống"
lại uy-thế của người lớn.
Bên Pháp, một dạo đã có phong trào nói "verlan" là nói hay viết
ngược lại (verlan = à l'envers = ngược).
Thí dụ: meuf = đàn bà (= femme viết
ngược thành chữ meuf); ripou = thối nát, dởm (pourri nói ngược); ...
Còn có phong trào "texto" (đọc sao viết vậy, bất chấp chính tả) để
đánh "text" trên máy điện thoại di-động cho nhanh.
Thông thường, tiếng lóng chỉ được sử-dụng dưới dạng văn nói, chứ ít khi được
sử-dụng vào văn viết (trừ texto), đặc biệt là trong ngôn-ngữ văn bản trang-trọng
thì người ta thường hạn-chế không dùng tiếng lóng.
Tuy nhiên, một loại tiếng lóng đặc biệt là mật mã, được dùng khá nhiều
trong công-tác tình báo, gián điệp và phản gián với đặc-trưng che giấu ý nghĩa,
chỉ cho những người đã biết quy-định giải mã rồi mới đọc và hiểu được.
2.5 Từ-vựng nói và viết
Ngôn ngữ giao tiếp của con người tồn tại dưới hai dạng cơ bản là nói và viết,
nhưng thật ra trong nội dung, người ta muốn phân biệt giữa một bên là ngôn-ngữ
thông tục, “đời thường”, chưa có sự gia-công, trau giồi, ít gắn với những chuẩn-mực
nguyên-tắc; còn một bên là ngôn-ngữ được trau giồi, chọn lọc, gắn liền với những
chuẩn-tắc đó.
Từ ngữ nói (khẩu ngữ)
Về mặt cấu trúc hình thức, các từ ngữ thuộc loại này khi trong phạm-vi giao
tiếp, ít nhiều có thể “tự do, phóng túng” nếu điều kiện cho phép. Nói cách
khác, chúng có thể biến đổi nhiều cấu trúc vốn có của mình.
Khi nói, chúng ta có thể dùng những từ ngữ có sắc thái đánh giá cực đại (gọi
là những danh-từ "dao to, búa lớn") để nhấn mạnh thêm, để lôi cuốn sự
chú ý của người nghe.
Ví dụ: lo thắt ruột, chờ đỏ mắt, đánh sặc tiết, chạy bở hơi
tai, cứng họng, ...
Cũng có những lối xưng hô thân mật (mày, tao, cậu, tớ, mình, ...) hoặc đậm
màu sắc, bày tỏ thái độ (ăn thua gì, ăn vàng ăn bạc gì, biết tay, phải lòng, cực
kỳ,...)
Chúng ta cũng hay dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón, hoặc diễn
đạt cho sinh động hơn.
Ví dụ: của đáng tội, có đời thuở nhà ai, thôi thì...
Một người thất-học không biết viết cũng có cái vốn chữ của mình để giao-tiếp
trong đời sống hàng ngày. Dầu thế nào đi nữa thì cũng phải khẳng định lại rằng
tính thông tục của khẩu ngữ nói chung và từ vựng khẩu ngữ nói riêng, không phải
là sự nói tục và các từ tục. Đặc tính của khẩu-ngữ là giản-tiện, dễ hiểu, đi thẳng
vào cảm xúc người nghe.
Từ ngữ viết
Những từ ngữ này chủ yếu dùng trong sách vở, văn bản, báo chí. Đó cũng là
loại từ ngữ được chọn lọc, được trau dồi, được “văn hoá hoá” và gắn bó với chuẩn-tắc
nghiêm-ngặt.
Từ ngữ viết thường gồm các thuật-ngữ, các từ-ngữ chuyên môn (văn hoá, văn học
nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, chính trị, quân sự, hành chính, pháp luật, kinh
tế,...) và nói chung, cấu-trúc hình-thức của chúng là có hệ thống và theo chuẩn-mực
chặt chẽ.
Về mặt nội-dung ý nghĩa, các từ ngữ này, nói chung, mang tính khái-quát, trừu-tượng
hoặc gợi cảm, hình tượng,... tuỳ theo mỗi phạm vi.
Về mặt nguồn gốc, thì phần nhiều là các từ gốc Hán và gốc Ấn-Âu được du-nhập.
Phân loại vậy thôi chứ ranh giới "viết-nói" không phân-minh lắm
và phần lớn các từ-ngữ đều được dùng trong mọi phong cách. Từ-vụng được dùng tuỳ
theo người nói, người nghe, người viết, người đọc, tuỳ theo môi-giới.
Thí dụ:
trong một gia-đình "quí phái" hay trong những nơi "cao cấp"
(ban Giám Đốc, nội-các Chính-phủ...), các thành viên không thể phát-ngôn
"tự do" được, mỗi từ ngữ phải được chọn lọc kỹ càng và theo phép tắc
của mỗi giới.
Ngược lại, trong một khoá học, huấn-luyện viên thường đơn-giản hoá cách giảng
dạy để bù lại sự khô-khan của các thuật-ngữ và để các khoá sinh dễ hấp thụ hơn.
3. Ngôn-ngữ phát-triển
So với một ngôn-ngữ chết (langue morte) như chữ La-Tinh, đặc-tính của một
ngôn-ngữ "sống" (langue vivante) là biến đổi, phát triển theo thời-gian
để thích-nghi với những biến-hoá của thời-điểm.
3.1 Từ ngữ cổ và từ ngữ lịch-sử
Những từ vựng "lỗi thời" có thể chia ra hai loại: từ ngữ cổ và từ
ngữ lịch-sử.
Từ ngữ cổ là những từ ngữ đã biến mất khỏi ngôn-ngữ hiện-đại hoặc vẫn còn dấu vết
trong tiếng Việt hiện-đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ và không còn được dùng độc
lập. Ví dụ: trong Túi đã không tiền khôn chác rượu (Quốc Âm thi tập) thì chác
là mua, khôn là khó...; hoặc như trong Thúc Loan dẻ thằng bé con (Thiên nam ngữ
lục) thì dẻ có nghĩa là khinh dẻ...
Khác với từ ngữ cổ, từ ngữ lịch-sử không có các từ ngữ đồng nghĩa
trong tiếng Việt hiện đại, tuy nhiên khi cần diễn đạt khác khái niệm mang tính
chất lịch sử, người ta vẫn phải sử dụng đến chúng. Ví dụ như tên gọi các chức,
tước, phẩm, hàm thời phong kiến: án sát, lãnh binh, tuần phủ,.., những chữ thời
vua chúa: ngự uyển, cung phi, thái-giám,... hay các hình thức thi cử: cử nhân,
hoàng giáp, trạng nguyên,...
3.2 Từ ngữ mới
Các từ ngữ mới thường xuất hiện để bù đắp những thiếu hụt, không thoả mãn,
không phù hợp với nhu-cầu định danh các sự vật, hiện tượng trong đời sống và
trong thế giới của con người. Đôi khi, chúng cũng xuất hiện một phần bởi
trào-lưu trong cách định danh, muốn dành cho sự vật một tên gọi mới hơn dù nó
đã có tên gọi rồi.
Đa số các từ ngữ mới trong tiếng Việt đều xuất phát từ các ngành khoa-học tự
nhiên và xã-hội.
Ví dụ: bộ nhớ, bộ vi xử lý, hệ điều hành, cổ phiếu, sàn giao dịch,...
Ngày hôm nay, giá như tôi có trở lại Việt-Nam, có lẽ tôi sẽ phải cần một
thông-dịch viên vì tiếng Việt hiện-đại đã thay đổi quá nhiều.
(Xin mời đọc lại bài "Tiếng Việt mới"
Nói về tiếng Việt tiến hoá, tôi chỉ có vài suy nghĩ:
- Những chữ cần có mà chưa có thì dĩ nhiên phải đặt ra chữ mới mà dùng. Đây
là trường-hợp những từ-ngữ nghề-nghiệp và thuật ngữ thời nào cũng đã có.
Thời buổi này có Internet thì phải đặt ra những chữ vi-tính (computer), điện
thư (email), cập nhật (update)... Tôi chỉ cảm thấy những chữ như phần mềm, phần
cứng (hardware, software) có lẽ dùng để nói chuyện tiếu-lâm sẽ hay hơn. Người
Pháp cũng đã phải dịch những chữ đó nhưng đã chọn matériel và logiciel, chứ
không dịch sát nghĩa thành "partie dure" và "partie molle".
Tôi xin đề-nghị "phần máy" và "phần xám" (?)
- Tiếng lóng là một hiện-tượng xã-hội phản-ảnh mỗi thời-điểm và tôi không
có gì để khen hay chê. Thuở trước, chúng ta cũng đã dùng những chữ sức mấy, bắt
địa, bắt bò lạc, xế hộp, hết sẩy, ... thì bây giờ cũng có những tiếng lóng như
chảnh (kênh kiệu), vô tư (thoải mái), phơ (phê), rước (mua về), lác (ba xạo,
khoác lác), ... Chuyện thường mà.
- Những chữ "mới" đem từ ngoài Bắc vào Nam thuộc trường-hợp từ-ngữ
địa-phương, đem thêm vào phần phong-phú cho ngôn-ngữ ta. Điều này cũng tốt
thôi.
- Những chữ mới để thay thế những chữ
đã có thì cũng nên đem lại chút gì rõ ràng hơn, văn hoa hơn, hữu ích hơn. Những
chữ như "cà-phê cái nồi ngồi trên cái cốc" để nói cà-phê phin,
"tàu mẹ chở tàu con" thay vì hàng-không mẫu-hạm, "đồng hồ không
người lái" thay vì đồng-hộ tự-động, "tai biến mạch máu não" thay
vì đứt gân máu,... chỉ có thể làm tôi cười mếu.
Còn những chữ như chiến sĩ cái (thay vì nữ quân-nhân), bú mồm (thay vì hôn
môi), xưởng đẻ (thay cho viện bảo sinh) hay nhà ỉa (thay cho cầu tiêu, nhà xí)
thì đối với riêng tôi thật là một sỉ-nhục cho một ngôn-ngữ trong sáng mà tôi vẫn
thường hãnh-diện.
4. Kết-luận
Từ-vựng là cái vốn chữ của chúng ta, thuộc kho-tàng văn-hoá của chúng ta, được
gầy-dựng và vun trồng qua mấy ngàn năm qua, để lại cho chúng ta một ngôn-ngữ
phong phú, trong sáng, linh động, phức-tạp, đa dạng và tuyệt vời.
Mong sao chúng ta có thể giữ mãi được gia-sản quí báu này.
Yên Hà, tháng 8, 2013
Tài-liệu nguồn:
Từ vựng tiếng Việt
Từ vựng
Tản mạn chuyện chữ Hán-Việt (Ngũ Phương)
Tiếng lóng
Tiếng lóng mới ở Việt Nam. Nguồn: thanhda.com
Sự xuất hiện các từ ngữ mới - Cơ sở ngôn-ngữ học và tiếng Việt (Mai Ngọc Chừ,
Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến)
Phân lớp từ ngữ theo phong cách sử dụng - Cơ sở ngôn-ngữ học và tiếng Việt
(Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến)
Posted by Thanh Tuyền and Ngọc Phú at 10:28 AM
1 comment:
UnknownAugust 21, 2013 at 7:52 PM
Cám ơn anh Phú đã bỏ nhiều công sức để viết bài Từ Vựng. Bài
nghiên cứu của anh thật đặc biệt và rất hay. Có những chi tiết mà em
chưa từng biết đến. Như anh nói, nhiều khi tuy không muốn nhưng mình
vẫn phải dùng chữ Hán Việt để phù hợp với môi trường. Nhiêù từ
Hán Việt gợi hình và gợi sắc hơn những từ khác. So với từ Hán
Việt, dân ta không thâu nhập từ Tây Phương bao nhiêu.
Mình có từ thuần Việt nào mà không tương ứng với những ngôn ngữ
khác không?
Tổ hợp song âm thật lý thú. Xin anh cho biết “phát ngôn” “bừa bãi”
có phải là tổ hợp song âm không?
VXN
Reply
No comments:
Post a Comment