Cách nay đúng 157 năm, quân Pháp đánh chiếm đại đồn Chí Hòa ở
Gia-Định của Việt-Nam
Ngày 24 tháng 02, 1861
·
1861 – Chiến tranh Pháp-Đại Nam: Bắt đầu trận Đại đồn Chí Hòa tại Gia Định giữa quân Pháp và quân
Nguyễn, quân Pháp giành
chiến thắng sau hai ngày giao chiến.
Trận Đại đồn Chí Hòa
Trận Đại đồn Chí Hòa
Thời gian |
|
|
Địa điểm |
|
|
Kết quả |
|
Quân Pháp thắng trận
|
21.000 quân chính quy |
10.000 quân Đồn điền | |
Khoảng 4.000 quân
Khoảng 50 chiến thuyền |
Khoảng 1.000 người chết và bị
thương |
|
300 người chết, 213 người bị thương
|
Trận Đại đồn
Chí Hòa hay còn
được là Trận Đại đồn Kỳ Hòa,
là một trận đánh xảy ra tại Sài Gòn, Nam Kỳ vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, và đến
khoảng 8 giờ tối ngày hôm sau thì kết thúc.
Đại đồn do Tổng thống quân
vụ Nguyễn Tri
Phương trấn giữ đã bị
quân Pháp chiếm mất. Sau lần đại bại này, triều đình nhà Nguyễn, từ chủ trương "thủ để hòa" chuyển sang "chủ
hòa", khiến cho đất đai của Việt Nam cứ mất dần vào tay thực dân Pháp.
Quan phục của
khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương do người Pháp lấy sau khi họ chiếm thành Hà
Nội. Hiện vật của Bảo tàng Quân sự Pháp tại Les Invalides.
Bối cảnh:
Năm 1860, những
rắc rối trong việc bang giao với Trung Quốc khiến chính phủ Anh và Pháp phải mở một cuộc viễn chinh mới tại quốc
gia đó. Do vậy, tất cả lực lượng Pháp tại Viễn Đông liền
được dùng vào cuộc chiến, nên không những quân Pháp phải triệt thoái khỏi Đà Nẵng mà tại Sài Gòn chỉ còn để lại một đội quân
nhỏ (khoảng 800 người) lo việc phòng thủ..
Theo GS. Nguyễn Thế Anh, thì khi đó, chính phủ Pháp đã muốn rút
quân ra khỏi Việt Nam, nhưng khi nghe tướng Charles
Rigault de Genouilly biện hộ
và Bộ trưởng Bộ Hải quân Pháp là Chasseloup Laubat tán đồng, thì chính phủ Pháp liền thay đổi
quyết định.
Vì thế ngay khi hòa ước Bắc Kinh được ký kết ngày 25 tháng 10 năm 1860, vua
nước Pháp là Napoléon
III, liền cử Đề đốc Léonard Charner thống lĩnh toàn bộ quân Pháp ở Viễn Đông,
để hoàn thành nhanh việc chiếm cứ Nam Kỳ.
Và mục tiêu đầu tiên của viên tướng này là phải tấn công Đại đồn Chí Hòa, vì đây là một vật cản lớn cần
phải phá bỏ để có thể tiến chiếm các nơi khác...
Lúc ấy, ngay khi nhậm chức ở Nam Kỳ, Nguyễn Tri Phương đã cho
người dò la. Biết rõ đối với súng đạn có sức tàn phá rất mãnh liệt của người
Pháp, quân Việt dù đông, dù can đảm tới đâu cũng không thể giáp chiến được, ông
lựa chọn chiến lược nửa công nửa thủ, tức dựng chiến lũy để bảo vệ quân Việt Nam khỏi súng địch và
bao vây dần quân Pháp.
Tirailleurs vietnamiens de la dynastie
Nguyen.
Ông truyền lệnh xây nhiều pháo đài và đắp lũy ở phía Bắc Sài
Gòn.
Quân Pháp bị vây chặt tới nỗi trong 6 tháng liền không nhận được
tin tức gì từ Pháp.
Tuy có đôi lần quân Việt giành được thắng lợi, nhưng cũng không
thể diệt nổi quân Pháp là vì súng đạn họ tinh xảo và bắn được xa hơn.
Sau khi bao vây được quân Pháp, Nguyễn Tri Phương cho
quân liều chết dưới mưa đạn để hãm đồn Cây Mai. Trong đêm 3
và 4 tháng 7 năm 1860, 3.000 quân của ông đã anh dũng chiếm được một đồn lũy do Đại
úy người Tây Ban Nha Fernandez chỉ
huy với 100 lính Tây Ban Nha và 60 lính Pháp.
Trong tháng 11 cùng năm, quân Pháp lại tấn công dữ dội các pháo đài ở Gia Định nhưng quân nhà Nguyễn đã đánh lui được
đối phương khiến quân Pháp bị thiệt hại... Được tin thắng trận, vua Tự Đức tiếp tục ban
thưởng cho các tướng sĩ ngoài mặt trận[/color]
Lực lượng đôi bên:
Về phía
Pháp:
Theo Trần Văn Giàu, tính chung đội quân viễn
chinh vừa kể trên với số quân có sẵn tại Sài Gòn khoảng 800 người, thì lực
lượng của Pháp chỉ có khoảng 5.000 quân với khoảng 50 chiến thuyền các loại.
Về phía
Việt Nam:
Phía Pháp (theo Léopold Pallu) nói ở Chí Hòa, quân Việt có tới
21.000 quân chính quy, 10.000 quân Đồn điền và ở Biên Hòa có 15.000 quân từ miền
Trung vào.
Nhưng theo GS. Trần Văn Giàu, chắc quân chính quy không đông như thế. Vì khi
Pháp đánh Đà Nẵng, gần
sát kinh đô mà quân triều đình ở đó chỉ có 3.200 người, thì ở Gia Định xa xăm,
không thể có hơn 2 vạn được.
Dân quân thì đông, chắn chắn như vậy. Sở dĩ Pháp
"tăng" số quân của Nguyễn Tri Phương, trước hết là để tăng giá trị
trận đánh của họ.
Kế hoạch hành binh
của Pháp:
Theo GS. Trần Văn Giàu, kế hoạch hành binh của quân Pháp như
sau:
·
Dàn đại bác theo phòng tuyến các chùa, chiến thuyền đậu từ sông
Rạch Cát qua sông Bến
Nghé và sông Thị
Nghè, tất cả đều nhắm vào Đại đồn.
·
Đại quân bộ sẽ từ chùa
Cây Mai đánh bọc
phía tây nam, là phía yếu nhất của Đại đồn, cắt đứt đại đồn với kho lương ở Thuận
Kiều, và dồn quân Việt chạy về phía sông Gò Vấp để chặn đánh.
·
Bố trí chiến thuyền ngăn viện binh từ Biên Hòa xuống, và ngăn
quân Việt rút chạy lên đó.
·
Thủy quân ở cánh Đông bắc cùng bộ binh ở cánh tây nam sẽ bao vây
và tiêu diệt đại quân Việt trong khoảng giữa ba sông, là Thị Nghè, Gò Vấp và Bến
Nghé.
Trung úy Hải quân Pháp Léopold Pallu, sĩ quan tùy viên Tổng hành
dinh của tướng Leonard Charner & là người trực tiếp tham dự trận, sau này
đã kể lại trong sách của mình đại để như sau:
Mấy ngày trước khi giao chiến, Đề đốc Hải quân Leonard Charner
đã giao cho Đại úy Hải quân De Surville điều khiển các chiến hạm neo dọc sông
Sài Gòn. Trung tá Crouzat, thì được lệnh tìm đường tiến quân, và sau khi tìm
được lối đi phía bên trái đồn Cây Mai, đã cho hai dại đội lính đến san phẳng,
dưới hỏa lực của quân đối phương. Trên bộ, các đội lính viễn chinh khác bố trí
dọc theo sông Đồng Nai để cầm chân quân Việt... Sau khi tất cả các
cánh quân đã được bố trí xong, vị Tổng tư lệnh là tướng Charner liền quyết định
thời điểm tấn công Đại đồn Chí Hòa là ngày 24 tháng 2 năm 1861.
Diễn biến:
Charles Rigault de Genouilly, hình chụp
khoảng năm 1870
Sau mấy tuần chuẩn bị và sau khi nghe Đại tá Crouzat phúc trình
công tác thám thính Đại đồn xong, 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, được lệnh của Đề đốc Charner, đại bác của Pháp từ "phòng
tuyến các chùa" và trên các tàu, đều nhắm vào đại đồn Chí Hòa mà bắn. Đại
bác của quân Việt từ Đại đồn rộ lên đáp trả. Hai bên đánh nhau bằng đại bác tới
sáng.
Từ vùng chùa Cây
Mai, Đề đốc Charner, Thiếu tướng De Vassoigne và Đại tá Palanca
(Tây Ban Nha) dẫn quân tiến lên cùng với pháo nhẹ. Quân Việt trong đồn Hữu bắn
cản lại. De Vassoigne và Palanca đều bị thương. Đại bác Pháp liền bắn khoảng
500 phát vào đồn Hữu, rồi cho bộ binh tấn công chiếm đồn. Phía Việt cho voi
xông ra ứng chiến, nhưng đội quân voi tỏ ra không mấy hiệu quả trước đại bác,
súng trường…
Hai bên đánh nhau đến tối, nhưng Pháp chỉ mới tiến được một cây
số, còn hai cây số nữa mới đến được Đại đồn. Đêm đến, hai bên đều ngưng chiến.
Năm giờ sáng hôm sau, quân Pháp tràn lên tấn công, xáp được gần Đại đồn. Song
cách vách thành trăm thước thì gặp rất nhiều cạm bẫy, hào ụ, nên tiến rất chậm.
Quân Pháp lúc này bị bắn chết và bị thương rất nhiều.
Tuy vậy, quân Pháp vẫn quyết dùng thang và đứng trên vai nhau mà
trèo lên vách đồn. Trên đồn và trong các lỗ châu mai, quân Việt bắn chém dữ
dội. Phần lớn các thang tre của Pháp vác theo đều bị đánh gãy, nhưng cuối cùng
vẫn có một số lính Pháp vào được Đại đồn. Hai bên xông vào đánh giáp lá cà,
giành giật nhau từng khu vực một.
Chống chọi được một lúc, tướng Nguyễn Tri Phương bị mảnh đại bác
trúng bụng, phải ra lệnh rút quân về đồn Thuận Kiều. Ngày 28 tháng 2, Pháp tấn
công Thuận Kiều, Đại tá Crouzat bị thương, nhưng quan quân phải bỏ đồn Thuận
Kiều, bỏ cả đồn Tây Thới mà chạy tán loạn về Biên Hòa, mất hầu hết khí giới và
lương thực. Riêng Trương Định rút về Gò Công tiếp tục kháng Pháp..
Sĩ quan tham dự trận là Trung úy Hải quân Pháp Léopold Pallu kể:
Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, quân Pháp được lệnh tập họp.
Đến 5 giờ 30 phút, đoàn quân bắt đầu lên đường.
Khi ấy, pháo binh từ các chùa Barbet (chùa Khải Tường), Chochetons, Cây Mai đã bắn được một
giờ rồi; và các toán quân Việt cũng đã kéo nhau dàn ra các ngả đường để phòng
ngự.
(Trên đường), đại pháo do ngựa kéo bất thần nhả đạn vào đồn
Redoute (sử Việt ghi là Đồn Hữu). Đối phương lập tức đốt khói để che và mặc dầu
súng nhỏ và các điều kiện quân sự thua thiệt, họ vẫn kháng cự quyết liệt...Pháo
binh chịu trận trước tiên; chỉ trong vài phút, nhiều pháo thủ và ngựa bị trúng
đạn…mặc dù tầm đạn của ta chính xác, liên tục và ưu thế hơn, nhưng sức kháng cự
của bọn An Nam không bị đánh
tan cũng không nao núng chút nào.
Thương vong của ta tăng lên; Đại tướng de Vassoigne, Đại tá Tây Ban Nha Palanca Gutierrez, Chuẩn úy
Lesèble và thượng sĩ Joly bị thương nặng. Thủy sư đề đốc (Léonard Charner) bèn
trực tiếp cầm quân và ra hiệu lịnh...Khi các quân lính Pháp đầu tiên nhảy được
vào bên trong, trên các các bệ bắn phía sau tường, thì họ thấy quân An Nam thối
lui mang theo giáo mác, súng lớn và súng tay của họ. Quân An Nam lùi lại một bước
thế thôi, gần như thản nhiên, giống như những người thợ đang làm việc rồi ngưng
tay; thật quả là lạ lùng, mặc dù tình thế cấp bách vì cả một đạo quân đang trèo
lên tường để tràn vào; chỉ có một số thật ít bỏ chạy mà thôi. Trong mấy phút
sau là họ rút về phía đại quân có cờ đuôi nheo phấp phới bên trong thành Kỳ
Hòa.
Trong trận đánh ngày 24 tháng 2 này, quân An Nam chấp nhận đối đầu
bằng đại pháo với ta tuy họ yếu kém nhưng không thấy lòng can trường của họ bị
sứt mẻ hay nao núng một chút nào cả: nhiều xác chết rải rác dọc theo tường
phòng thủ cho thấy hiệu quả của súng nòng có khía của ta. Nhưng khi quân ta
xung phong, tiến thẳng vào họ, thì họ thối lui nhưng không chạy, khoảng cách vẫn
còn nhìn thấy nhau. Chuyện này cũng thấy ghi trong các phúc trình về những trận
đánh trước đây ở Sài Gòn và Touranne.
...Suốt đêm đó thật yên lặng, hai bên không có một tiếng súng
nào. Năm giờ sáng (ngày 25 tháng 4), pháo binh lên ngựa, mỗi người đều vào hàng
ngũ của mình...Mười giờ tất cả đạo quân đã vào vị trí, cách xa mặt bắc của
thành Kỳ Hòa khoảng hai cây số. Hai cánh
quân đánh bộ hai bên, giữa là pháo binh. (Khi hai bên) thôi đánh chiêng và cũng
ngưng đánh trống, các đại pháo trong thành Kỳ Hoà bắn ra, vang rền, tiếng nổ của
súng địch có cường độ giống nhau nên rất dễ nhận, tiếng các quả đạn xé gió rít
lên rồi im bặt, không có một tiếng động nào khác...
...Tiếng súng của đối phương, lúc đầu thưa thớt, dần dần nhặt
hơn. Súng bắn mạnh và chính xác, nhất là về hướng bắn thì rất đúng. Quân An Nam
có lợi thế hơn vì mặt trời chiếu thẳng vào mắt quân Pháp. Pháo binh vừa đạt vị
trí 1.000 thước đã thấy có thiệt hại. Ðã có người và ngựa chết hoặc bị thương;
một xe tải đạn có một bánh xe vỡ tan tành từng mảnh. Trung tá Crouzat thúc quân
kéo súng rất nhanh đến vị trí 500 thước, rồi 200 thước; ở vị trí gần này tránh
bớt được nhiều bất lợi do bị mặt trời chiếu vào mắt...Hai bên bắn nhau kịch liệt...Trên
ruộng không có chỗ nào ẩn núp, chỉ biết đưa thân cho súng đạn. Thiệt hại đã khá
rõ. Chỉ còn biết lợi dụng vào chiến thắng vừa đạt được hôm qua khích động quân
sĩ để họ xông lên...Thủy sư đề đốc (Léonard Charner) ra lịnh cho hai cánh quân
tiến lên.
(Sau khi vượt qua được 6 hàng hầm chông và 2 hào sâu, quân Pháp)
đến được bờ đất dựa tường thành thì hai bên lại đánh nhau kịch liệt nhất, chưa
từng thấy giữa người An Nam và người Âu châu. Quân sĩ nào
mà leo lên được tường thành, thì hoặc dùng thang, hoặc trèo lên vai các đồng đội,
hoặc níu vào các cọc thấp của các bàn chông, họ bị bắn ngay trước mặt, hoặc bị
nồi lửa của địch ném phỏng mặt mày, hoặc bị giáo đâm lọt ra ngoài. Những người
trèo lên trước nhất trên tường thành, và trước khi bị đánh bật trở xuống, đều
thấy một cảnh tượng khác hẳn khi trèo lên tường ngày hôm trước: bên trong trên
bệ đứng bắn đầy lính phòng ngự, kẻ thì mang súng dài, kẻ thì mang giáo hay súng
ngắn, rình quân ta bên ngoài trèo vào...
Ngay vào lúc ấy, tình thế trở nên nghiêm trọng, thì có lịnh ném
lựu đạn. Hai mươi quả được ném ra... (Rồi) ba lính thủy ném được móc câu dính cứng
phía bên trong của tường thành. Bọn quân An Nam tháo gỡ không được vì vướng chà
gai...Ba quân lính chui qua trước, một thuộc tàu Renommée, bị giết ngay; hai
người kia thì bị thương. Cả ba bị xô ngược ra phía sau và rớt xuống hào. Quân
lính khác theo sau, trèo lên tường rồi nhảy xuống thềm đứng bắn bên trong, thềm
thì trơn trợt vì máu me linh láng. Dọc chân tường la liệt xác quân An Nam bị giết
vì mảnh đạn bộc phá hay bị bắn.
Quân An Nam ngưng đánh vì thấy rào gai bị phá thủng, rút xa vài
phút trước khi quân Pháp ập vào, họ rút lui rất trật tự, thật chậm dọc theo bờ
tường thành. Một nhóm quân lính của ta rượt theo, nhưng không ăn thua gì; vì địch
quân rút hết vào một lớp thành khác trước khi quân Pháp đuổi tới...
(Khi liên quân theo vào, giao tranh đã xảy ra càng ác liệt)...vì
thế trong cái khoảng trống thảm thương này ngập tràn xác chết và bị
thương...(Cuối cùng) tất cả quân An Nam người nào chạy không kịp đều bị giết sạch;
trận chiến chấm dứt bằng một cảnh tượng tàn sát...
Sau cuộc chiến:
Nhận được tin Đại đồn thất thủ, triều đình nhà Nguyễn tức tốc phái Nguyễn Bá Nghi mang
4.000 quân vào chi viện. Nhưng viên tướng này, chỉ đến Biên Hòa thì cho dừng
quân lại, cử người đi tìm gặp Đề đốc Charner để xin được nghị hòa và tâu về Huế rằng:
Việc
nước ta ngày nay, trừ một chước hòa không có chước nào khác. Hòa thì không ổn
rồi, nhưng trông mong sự khôi phục về sau...
Bản đồ cương
vực Việt Nam dưới thời Minh Mạng
Nguyễn Bá
Nghi (阮伯儀, 1807-1870), hiệu là Sư Phần, là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thiệt hại:
Đề đốc Hải quân Charner, hình vẽ khoảng năm
1880.
Trích báo cáo của Pháp:
Quân ta (Pháp) gồm 4.000 quân đã tấn công thành lũy. Chúng ta đã
chiếm được thành nhưng thiếu tướng Vassivigne bị 1 viên đạn bắn trúng cánh tay. Đại tá Palanca người Tây Ban Nha bị 1 viên vào
bắp chân, nhiều sĩ quan khác bị trọng thương. Người Nam có súng tốt và dũng cảm
hơn người Tây nhiều...
Theo báo cáo của Đề đốc Charner ngày 27
tháng 2 năm 1861, thì phía quân Pháp có 12 người chết, 213 người bị thương .
Nhưng theo Léopold Pallu, sĩ quan phụ tá của
Đề đốc Charner thì con số chết và bị thương là: 19 người tử trận, trong đó có 5
viên sĩ quan Pháp và khoảng 300 người bị thương.
Và theo báo Le Mémorial d’ Asie phát hành tháng 2 năm 1861, thì con số
thiệt hại của Pháp là: 16 người chết, 299 người bị thương, trong số đó có Thiếu
tướng De Vassoigne, Đại tá Palanca, Đại tá Crouzat đều bị trọng thương, Trung
tá thủy quân lục chiến Testard chết ở bệnh viện....
Bên quân Việt, khoảng 1.000 người chết và bị
thương, trong số đó có Tham tán Phạm Thế Hiển, Lang trung Nguyễn Duy, Tán tương Tôn Thất Trĩ đều tử
trận và Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương thì bị thương nặng.
Ngoài ra, Đại đồn còn bị đối phương chiếm mất
2.000 súng bắn đá lửa, 2.000 kg thuốc súng, 150 trọng pháo các cỡ và rất
nhiều lương thực...
Nhận xét:
Bốn ngôi chùa bị quân Pháp chiếm làm đồn lính
(màu vàng) nhằm tạo thành "chiến tuyến các ngôi chùa" (lignes des
pagodes) để chuẩn bị tấn công Đại đồn Chí Hòa (màu cam).
Bản đồ Sài Gòn và phòng tuyến Kỳ Hòa cùng với
diễn tiến các cuộc tấn công trong ngày 24 và 25 tháng 2 năm 1861
GS. Trần Văn Giàu viết:
Tuy có chủ trương "vừa công vừa thủ", nhưng không hơn
gì Tôn Thất Hiệp, Thống tướng Nguyễn Tri Phương vẫn án binh bất động, chỉ khác một điều là ông tập trung sức lực
quân dân (khoảng 30.000 người) không phải vào việc đánh mà vào việc xây dựng Đại
đồn Chí Hòa nhằm bao vây địch chặt chẽ hơn, tính không cho địch bung ra rộng
hơn nữa.
Nguyễn Tri Phương và các võ quan, văn quan cao cấp của triều
đình lúc bấy giờ, mang nặng "võ khí chủ nghĩa". Họ hốt sợ trước vũ
khí bắn xa mạnh và đúng cùng tàu to của đối phương. Họ đâu có biết rằng yếu tố
quyết định là lòng dân, là tinh thần binh sĩ...(Tổng tập, tr. 81). Và Đại đồn
thiếu cao thừa rộng, mặt thì yếu, mặt thì mạnh, địch dễ leo vào đánh xuyên
hông, đánh bọc hậu...Công trình này xây dựng gần một năm với công sức của mấy vạn
quân và dân, chỉ bảo vệ được hơn một ngày thì mất!...Đại đồn Chí Hòa, biểu hiện
chiến lược phòng thủ tai hại của tướng Nguyễn Tri Phương!....
Việc hệ thống phòng ngự ở Đại đồn tan vỡ và Gia Định bị Pháp chiếm
đóng hoàn toàn, đã chính thức tuyên cáo sự thất bại của chủ trương "lấy chủ
đợi khách, nên dùng kế trì cửu để cho họ mỏi". Cho nên, sau vụ chấn động
đó, triều đình Huế sẽ từ "thủ để hòa" chuyển sang "chủ
hòa", để cho Pháp lần lượt chiếm đóng Định Tường (15 tháng 4 năm 1861), rồi sau đó là Biên Hòa (7 tháng 1 năm
1862) và Vĩnh Long (23 tháng 3
năm 1862)..
"Cái thua của ta
không phải vì thiếu lòng can đảm hy sinh, cũng không phải vì thiếu tướng tài điều
khiển hoặc thiếu chiến lược ứng dụng với tình thế. Sự bại trận của Nguyễn Tri
Phương là lẽ dĩ nhiên vì kỹ thuật chiến tranh của Pháp tiến bộ đến
giai đoạn cơ khí ở thế kỷ 19 mà quân ta thì
dùng các khí giới về thời phong kiến. Cự địch với đại bác, thần công, súng trường, lựu đạn...quân ta chỉ mang nào gươm, nào giáo, nào súng hỏa mai và một tấm lòng...
Trích trong các sách báo nước ngoài:
Nhà báo Pháp Maxim Vauvert viết trong tạp chí Monde Illustré
ngày 20 tháng 4 năm 1861 đã ghi nhận:
Họ (quân nhà Nguyễn) xây dựng ở đồn Kỳ Hòa những chiến lũy vĩ đại,
dựa theo 1 dãy pháo đài kiên cố, diện tích chừng 12 km. Tất cả những thành lũy
bài trí khéo léo và có 1 đại đội binh mã chống giữ...mỗi ngày người Việt Nam lại
dựng thêm chiến lũy mới để bao vây quân Pháp.
Một sĩ quan Pháp đã từng tham dự cuộc công kích Chí Hòa là Phillippe Aude đã viết trong 1 bức thư ngày 28 tháng 3 năm
1861:
Những chiến lũy mà người
Việt Nam dựng lên rất kiên cố đều bằng đất sét cốt tre...Quân Việt Nam rất can
đảm…cũng như lòng khinh thường trước cái chết… Trong khi giao chiến họ dùng
giáo, thứ khí giới này chỉ đâm được quân địch cách 4 thước, đó là 1 lối tự vệ rất
can đảm, đến quân Tàu cũng chưa bao giờ nghĩ đến.
Một viên tướng khác trong quân đội Pháp cũng đã khen ngợi Nguyễn
Tri Phương:
Thấy phương pháp dụng binh
của Nguyễn Tri Phương, người ta phải tin rằng vị nguyên soái anh hùng của nước
Nam đã biết phương lược xây dựng lối pháo đài tạm thời như Totleben ở
Sébastopol, Denfert Rochereau ở Belfort, Osman Pacha trong trận Plevna. Quân Pháp cũng nhận xét:Thành lũy của Nguyễn Tri Phương dựng
mau như nấm mọc, hễ chỗ nào có lối đi là có ngay chiến lũy ngăn cản.
No comments:
Post a Comment