Cách nay đúng 217 năm, Quân của vua Gia Long đã đánh thắng
quân Tây Sơn tại cửa Thị Nại (Quy Nhơn)
Ngày 27 tháng 02, 1801
·
1801 – Chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn: Quân Nguyễn giành
chiến thắng trước quân Tây Sơn trong trận Thị Nại tại Bình Định.
Trận Thị Nại (1801)
Trận Thị Nại năm 1801 là trận thủy chiến dữ dội nhất, trận thư hùng quyết định trong
cuộc Chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn (1787-1802).
Tại
đây thủy quân Gia Định do chúa Nguyễn Ánh trực tiếp chỉ huy đã đánh tan hạm đội Tây Sơn do tư đồ Võ Văn
Dũng dẫn đầu.
Chân dung phổ biến của vua Gia
Long.
Nơi giao tranh:
Vị trí tỉnh Bình Định trên bản đồ Việt Nam.
Trận
thủy chiến này xảy ra nơi đầm Thị Nại. Đầm này tên chữ là Hải Hạc Đàm, đó là cách gọi tắt của
một địa danh Chàm, nguyên gốc tiếng Phạn là Cri Vinaya đã được phiên âm qua tiếng Hán thành Thị-lị-bì-nại, người Hoa gọi cảng này là Tân
Châu (新州).
Đây
là một đầm nước mặn nằm phía Đông Bắc, thuộc địa phận thành phố Quy Nhơn, huyện Tuy Phước, huyện Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định, có diện tích khoảng
5.000 ha, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng khoảng 4 cây số.
Thị
Nại là đầm lớn nhất của Bình Định. Các nhánh của sông Kôn, sông Hà Thanh đều chảy
về đây. Sa bồi tụ dần theo năm tháng khiến cho đầm mỗi ngày một đầy thêm.
Khi
nước triều lên thì mặt đầm nước mênh mông, vào những hôm trời gió, sóng dập dờn
như mặt biển.
Những
lúc triều xuống, nước rút cạn để trơ lòng đầm, sình lầy lai láng...
Nước
đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên cửa Giã (trong tiếng Việt cổ, giã là
biển), mà sau này người ta quen gọi là cửa Thị Nại.
Và
trước khi xảy ra trận "thủy chiến dữ dội" này, thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Ánh đã kéo đến giao tranh với quân Tây Sơn tại Thị Nại vào những năm: Nhâm Tý (1792), Quý Sửu (1793) và Kỷ Mùi (1799), nhưng cả ba trận đánh
đều có quy mô nhỏ hơn và không mang tính quyết định.
Chuẩn bị:
Năm Canh Thân (1800), các thủ lĩnh Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn đều tăng cường binh lực. Lược kể theo sách Việt sử tân biên:
Khi
ấy, thành Bình Định bị quân Tây Sơn uy hiếp rõ rệt, Võ Tánh, tướng chúa Nguyễn, chỉ
còn biết cố thủ.
Mô tả về Võ Tánh trên bìa sách Trung
tiết anh hùng: Lịch sử ông Võ Tánh (1930) của tác giả Huyền Mặc đạo nhân,
bìa sách miêu tả cảnh Võ Tánh tự sát cuối cuộc bao vây thành Quy Nhơn.
Ngoài
cửa Thị Nại, phía Tây Sơn cho bố phòng cẩn thận. Bên chúa Nguyễn, để Hoàng tử Cảnh ở lại giữ Sài Côn, chúa Nguyễn Phúc Ánh cùng Thế tử Hy ráo riết chuẩn bị chiến dịch Bắc tiến.
Chân dung hoàng tử Cảnh lúc bảy
tuổi do họa sĩ Maupérin vẽ tại Pháp vào năm 1787
1/
Vannier (tên Việt là Nguyễn Văn Chấn) điều khiển tàu Phượng phi (Le Phénix),
(Philippe Vannier entered the service of Nguyễn Ánh in 1789 following
the encouragements of Mgr Pigneau de Béhaine. In
1790, Nguyễn Ánh gave him the command of one of his ships. In 1792 he was in
command of a warship furnished by Jean-Marie Dayot, and fought
at the battle of Qui Nhơn. In
1800, Philippe Vannier was commander of the Phoenix (Phuong-Phi), the largest ship
of Nguyễn Ánh's navy, with 26 guns and 300 men. In
April 1801, he again fought in front of the harbour of Qui Nhơn, and was
nominated General (Brigadier) of the Navy. The
battle opened the way for Nguyễn Ánh's invasion of northern Vietnam.)
2/
Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) điều khiển tàu Long phi (Le Dragon)
(Jean-Baptiste Chaigneau was among the soldiers who were
gathered by Father Pigneau de Béhaine to
support the efforts of Nguyễn Phúc Ánh to conquer Vietnam. He
came to Vietnam with Pigneau in 1794. Chaigneau
supported the offensives of Nguyễn Ánh, such as the 1801 naval offensive in Thi
Nai)
Jean-Baptiste Chaigneau in mixed
Franco-Vietnamese uniform
3/
De Forsans (Lê Văn Lăng) điều khiển tàu Bằng phi (L’aigle).
Theo
giáo sĩ Le Labousse, bộ binh của chúa Nguyễn có tới tám ngàn người thiện chiến,
thủy quân thì vượt hẳn thủy quân của các nước Âu Châu đang đồn trú tại Ấn Độ lúc bấy giờ.
Ngoài
4 chiến hạm , chúa còn có 40 chiếc
làm theo kiểu bản xứ trong số đó có 5 chiếc mang được mỗi chiếc 46 khẩu đại bác, 18 chiếc khác mang
được từ 20 đến 26 khẩu.
Các
chiến thuyền chèo bằng tay có tới 100 chiếc lớn và 200 chiếc nhỏ để chiến đấu
trên các mặt sông.
Tháng tư (âm lịch), chúa Nguyễn ra tới Nha Trang (24 tháng 5-24 tháng 6). Để Thế tử Hy ở lại Diên Khánh, còn chúa thì cho tướng
sĩ đi đánh chiếm Phú Yên, rồi sai lập nhiều kho
lương ở đây.
Theo
sử của C.B.Maybon, thì khi ấy một lực lượng quân Lào khá quan trọng xâm nhập
vào Nghệ An, dưới sự chỉ huy của
tướng Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đi đánh
úp quân Tây Sơn.
Thoại Ngọc
Hầu (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761-1829), tên thật là Nguyễn Văn Thoại hay Nguyễn
Văn Thụy (chữ Hán: 阮文瑞); là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Được
sự hưởng ứng của những người dân ở hai tỉnh Thanh Hóa và Hưng Hóa khiến quân Tây Sơn ở các vùng biên giới bị cầm chân...
Ngoài
ra, chúa Nguyễn lại còn được Cao Miên viện trợ cho 20 cặp voi trận, giao cho Nguyễn Văn Thành sử dụng.
Tượng Tiền
Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ vào tháng 5 năm Gia Long thứ 16 (1817)
tại một ngôi miếu thuộc Đại Nội Huế
Miền
Nam bấy giờ được mùa, Đông cung Cảnh sau vụ gặt cứ 10 xuất
đinh tuyển lấy 3 để sung vào quân ngũ được thêm khoảng 10.000 người, đóng thêm
50 chiến thuyền nữa.
Mặc
dầu quân Nguyễn đã được chuẩn bị kỹ càng và đông đảo như vậy, nhưng vẫn không
giải vây cho thành Bình Định được. Quân thế của Võ Tánh ở đây mỗi ngày mỗi nguy. Viện quân bằng bộ binh, thủy quân mấy
phen tấn công vào Thị Nại đều vô hiệu.
Nguyễn Vương được tin quân
Tây Sơn ra vây thành Bình Định, liền cử đại binh ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đình
Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra
đánh ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Nguyễn Vương đem thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở
ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho nên
sự cứu viện không có công hiệu gì cả.
Trích
thêm thư của sĩ quan Chaigneau gửi cho Barisy:
Trước đây
chưa trông thấy địch (Tây Sơn), tôi có ý khinh thường, nhưng bây giờ mới biết là mình lầm. Thật
vậy, quân của Tây Sơn đã là một phòng tuyến không sao vượt được. Bây giờ thời tiết lại
xấu, binh sĩ bịnh tật nhiều. Lính Gia Định và Cao Miên phải trả về
nguyên quán, những quân tướng về hàng trước đây trở lại với chủ cũ, tình thế thật
nguy vô cùng...Không giải tỏa nỗi thành Bình Định, tình trạng này kéo dài luôn một năm khiến chúa Nguyễn vô cùng
bực tức.
Diễn biến:
“
|
Thủy
quân cả phá quân giặc ở cửa Thị Nại. Trước là Tư đồ giặc Võ Văn Dũng dùng hai chiếc thuyền
đại hiệu Định quốc và hơn trăm chiếc thuyền chiến chặn đóng ngang cửa biển,
lại dựng hai bảo ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Tòa bên hữu cửa biển,
đặt nhiều súng lớn, dựa thế cao chẹn chỗ hiểm để chống quân ta. Đến đây các
quân làm xong chiến cụ hỏa công, vua mật định đêm hôm 16 cất quân đánh úp.
Sai Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lẻn xuống Da áo [Vũng Dừa], chờ khi hiệu lửa ở
Tiêu Cơ phát thì đánh hãm lũy giặc, đặt mai phục ở sau núi để ngăn giặc. Lưu Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vua bèn thân đem thủy quân tiến phát. Trống canh
ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì
sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lẻn trước vào Hổ Cơ đốt đồn thủy của giặc. Lại
sai Võ Di Nguy đi thuyền chấp lệnh thẳng tiến, Lê Văn Duyệt đốc quân tiếp theo.
Bronze statue of Lê Văn Duyệt in his tomb
Giặc giữ
bảo cự chiến, từ giờ dần đến giờ ngọ, tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa.
Di Nguy bị bắn chết. Duyệt cứ mặc kệ, càng thúc đánh hăng. Vua thấy sĩ tốt
nhiều người tử thương, cho tiểu sai đến dụ cho tam lui. Duyệt thề chết, vẫy
quân xông lên, giờ thân vào được cửa biển, dùng đuốc hỏa chiến thừa chiều gió
phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng
thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết. Quân ta bèn giữ cửa Thị Nại.
Người ta khen trận này là võ công to nhất .
|
”
|
“
|
Một hôm,
chúa tính rằng hiện nay bao nhiêu lực lượng của Tây Sơn đều tập trung quanh
và trước thành Quy Nhơn (tức thành Bình Định). Như vậy, Phú Xuân không mạnh. Nhưng tiến
ra Phú Xuân thì hãy phá tan thủy
quân của Tây Sơn ở Thị Nại đã, kẻo ra
tới Phú Xuân, quân Gia Định bị cả hai mặt thủy bộ ép lại thì nguy. Khi đã thắng Phú Xuân, chúa quay lại cứu Quy Nhơn có lẽ dễ dàng hơn.
Ngày rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (27 tháng 2 năm 1801), chúa Nguyễn nảy ra
ý cho các chiến thuyền tiến gần cù lao Hàn (đảo Hòn Đất). Chúa ra lệnh cho Lê Văn Duyệt đem 1.200 quân đổ bộ
lên bãi cát. Đoàn người này lặng lẽ tiến đến hải đồn của Tây Sơn mà không ai biết. Hồi
10 giờ rưỡi, khi đoàn quân chỉ còn cách độ 1/3 tầm súng đại bác, tiền đội
quân thủy Nguyễn gồm 62 chiếc thuyền được lệnh tấn công ba chiến hạm lớn đầu
tiên của Phú Xuân.
Cuộc tấn
công này lại được cái may là gió và nước triều bấy giờ đang thổi mạnh. Đúng
10 giờ 30, tướng Nguyễn Văn Trương bắn phát đại bác đầu tiên để ra lệnh tấn công khắp mọi nơi.
Hai mươi sáu chiến thuyền chèo phóng lửa đốt sạch mọi thứ trên bãi cát. Đạo
binh 1.200 người của (quân) Nguyễn, lưỡi lê tuốt trần nấp ở các hầm hố dưới
cát, vừa đánh vừa bắn đại bác lên bờ. Quân Phú Xuân (tức quân Tây Sơn) bị đánh bất thình lình rối loạn chết hại khá nhiều.
Đồn Tây
Sơn ở Tam Tòa Sơn, ở bên phải cánh quân tấn công, chuyển một hỏa lực kinh
khủng bắn xuống các thuyền chèo tay của Nguyễn vương khi đó vào đúng tầm
súng. Võ Di Nguy bị một phát đạn bay đầu liền làm cho quân Nguyễn hoảng hốt
ngừng lại. Lê Văn Duyệt liền cho chém ngay
viên tướng đã thiếu can đảm, rồi thúc thuyền tiến tới chỗ có các chiến hạm
của Phú Xuân đang đậu ở phía đông
gần núi, đốt phá tơi bời và mau lẹ. Lúc ấy, Nguyễn Văn Trương cũng đã phá
xong 3 chiếc chiến hạm của Tây Sơn đậu bên ngoài, tiến
vào giữa hai cánh quân Tây Sơn đang vận chuyển để cứu
các chiến hạm. Đêm ấy lửa và tiếng đại bác đã gây nên một quang cảnh hết sức
khủng khiếp, rùng rợn...
|
”
|
Nhà
nghiên cứu Huỳnh Minh cho biết:
“
|
Đêm rằm tháng giêng năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Văn Thành nhận mật lệnh kéo quân cướp trại, để cản chân các tướng Tây
Sơn về mặt bộ, Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương (Phúc Lương) cũng lãnh mật lệnh dẫn một đoàn binh thuyền đi
trước. Tiếp theo sau là Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy cũng dẫn một đạo chiến thuyền sấn tới, Nguyễn vương thân đốc
chiến.
Vừa tới
cửa Thị Nại, Nguyễn Văn Trương chặn bắt được thuyền tuần tiễu của Tây Sơn, tra hạch được mật khẩu , nên vào sâu nơi thủy
trại mà đốt phá.
Đến 10
giờ rưỡi đêm ấy, Võ Di Nguy cùng Lê Văn Duyệt kéo toàn đội chiến
thuyền xông vào. Quân Tây Sơn từ các đồn trên núi,
triền núi Cam Tòa bên hữu, và ở bãi Nhạn bên tả nã súng lớn pháo kích, Võ Di Nguy trúng đạn nơi đầu tử trận. Tướng Duy chết, nhưng các chiến hữu
đã dùng hỏa công triệt tiêu tất cả thủy trại Tây Sơn, toàn thắng. Trận Thị
Nại này được gọi là "Võ công đệ nhất" trong thời trung hưng của
triều Nguyễn .
|
”
|
Thiệt
hại:
[color=red]Đến
4 giờ sáng hôm sau, tức ngày 16 tháng giêng, các chiến hạm của Phú Xuân đều ra tro, thuyền lớn thuyền nhỏ đến quá trưa mới tắt lửa.
Tính
ra quân Nguyễn chết mất 4.000, trong số đó có tướng Võ Di Nguy, ba anh em Thư Ngọc
Hầu...
Quân Tây Sơn thiệt hại rất lớn.
Theo
sử nhà Nguyễn thì họ mất tới 20 ngàn lính và hầu hết cả hải đội hùng mạnh:
thuyền buồm các loại bị mất 1.800 chiếc, 600 khẩu đại bác đủ cỡ và nhiều quân
nhu, vũ khí, vàng bạc của binh tướng Tây Sơn rơi xuống đáy biển hết[/color]
Sau trận thủy chiến:
Súng thần công của quân Tây Sơn được tìm thấy tại căn cứ
thủy binh Tây Sơn ở cảng Thị Nại (Quy Nhơn),
hiện được trưng bày trong Bảo tàng Tây Sơn (Bình Định).
Quét
xong thủy quân Tây Sơn ở Thị Nại, nhưng lúc này thành Bình Định mỗi ngày mỗi kiệt quệ. Chúa Nguyễn ra lệnh cho Võ Tánh và Ngô Tùng
Châu bí mật trốn ra khỏi thành, nhưng Võ Tánh biên thư từ chối:
Chúa
Nguyễn liền cử Nguyễn Văn Thành ở lại chiến đấu với Trần Quang Diệu và Võ Văn
Dũng,
và đặt một phần quân lực giữ cửa Thị Nại.
Ngày
5 tháng 6 năm 1801, chúa Nguyễn dẫn tàu thuyền ra khỏi Thị Nại, hợp quân với Nguyễn Văn Trương tiến ra đánh Phú Xuân...
Trận
Thị Nại 1801, là trận thủy chiến lớn nhất nơi đầm Thị Nại. Từ đấy quân nhà
Nguyễn giữ vững vùng biển chiến lược này. Thời Pháp thuộc, Trường Xuyên có bài
thơ hoài cổ rằng:
Thị Nại xưa kia vũng chiến
trường,
Nổi chìm thế sự mấy triều
vương...
Non mây nghi ngút nơi binh
dữ,
Biển ráng chưa tan bọt máu
hường.
Nhạn lãnh sóng vờn gương đế
bá
Phương Mai rừng đắp vết
tang thương.
Bùi ngùi ngắm cảnh quay
trông lại
No comments:
Post a Comment