Thời kỳ Bắc thuộc lần
thứ hai
Bắc thuộc lần thứ hai (北屬吝次二)
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai (ngắn gọn: Bắc thuộc lần 2) trong lịch sử Việt Nam kéo dài
từ năm 43 đến năm 543. Thời kỳ này bắt đầu khi Mã Viện theo lệnh Hán Quang Vũ Đế nhà Đông Hán đánh chiếm lại bộ Giao Chỉ từ tay Trưng
Vương, kéo dài đến khi Lý Bí khởi
binh đánh đuổi thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư năm 542 rồi lập ra nước Vạn Xuân năm 544.
Mã Viện (tiếng Trung chính thể: 馬援; bính âm: Mǎ Yuán) (14 TCN-49),
tự Văn Uyên (文渊), người Phù Phong, Mậu Lăng (nay là huyện Phù Phong, địa cấp thị Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây)
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2 kéo dài khoảng 500 năm
Biến
động qua 7 triều đại
Cuối Đông Hán
Sau khi Hai Bà
Trưng thất
bại, nhà Đông Hán tiếp
tục duy trì sự cai trị tại bộ Giao Chỉ. Cuối thế kỷ 2, nhà Đông
Hán suy yếu, chiến tranh quân phiệt bùng nổ. Hán Hiến Đế bị các
quyền thần thay nhau khống chế.
Bản đồ Trung
Quốc năm 208.
Trước tình hình đó, Thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp xin nhà Hán cho 3 người em là Sĩ Nhất, Sĩ
Vĩ và Sĩ Vũ làm thái thú các quận: Sĩ Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Sĩ Vĩ
làm Thái thú Cửu Chân, Sĩ Vũ
làm Thái thú Nam Hải. Triều đình nhà Đông
Hán do rối
loạn trong nước không thể quản lý bộ Giao Chỉ xa xôi
nên mặc nhiên thừa nhận. Từ đó thế lực họ Sĩ ở Giao Chỉ rất lớn.
Năm 192, người bản địa quận Nhật Nam theo Khu Liên khởi binh chống nhà Hán và thành lập nước Chăm Pa độc lập. Lực lượng nhà Đông Hán ở phía nam
yếu ớt không chống nổi, bất lực trước sự ly khai của Khu Liên. Từ đó phía nam
quận Nhật Nam trở thành nước Chăm Pa, tách hẳn sự cai trị của nhà Đông Hán và
các triều đại Trung Quốc sau này.
Năm 200, Tào Tháo đang nắm vua Hiến Đế ở Hứa Xương đánh
bại được đối thủ quân phiệt lớn nhất là Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ.
Nắm quyền chủ động ở Trung
Nguyên, Tào Tháo bắt đầu quan tâm tới miền nam. Năm 201, Tào Tháo nhân
danh Hiến Đế cử Trương Tân sang làm thứ sử bộ Giao Chỉ.
Năm 203, Trương Tân và Sĩ Nhiếp cùng nhau dâng biểu xin lập bộ Giao Chỉ làm
châu, nhà Hán mới đặt bộ Giao Chỉ làm Giao Châu. Từ đó Giao Châu được ngang hàng với các châu khác ở Trung
Quốc. Hiến Đế phong Trương Tân làm quan mục ở Giao Châu. Bắt
đầu từ đấy có tên Giao Châu.
Năm 206, Trương Tân bị bộ tướng Khu Cảnh giết chết. Khi đó Lưu Biểu đã trấn giữ Kinh Châu không thần phục Tào Tháo, bèn sai thủ hạ là
Lại Cung sang làm quan mục Giao Châu. Cùng
lúc, thái thú quận Thương Ngô là Sử Hoàng cũng chết, Lưu Biểu vội sai Ngô Cự đi
cùng Lại Cung sang làm thái thú Thương Ngô.
Năm 207, Tào Tháo can thiệp vào Giao Châu, sai
người đưa thư phong Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam trung lang tướng, cho quản lý cả bảy
quận Giao Châu là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam và kiêm thái thú quận Giao Chỉ như trước.
Trong khi đó hai thủ hạ của Lưu Biểu là Ngô Cự và Lại Cung lại
bất hòa. Hai người chưa tới nơi trấn trị đã trở mặt đánh nhau. Ngô Cự đánh đuổi
Lại Cung khiến Lại Cung chạy về quận Linh Lăng (thuộc Kinh Châu), còn Ngô Cự
tới được trị sở Thương Ngô.
Thời Tam Quốc
Năm 208, Lưu Biểu chết. Tào Tháo mang đại quân nam tiến đánh
chiếm Kinh Châu. Cuối năm 208 xảy ra trận Xích Bích. Tào Tháo thất bại trong ý đồ
thống nhất Trung Hoa, phải rút về trung nguyên. Tôn Quyền và Lưu Bị thắng trận, thừa cơ cùng nhau đánh chiếm
đất Kinh Châu từ tay Tào Tháo để lại.
Đối với Giao Châu, Tôn Quyền cũng giành lấy quyền quản lý. Năm
210, Tôn Quyền sai thủ hạ là Bộ Chất sang làm thứ sử Giao châu. Sĩ Nhiếp tuy
trước đã thần phục Tào Tháo nhưng biết không thể chống lại Tôn Quyền nên đành
phải nghe theo, chấp nhận ngôi vị của Bộ Trắc. Từ đó Giao châu trên danh nghĩa
thuộc về họ Tôn mà ít lâu sau thành lập nước Đông Ngô khi Trung Quốc chính thức chia làm 3 nước: Tào Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô.
Tuy Bộ Chất làm thứ sử nhưng thế lực của họ Sĩ vẫn rất lớn và
thực quyền cai quản trong tay họ Sĩ. Sĩ Nhiếp sai con là Sĩ Hâm sang làm con
tin ở Kiến Nghiệp với Tôn
Quyền và được phong làm Long Biên hầu.
Năm 226, Sĩ Nhiếp chết, con trai là Sĩ Huy tự mình lên thay chức
thái thú quận Giao Chỉ không xin lệnh Tôn Quyền. Để tăng cường
quản lý phía nam, Tôn Quyền chia Giao Châu cũ của nhà Hán làm hai: lấy 3 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc hợp thành Quảng Châu, giao cho Lã Đại làm thứ sử; Giao Châu chỉ còn 4 quận phía
nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và một phần quận Nhật Nam, giao
cho Trần Thì làm thứ sử.
Tuy nhiên Sĩ Huy mang quân ngăn trở Trần Thì đến nhận chức. Tôn
Quyền sai Lã Đại mang quân sang đánh để triệt bỏ họ Sĩ. Lã Đại lừa giết anh em
Sĩ Huy và chiếm lấy Giao Châu. Từ đó Giao Châu hoàn toàn thuộc về Đông Ngô. Tôn
Quyền lại bỏ Quảng Châu, khôi phục Giao Châu gồm 7 quận như cũ, cho Lã Đại làm Giao Châu
mục.
Năm 248, cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị
Trinh bị thứ
sử Giao Châu là Lục Dận (Đông Ngô - cháu Lục Tốn) dập
tắt.
Tranh Đông Hồ
"Bà Triệu cưỡi voi"
Cuối năm 263, Tào Ngụy diệt Thục Hán. Cùng
năm, viên quan ở quận Giao Chỉ là Lữ Hưng (Lã Hưng) giết chết thái thú Tôn Tư của
Đông Ngô, mang quận về hàng Tào Ngụy.
Vua Ngô là Cảnh Đế Tôn Hưu vội chia lại Giao châu như ý định của Tôn
Quyền năm 226: tách 3 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc hợp thành Quảng Châu, đặt trị sở ở Phiên Ngung và Giao Châu gồm 4 quận phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu nhân
danh Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán phong
cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân kiêm Thái thú Giao chỉ, coi việc binh ở Giao Châu và Hoắc Dặc (tướng cũ Thục Hán) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn đóng quân ở Nam Trung, không trực tiếp sang Giao Châu). Cuối năm
264, Lã Hưng bị thủ hạ là công tào Lý Thống giết chết.
Năm 265, con Tư Mã Chiêu là Tư Mã Viêm cướp
ngôi nhà Ngụy, lập ra nhà Tấn. Hoắc Dặc tiến cử Dương Tắc sang thay cho Lã Hưng vừa
bị giết, vua Tấn đồng ý. Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái
thú Cửu Chân.
Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành
chiến tranh với Tấn để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu, gọi là Giao Quảng chi loạn. Năm 268, Ngô Mạt Đế Tôn Hạo phong Lưu Tuấn làm thứ sử Giao châu, sai
đánh chiếm lại từ tay nhà Tấn, nhưng bị Dương Tắc đánh bại 3 lần. Quận Uất Lâm thuộc Quảng Châu của nhà Ngô cũng bị Dương Tắc chiếm đóng.
Nhà Tấn theo tiến cử của Tắc, cho Mao Quế làm thái thú quận Uất Lâm.
Năm 271, Tôn Hạo lại sai Đào Hoàng sang đánh Giao châu. Lần này quân Ngô thắng
trận, Đào Hoàng bắt được Dương Tắc và giết Mao Quế. Tuy nhiên Lý Tộ vẫn chiếm
giữ quận Cửu Chân theo Tấn, không hàng Ngô. Sau đó Đào Hoàng
đánh lâu ngày mới hạ được Cửu Chân. Toàn
Giao châu trở về Đông Ngô, Đào Hoàng được phong làm Giao châu mục.
Năm 280, Tấn Vũ Đế diệt
Ngô, bắt Tôn Hạo. Hạo viết thư khuyên Đào Hoàng hàng Tấn. Hoàng đầu hàng, được
giữ chức cũ tới khi qua đời năm 300. Từ đó Giao châu thuộc nhà Tấn.
Thời Lưỡng Tấn Nam Bắc triều
Từ thời Lưỡng Tấn tới thời Nam Bắc triều, tuy có sự thay đổi
triều đại và biến động nhiều ở trung nguyên nhưng Giao châu chỉ có những biến
động quân sự, không có nhiều biến động về chính trị.
Tại miền bắc, các tộc Ngũ Hồ vào xâm chiếm và cai trị, các triều đại Đông Tấn (317-420), Lưu Tống (420-479), Nam Tề (479-502), Lương (502-557) nối nhau cai trị ở miền nam và
giữ được quyền quản lý Giao châu không bị gián đoạn, thay đổi như cuối thời Đông Hán và Tam Quốc. Những
cuộc nổi dậy của người Việt chỉ kéo
dài một thời gian đều bị dẹp; những cuộc xâm lấn của Lâm Ấp từ phía nam cũng nhanh chóng bị đẩy lùi
(xem chi tiết các mục #Chiến
tranh với Lâm Ấp và #Sự chống
đối của người bản địa bên
dưới); một số lực lượng nổi dậy chống triều đình chạy sang Giao châu cũng nhanh
chóng bị đánh bại.
Hành
chính
Bộ Giao Chỉ gồm có
9 quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Đạm
Nhĩ, Chu Nhai, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Trong
7 quận này, Giao Chỉ và Cửu Chân là nước Âu Lạc cũ; các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố vốn là đất do nhà Tần chiếm được của người Bách Việt ở Lĩnh Nam; quận Nhật Nam do nhà Hán mở rộng xuống phía nam quận Cửu Chân. Ba
quận thuộc lãnh thổ Việt Nam hiện nay là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Quận Nam Hải gồm có
6 huyện, quận Uất Lâm gồm có 12 huyện, quận Thương Ngô gồm có 10 huyện, quận Hợp Phố gồm có 5 huyện, quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện, quận Cửu Chân gồm có 5 huyện và quận Nhật Nam gồm có 5 huyện.
Từ năm 203, theo đề nghị của thứ sử Trương Tân và Sĩ Nhiếp, bộ Giao Chỉ được
lập thành Giao Châu, coi
ngang hàng như các châu ở Trung Quốc.
Năm 264, nhà Đông Ngô chính thức cắt 3 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc hợp thành Quảng Châu, Giao Châu gồn 4 quận còn lại
phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Sau khi đánh chiếm lại được Giao Châu từ tay nhà Tấn (271), Đào
Hoàng đã xin với Tôn Hạo đặt thêm 2 quận Vĩnh Bình và Tân Xương trên cơ sở tách
khỏi quận Giao Chỉ và đặt thêm quận Cửu Đức tách khỏi quận Cửu Chân. Như vậy Giao
Châu cuối thời Ngô sang Tấn gồm có 7 quận, thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay gồm có 6 quận Giao Chỉ, Vĩnh Bình,
Tân Xương, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam. Còn quận Hợp Phố nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Thời Nam Bắc triều, về cơ bản địa giới hành chính Giao châu như
thời Lưỡng Tấn, có điều chỉnh ít qua các triều đại:
·
Thời Lưu Tống (420-479): Đặt thêm quận Tống Bình tách từ quận
Giao Chỉ và đặt quận Nghĩa Xương.
·
Thời Nam Tề (479-502): có sự thêm bớt một số huyện ở các quận.
·
Thời Lương: Lương Vũ Đế cải
cách hành chính trong nước, chia đất đặt thêm nhiều châu nhỏ, trong đó tại Giao
châu chia quận Giao Chỉ đặt ra Hoàng châu và quận Ninh Hải; lấy quận Cửu Chân lập
ra Ái châu; lấy quận Nhật Nam đặt ra Đức châu, Lợi châu và Minh châu.
Kinh
tế
Nông nghiệp
Đồ sắt phát triển giúp cho năng suất trồng trọt
tăng nhanh và đời sống tương đối no đủ. Các
công trình thủy lợi như đắp đê sông và đê biển được tiến hành bên cạnh một số
kênh ngòi được đào phục vụ cho nông nghiệp.
Người Việt bắt đầu biết áp dụng thâm canh tăng năng suất. Trải
qua quá trình tăng vụ, chuyển vụ, người Việt đã biết
trồng lúa 2 mùa trong 1 năm từ rất sớm. Các sách sử Trung Quốc thời kỳ này đều gọi lúa chín 2 mùa là lúa
Giao Chỉ
Sản xuất nông nghiệp phát
triển tốt nhưng đồng thời sản phẩm của người bản địa cũng bị các triều đình
phương Bắc vơ vét qua tô thuế nặng nề. Lượng thuế nông nghiệp mà nhà Hán thu từ
đây là 13,6 triệu hộc, nhiều hơn so với những vùng như Mân, Quảng, Điền, Kiềm.
Thủ công nghiệp
Các nghề chính thời kỳ này là rèn sắt, đúc đồng để làm dụng cụ
lao động, đồ dùng gia đình (bình, đỉnh, chậu, bát, chén, đĩa…) và
vũ khí (kiếm, dao, kích, lao, mũi tên...)
Nghề gốm phát triển trên cơ sở tiếp thu kỹ thuật từ
Trung Quốc. Sản phẩm có đồ dùng thường ngày như bát, chén, đĩa, nậm, mâm, khay,
nồi, chõ… hay đồ thờ như đỉnh, đèn, bình hương, thìa, đũa sành) và tượng thú.
Người Việt còn được tiếp thu nghề làm giấy của Trung Quốc và nghề làm chế tạo thủy tinh từ Ấn Độ và phương Nam truyền tới.
Nghề làm gạch ngói phục vụ các công trình kiến trúc như thành
quách, chùa tháp, mộ táng. Hai nghề phụ phổ biến nhất là nghề dệt và đan lát.
Các loại vải đều được nhuộm thành nhiều màu khác nhau.
Người Việt biết dùng mía nấu mật làm đường, gọi là thạch mật. Lúc đó
người Trung Quốc chưa biết làm đường bằng mía nên thạch mật của Giao châu trở
thành cống phẩm quý cho triều đình nhà Hán.
Bên cạnh đó, những ngành thủ công nghiệp khác cũng phát triển
như mộc, sơn then, thuộc da, nấu rượu, là
Sự phát triển thủ công nghiệp của Việt Nam thời kỳ này cũng bị
kìm hãm do tác động của các triều đại cai trị phương Bắc. Họ bắt nhiều thợ thủ
công giỏi về phục vụ xây dựng tại kinh đô khiến lực lượng sản xuất nghề này bị
ảnh hưởng nhiều.
Thương mại
Ngoài hệ thống sông ngòi tự nhiên, hệ thống đường sá hình thành
qua nhiều năm cũng góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại. Các thư tịch cổ
Trung Quốc nói rằng các nước phương Nam và phương Tây muốn đến Trung Quốc đều
phải đi theo con đường Giao Chỉ. Từ thời Nhà Hán, thuyền buôn các nước Java, Myanma, Ấn Độ, Parthia (Ba Tư), La Mã đều qua
Giao Chỉ và coi đây là như một trạm dừng chân quan trọng để đến Trung Quốc.
Sang thời Nam Bắc triều, thuyền các nước này và các tiểu quốc bờ biển Sumatra, Sri Lanka… đều
qua lại buôn bán với các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Theo ghi chép của Hậu Hán thư, Vương quốc Parthia mua tơ lụa từ đất nhà
Hán bán lại cho La Mã lãi rất
cao. Triều đình La Mã muốn sai sứ giao thương với triều đình nhà Hán nhưng
Parthia cố ngăn trở không cho La Mã tiếp cận để mua hàng trực tiếp của Hán. Năm
166, dưới triều vua Hán Hoàn Đế, Hoàng đế La Mã là Marcus
Aurelius Antoninus sai sứ
theo đường từ Nhật Nam đến dâng ngà voi, sừng tê, đồi mồi cho nhà
Hán để đặt quan hệ. Đó là lần đầu tiên La Mã thông
với Trung Quốc, qua quận Nhật Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay.
Việc buôn bán ở Giao Châu hầu hết do người Hoa khống chế. Các triều đại Trung Quốc cũng có
chính sách đánh thuế thương mại với các tàu thuyền buôn của nước ngoài rất
nặng.
Văn
hóa xã hội
Trước khi bị đế chế phương Bắc chinh phục và biến thành quận
huyện, xã hội Việt cổ hình thành trên nền tảng nghề trồng lúa nước phát triển ở
đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hình thái nhà nước sơ khai dựa trên chế độ thủ
lĩnh địa phương là Lạc tướng.
Từ đầu công nguyên trở đi, nền văn minh Đông Sơn bị giải thể về
cấu trúc. Theo
các sử gia hiện đại, các mảnh
vụn của nền
văn minh này tuy không bị mất đi nhưng một mặt đã hòa vào nền văn hóa dân gian
và của các xóm làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác ở Đông Dương và Đông Nam Á; mặt khác đã gá lắp với những thể chế văn
hóa, văn minh ngoại lai từ Trung Quốc và Ấn Độ. Do
đó, dần dần đã tạo nên một sắc thái văn hóa – văn minh mới là văn minh Hán-Việt và Việt-Hán.
Cùng chịu chung sự cai trị với người Trung Quốc nhưng người Việt
bị xem là Man Di, chịu chính sách phân biệt Hoa – Di. Việc phân biệt đó tạo hố
ngăn cách giữa người Việt và người Hoa, do đó các thủ lĩnh người Việt nổi dậy
như Lương Thạc, Lý Trường Nhân đã giết nhiều quan lại và kiều dân người Hoa khi
họ nổi dậy.
Các triều đại phương Bắc chỉ nắm được tới cấp huyện, không thể
khống chế được hạ tầng cơ sở của xã hội Việt cổ là các làng. Chính sử Trung
Quốc thừa nhận những thủ lĩnh (cừ súy) người Việt vẫn "hùng cứ hương
thôn". Đó
được xem là vùng trời riêng của người Việt. Trong khi văn hóa phương Bắc trọng
nam khinh nữ thì văn hóa Việt cổ có sự tôn trọng vai trò của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội. Những người phụ nữ điển hình chính là Trưng Trắc, Trưng Nhị
hay Triệu Thị Trinh.
Cùng những phong tục cổ truyền như dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ khác vẫn được giữ như cạo
tóc hay búi tóc, xăm mình, chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền,
nhuộm răng, ăn trầu…
Một vài tập tục trong đời sống có sự thay đổi do Hán hóa như giã
gạo bằng chày tay thay bằng giã cối đạp (theo hệ thống đòn bẩy); nhà ở từ nhà
sàn sang nhà trên đất bằng…
Nền văn học nghệ thuật của Trung Quốc phát triển cũng có ảnh
hưởng tới người Việt thời kỳ này. Nét đặc trưng của thời kỳ này là sự thay đổi
văn hóa ngôn từ. Theo nhận định của các nhà sử học, văn hóa Đông Sơn và nghệ
thuật Đông Sơn vẫn tồn tại tuy trên đà suy thoái mạnh.
Tôn
giáo tín ngưỡng
Nho giáo
Từ thời Tây Hán, đạo
Nho đã xâm nhập làm công cụ phục vụ cho sự cai trị của triều đình nhà Hán. Dần
dần có những người Việt theo
đường học vấn Nho giáo phục vụ cho chính quyền phương Bắc như Lý Tiến, Lý Cầm.
Nhà Hán cho Lý Tiến trở lại Giao châu, không cho làm quan ở trung nguyên vì
"hay chê bai, bắt bẻ triều đình".
Sang thời Tam quốc - Lục triều, loạn lạc nhiều, Nho giáo dần
suy. Dù sau đó tiếp tục được truyền bá nhưng Nho giáo chưa bao giờ phát triển
rực rỡ tại Giao châu.
Đạo giáo
Đạo giáo cũng được truyền từ Trung Quốc, tuy muộn hơn Nho giáo nhưng sâu rộng hơn. Thứ sử Giao châu Trương
Tân là người chuộng Đạo giáo. Đạo giáo truyền vào Việt Nam thời kỳ này chỉ hạn
chế ở tầng lớp trên trong xã hội và các quan lại đô hộ. Những hình tượng nguyên
sơ của người Việt như Lạc Long Quân, Chử Đồng Tử, Tản Viên, Sơn Tinh, Phù Đổng
Thiên Vương… đều dần dần bị Đạo giáo hóa và thần thánh hóa.
Đạo giáo phù thủy từ thế kỷ 2 được truyền vào Giao châu và hòa quyện với
những đền miếu, tín ngưỡng dân gian cổ
truyền.
Phật giáo
Phật giáo truyền vào Việt Nam theo hai con đường: từ Ấn Độ
truyền bá vào Trung Quốc rồi từ đây sang Việt Nam và từ Ấn Độ qua con đường phía nam Đông Dương tới,
được các nhà nghiên cứu xác định vào khoảng thế kỷ đầu công nguyên
Liên Lâu tại
Giao châu chính là một trong 3 trung tâm Phật giáo thời Đông Hán cùng với Lạc Dương (kinh
đô) và Bành Thành ở hạ lưu sông Trường Giang. Từ thế kỷ 2, Giao
châu đã thành lập những tăng đoàn, dịch kinh Phật, xây dựng chùa và sáng tác
sách nói về kinh Phật. Những kinh điển Phật giáo đầu tiên được phiên dịch tại
Giao châu là Tứ thập
nhị kinh và Lý hóa luận. Phật
giáo có tinh thần hòa đồng với các tín ngưỡng dân
gian và các tôn giáo khác như Nho giáo và Đạo giáo.
Chiến
tranh với Lâm Ấp
Sau khi ly khai miền nam quận Nhật Nam ra khỏi lãnh thổ do nhà Hán quản lý từ năm 192, Chăm Pa - hay Lâm Ấp - trở thành nước độc lập. Do
Trung Quốc nhiều biến cố, các triều đại cai trị Giao châu chỉ có thể duy trì sự
quản lý tại đây, không thể đánh chiếm lại Chăm Pa.
Sang thế kỷ 4, Lâm
Ấp lớn mạnh hơn trước. Tới giữa thế kỷ 4 thời Đông Tấn, các vua Lâm Ấp bắt đầu
đánh ra bắc, tiến vào địa phận Giao châu. Vua Chăm Pa là Phạm Văn tiến đánh Nhật Nam và đòi lấy Hoành Sơn làm ranh giới.
Năm 351, thái thú quận Giao Chỉ là Dương Bình và thái thú quận
Cửu Chân là Hoan Toại đánh thắng vua Lâm Ấp là Phạm Phật, đánh phá nước Lâm Ấp
rồi rút về.
Năm 353, thứ sử Giao châu là Nguyễn Phu lại đánh Phạm Phật, phá
hơn 50 lũy.
Sau đó Phạm Phật vẫn thường mang quân cướp phá biên giới. Năm
359, thứ sử Giao châu là Ôn Phóng Chi đánh đến kinh đô Lâm Ấp ở miền Quảng Nam.
Cuối thời Đông Tấn, vua
An Đế nhu nhược, các quyền thần thao túng triều đình, tranh giành quyền bính.
Sau đó quyền thần Lưu Dụ giành
thắng lợi, tập trung đánh dẹp Ngũ Hồ ở trung nguyên để lập công trạng chuẩn bị
cướp ngôi nhà Tấn. Nước Lâm Ấp lại mang quân đánh phá các quận Nhật Nam,
Cửu Đức và Cửu Chân.
Năm 399, con Phạm Phật là Phạm Hồ Đạt mang quân đánh quận Nhật
Nam, bắt thái thú Quế Nguyên; sau đó đánh vào quận Cửu Đức, bắt sống thái thú
Tào Bính. Thái thú quận Giao Chỉ là Đỗ Viện đem quân ra đánh tan được Phạm Hồ
Đạt. Hồ Đạt bỏ chạy về nước. Đỗ Viện được phong làm thứ sử Giao châu.
Năm 413, Phạm Hồ Đạt lại tiến ra quận Cửu Chân. Con Đỗ Viện là
Đỗ Tuệ Độ nối chức cha, mang quân phá được Lâm Ấp, giết con Hồ Đạt là Chân Tri
và Phạm Kiện, bắt một hoàng tử khác là Na Năng.
Năm 415, quân Lâm Ấp lại bắc tiến một lần nữa nhưng lại bị đẩy
lui. Đến năm 420, khi Lưu Dụ mới cướp ngôi nhà Tấn lập ra nhà Lưu Tống, Đỗ Tuệ
Độ nhân lúc Lâm Ấp suy yếu bèn nam tiến, đánh giết quá nửa quân Lâm Ấp. Nước
Lâm Ấp phải xin hàng và nộp cống. Sau này con Tuệ Độ là Đỗ Hoằng Văn tiếp tục
được nối cha và ông làm thứ sử Giao châu.
Nhưng chỉ 4 năm sau, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại lại tiến đánh
hai quận Nhật Nam và Cửu Chân. Đỗ Hoằng Văn định mang quân ra đối phó, nhưng
nghe tin nhà Tống sắp cử người sang thay mình nên án binh không ra nữa. Vì vậy
từ đó quân Lâm Ấp thường xuyên ra cướp phá Giao châu.
Sau khi Đỗ Hoằng Văn chết (426), Tống Văn Đế phong Vương Huy làm
thứ sử Giao châu. Năm 431, Phạm Dương Mại lại mang thủy quân tiến ra quận Cửu
Chân. Thứ sử Giao châu mới là Nguyễn Di Chi ra chống cự bị bại trận.
Năm 433, Phạm Dương Mại sai sứ sang Kiến
Khang xin
Tống Văn Đế cho quản lý Giao châu nhưng không được chấp nhận. Sau đó Dương Mại
vẫn sai sứ đi lại nhưng mặt khác vẫn cướp phá các quận phía nam Giao châu.
Khoảng năm 445-446, Tống
Văn Đế sai Đàn Hòa Chi mang quân đánh Lâm Ấp. Phạm Dương Mại sai sứ giảng hòa
và xin trả những hộ dân lấy của Giao châu. Đàn Hòa Chi sai sứ đi dụ Dương Mại
thì bị Dương Mại bắt giữ. Hòa Chi bèn tiến binh. Tháng 5 năm đó, quân Tống đánh
hạ thành Khu Lật, tiến vào Tượng Phố. Dương Mại dốc quân cả nước ra đánh nhưng
bị thua to, cùng con bỏ chạy thoát thân.
Sau trận thua nặng, thế lực của Lâm Ấp suy yếu hẳn. Từ đó tới
hết thời Bắc thuộc lần 2 gần 100 năm, Lâm Ấp không xâm phạm vào Giao châu nữa.
Sự
chống đối của người bản địa
Thời Đông Hán
Năm 137, người huyện Tượng Lâm lại nổi dậy đánh phá trị sở nhà Hán, giết
trưởng lại rồi đánh rộng ra toàn quận Nhật Nam. Thứ sử bộ Giao Chỉ là Phàn
Diễn mang 2 vạn quân đi đánh nhưng binh lính ngại đi xa bèn làm loạn, đánh phá
2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 138, nhà Hán theo kế của Lý Cố, thay hai thái thú ở Cửu Chân và Nhật Nam, đồng thời dùng kế
lấy vàng lụa mua chuộc và ly gián các thủ lĩnh quận Nhật Nam đánh lẫn nhau.
Cuối cùng quân nổi dậy bị dẹp.
Năm 144, dân Nhật Nam lại cùng Cửu Chân nổi lên chống lại nhà
Hán nhưng nhanh chóng bị dẹp.
Năm 157, Chu Đạt nổi dậy giết huyện lệnh Cư Phong rồi tiến
đánh quận Cửu Chân, giết chết thái thú. Nhà Hán cử binh sang đánh, quân Chu Đạt
rút về quận Nhật Nam. Năm 160 thì Chu Đạt bị dẹp hẳn.
Năm 178, Lương Long ở quận Giao Chỉ nổi dậy, lôi kéo thêm dân
các quận Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam hưởng ứng. Năm 181 Nhà Hán điều quân sang dẹp, giết chết Lương Long.
Năm 192, Khu Liên nổi dậy ở huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật
Nam, giết huyện lệnh rồi thành lập nước Chăm Pa.
Thời Tam Quốc
Sang thời Đông Ngô cai trị, Giao châu có cuộc khởi nghĩa lớn nhất của người Việt
nổ ra năm 248. Triệu Thị
Trinh cùng
anh là Triệu Quốc Đạt khởi
binh chống Tôn Quyền khiến "toàn thể Giao châu chấn
động". Tôn
Quyền sai Lục Dận mang 8.000 quân sang đánh và dẹp được cuộc
nổi dậy này.
Thời nhà Tấn và Nam Bắc triều
Năm 299, thú binh ở quận Cửu Chân do Triệu Chỉ cầm đầu nổi dậy
giết thái thú nhà Tấn và vây quận thành. Không lâu sau lực lượng
này bị dẹp.
Năm 317, đốc quân người Việt là Lương Thạc giết thứ sử Cố Thọ, lập con Đào Hoàng là Đào Tuy (hoặc Uy) lên thay. Nhà Tấn cử
Vương Cơ sang làm thứ sử, bị Lương Thạc ngăn trở và giết các kiều dân người Hoa
ở Giao châu. Nhà Tấn lại cử Vương Lượng sang làm thứ sử. Lương Thạc lại chống
cự, mang quân vây hãm thủ thành Long Biên và giết
chết Lượng. Năm 323, Tấn Nguyên Đế phải cử
danh tướng Đào Khản sang Giao châu mới đánh được Lương Thạc.
Thạc bị giết.
Năm 468, tướng lĩnh bản địa là Lý Trường Nhân nổi dậy
giết thuộc hạ người phương Bắc của thứ sử Lưu Mục mới qua đời và tự lập làm thứ
sử. Nhà Lưu Tống cử Lưu Bột sang nhưng Trường Nhân chống
lại, ngăn không cho Lưu Bột sang. Nhà Tống phải công nhận Trường Nhân làm thứ
sử. Vài năm sau Trường Nhân chết, em họ là Lý Thúc Hiến, nguyên thái thú quận
Vũ Bình lên thay. Nhà Tống lại sai Thẩm Hoán sang làm thứ sử nhưng Thúc Hiến
không nghe, ngăn cản Hoán. Hoán chết ở quận Uất Lâm. Nhà Tống lại phải công
nhận Thúc Hiến.
Năm 479, Tiêu Đạo Thành diệt
Lưu Tống lập ra Nam Tề. Năm
485, Nam Tề Vũ Đế Tiêu
Trách sai Lưu Khải điều binh 3 quận sang đánh. Lý Thúc Hiến liệu thế không
chống nổi bèn sang đầu hàng nhà Tề.
Năm 541, Lý Bí khởi
binh chống nhà Lương. Thứ
sử Tiêu Tư bỏ chạy về bắc. Qua năm 542 và 543, nhà Lương cử binh sang dẹp đều
bị đánh bại. Năm 544, Lý Bí thành lập nước Vạn Xuân và tự xưng đế. Với sự kiện thành lập nước
Vạn Xuân, người Việt giành
lại quyền tự chủ, thời Bắc thuộc lần 2 chấm dứt.
Các
triều đại và quan đô hộ
Triều đại
Trong gần 500 năm Bắc thuộc lần 2, Việt Nam trải qua sự cai trị
của các triều đại phương Bắc:
Các quan đô hộ
Sử sách ghi lại các quan đô hộ đã sang Việt Nam trong thời kỳ
này, gồm một danh sách không đầy đủ, như sau:
·
Mã Viện
·
Lý Thiện
·
Trương Khôi
·
Hồ Cống
·
Chúc Lương (136)
·
Chu Xưởng (136)
·
Phàn Diễn (137)
·
Trương Kiều (138 - ?)
·
Hạ Phương (144)
·
Lưu Tảo (145 - 160)
·
Dương Phò
·
Ngô Thức (? - 157)
·
Ngụy Lãng (157 - 158)
·
Chúc Điềm (159 - 160)
·
Hạ Phương (160 - ?)
·
Cát Kỳ
·
Đinh Cung
·
Chu Thặng
·
Trương Bàn (165 - ?)
·
Chu Ngung (178-180)
·
Lý Tiến (186-189)
·
Chu Phù (190-?)
·
Trương Tân (203-206)
·
Lại Cung (207-207)
|
·
Bộ Trắc (210-?)
·
Lã Đại (227-231)
·
Lục Dận (248-258)
·
Hoắc Dặc (264)
·
Lã Hưng (264)
·
Mã Dung (265-266)
·
Dương Tắc (266)
·
Ngô Ngạn (300-?)
·
Cổ Bí
·
Cố Tham
·
Cố Thọ
·
Đào Uy
·
Đào Thục
·
Đào Tuy (?-318)
·
Vương Lượng (322)
·
Đào Khản (323-324)
·
Nguyễn Phóng (325-329)
·
Phó Vinh (330-?)
·
Dương Bình (351-352)
·
Nguyễn Phu (353-358)
·
Đặng Độn Chi (381-?)
·
Đỗ Viện (399-410)
·
Đỗ Tuệ Độ (410-423)
·
Đỗ Hoằng Văn (423-426)
|
·
Vương Huy Chi (427-430)
·
Nguyễn Di Chi (431)
·
Lý Tử Chi (432-433)
·
Lý Đam Chi (434)
·
Từ Đạo Phúc (435)
·
Từ Xâm Chi (437-442)
·
Đàn Hoà Chi (443-445)
·
Tiêu Cảnh Hiến (446-454)
·
Viên Hoành (455)
·
Tiêu Cảnh Hiến (455)
·
Phi Yêm (456-457)
·
Viên Lãng (458-461)
·
Đàn Dực Chi (462-464)
·
Lưu Phương Mục (465-466)
·
Tôn Phụng Bá (466-467)
·
Lưu Bột (468)
·
Trần Bá Thiệu (468)
·
Ngô Hỉ (468-469)
·
Thẩm Cảnh Đức (477)
·
Thiệu Siêu Dân (477)
·
Lý Thúc Hiến (479)
·
Trầm Hoán (479-484)
·
Lưu Khải (485-487)
·
Phòng Pháp Thừa (488-489)
·
Phục Đăng Chi (490-493)
·
Tang Linh Thí (494)
·
Tống Từ Minh (494)
·
Lý Khải (495-505)
·
Lý Tắc (505-520?)
·
Lý Thốc (506)
·
Tiêu Tư (541-542)
|
Xem
thêm
Tham
khảo
·
Phan
Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương
Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà xuất
bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
·
Viện Sử học (1988), Biên
niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
·
Đào Duy Anh (2005), Đất
nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
No comments:
Post a Comment