Thời kỳ Bắc thuộc lần
thứ nhất
Thời kỳ Bắc
thuộc lần thứ nhất (ngắn gọn: Bắc
thuộc lần 1) trong lịch sử Việt
Nam kéo dài từ năm 218 TCN hoặc 179 TCN hoặc 111 TCN đến năm 39, dưới sự cai trị của phong kiến Trung Quốc
Thời
điểm bắt đầu
Dấu mốc xác định thời kỳ này đầu tiên chưa thống nhất giữa các
sử gia, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu.
·
Quan điểm thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Việt Nam sử lược) xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế diệt
năm 111 TCN lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Theo mốc thời gian này, thời Bắc thuộc
lần 1 kéo dài 150 năm. Theo quan điểm này, thời Bắc thuộc lần 1 thực chất là thời thuộc Hán.
Bìa
sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản. Cột chữ
bên phải là Vựng lịch triều chi sự tích nghĩa là "góp nhặt sự tích
của các triều đại đã qua". Cột chữ bên trái là Công vạn thế chi giám
hoành nghĩa là "nêu gương chung công lao của vạn đời".
Quyển
thứ nhất của Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, bản năm 1884, lưu tại thư viện Quốc
gia Việt Nam
Bìa
quyển 1, Việt Nam sử lược, in lần đầu tiên, 1920
Hán Vũ Đế (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), hay được phiên thành Hán Võ Đế, tên thật Lưu Triệt (劉徹), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán trong lịch sử
Trung Quốc.
·
Quan điểm không thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt
Nam (Việt sử tiêu án, các sách Lịch sử Việt Nam của
các sử gia hiện đại) xác định thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu
Đà diệt An Dương Vương:
Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị tiêu diệt năm 207 TCN.
Theo mốc thời gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 246 năm.
Sử hiện đại căn cứ theo
ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt[cần dẫn nguồn]phía Tây nước Âu Lạc "sau khi Lã Hậu mất", tức là khoảng năm 179 TCN. Theo mốc thời gian này, thời Bắc
thuộc lần 1 kéo dài 218 năm.
Triệu Vũ đế (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN - 137 TCN), húy Triệu Đà (chữ Hán: 趙佗), tự Bá Uy (chữ Hán: 伯倭), hiệu Nam Hải lão phu (chữ Hán: 南海老夫). Triệu Đà vốn là người Trung Hoa (sau
này gọi là người Hán), quê ở huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山), đời nhà Tần (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), miền Bắc Trung Quốc.[
Tượng
Vũ Đế, phía trước Nhà ga đường sắt Hà Nguyên thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc
Sử Ký (phồn thể: 史記/史记; bính âm: Shǐjì), hay Thái sử công thư
(太史公書,
nghĩa: Sách của quan Thái sử) là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc trong hơn 2500 năm từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống.
Sự
cai trị của nhà Triệu và nhà Hán
Sau khi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, Triệu Đà chia lãnh thổ làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Trông
coi 2 quận này là hai viên quan Sứ (đại diện cho triều đình Phiên Ngung), bao gồm: Điển sứ coi việc
hành chính và Tả tướng coi việc quân sự. Sử cũ ghi nhận Tả tướng cuối cùng thời Triệu là Hoàng Đồng.
Một chiếc ấn khối vuông bằng đồng khắc chữ "Tư Phố hầu
ấn" (Ấn dành cho thủ lĩnh huyện Tư Phố) được
phát hiện ở Thanh Hoá thuộc miền bắc Việt Nam trong
thập niên 1930, được cho là của viên Điển sứ tước Hầu ở quận Cửu Chân thời Triệu do có sự tương đồng với những
chiếc ấn được tìm thấy ở lăng mộ Triệu Văn Đế.
Bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế
Theo ý kiến các sử gia, điều này chứng tỏ nhà Triệu không trực
tiếp cai trị Giao Chỉ và Cửu Chân, người Âu Lạc cũ chỉ mất một triều đình độc lập do người
bản địa đứng đầu, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối vẫn được duy trì và tổ chức
vùng (bộ) của người Việt vẫn chưa bị xóa bỏ. Thậm
chí, trong vùng đất Cổ Loa cũ của An Dương Vương còn có
vương hiệu là Tây Vu Vương.
Các sử gia cũng đánh giá: việc tiếp tục chế độ Lạc tướng của người Việt là
chính sách cai trị tốt của nhà Triệu, vì
triều đình Nam Việt sở dĩ tồn tại được, ngoài sự phù trợ của một số người Hán
còn có sự ủng hộ của các tộc trưởng địa phương người Việt. Các
tộc trưởng người Việt, Lạc tướng vẫn cai trị, hàng năm cống nộp cho vua Triệu
thông qua hai quan Sứ. Giúp việc cho hai quan Sứ có một số quan chức cả người Nam Việt lẫn
người Việt Giao Chỉ.
Ở quận Quế Lâm, nhà
Triệu đặt một viên quan Giám để trông coi. Sử cũ ghi nhận vị quan Giám cuối
cùng của quận Quế Lâm là Cư Ông (居翁).
Nhà Triệu phong cho họ hàng tông thất được tước Vương
ở đất Thương Ngô, hiệu
là Thương Ngô Vương. Sử cũ cho biết Triệu
Quang là
Thương Ngô Vương cuối cùng.
Riêng quận Nam Hải do
triều đình nhà Triệu trực tiếp cai trị và là nơi đặt kinh đô Phiên Ngung. Dưới đơn vị cấp quận là cấp
huyện. Sử cũ ghi nhận vào giai đoạn cuối thời Triệu, Sử
Định là quan Huyện lệnh huyện Yết Dương thuộc quận Nam Hải.
Biến cố đáng kể nhất của thời kỳ này là cuộc chiến giữa nhà Hán và nhà Triệu cuối thế kỷ 2 TCN, dẫn tới sự thay đổi chủ
quyền cai trị lãnh thổ miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam cùng đất Lưỡng Quảng từ tay nhà Triệu sang tay nhà Tây Hán. Nhân
lúc nhà Triệu suy yếu, Hán Vũ Đế định
dùng phương pháp ngoại giao để thu phục đất Nam Việt nhưng không thành công vì gặp sự chống đối
của Thừa tướng Lữ Gia.
Hán Vũ Đế quyết
định sử dụng quân sự và mở cuộc tấn công quy mô vào năm 111 TCN. Nhà Triệu đã thất bại sau khi tướng Hán là Lộ Bác Đức hạ được
kinh thành Phiên Ngung của Nam Việt nhưng chưa tiến vào lãnh thổ Giao Chỉ và Cửu Chân. Thủ
lĩnh người Việt ở đất Cổ Loa là Tây Vu Vương định
nổi dậy chống Hán nhưng bị Tả tướng Hoàng Đồng giết
chết để hàng Hán. Nước Nam Việt, trong
đó bao gồm lãnh thổ miền Bắc Việt Nam bây
giờ, từ đó thuộc quyền cai quản của nhà Hán.
Nhà Hán xác lập
bộ máy cai trị chặt chẽ hơn so với nhà Triệu, thiết
lập đơn vị cai trị cấp châu và quận. Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền
con nối của người Việt vẫn được duy trì, nhà Hán "dùng tục cũ để cai trị".
Khi Vương Mãng cướp
ngôi nhà Hán lập nhà Tân (năm 8), thứ sử Giao Châu là Đặng Nhượng và thái thú Tích
Quang theo
các thái thú ở Giang Nam, cùng
nhau cát cứ chống nhà Tân. Năm
29, Hán Quang Vũ Đế cơ bản
thống nhất trung nguyên. Theo lời dụ của tướng Đông Hán là Sầm Bành, Tích
Quang và Đặng Nhượng cùng
hàng Đông Hán.
Hành
chính và dân số
Thời Triệu
Triệu Đà chia
lãnh thổ Âu Lạc cũ làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Bên
dưới cấp quận không có đơn vị hành chính khác. Sử sách ghi nhận tại hai quận
này có 40 vạn dân thời Triệu.
Hai quận Nam Hải và Quế Lâm về cơ bản vẫn kế thừa cương vực và hành
chính thời Tần. Bên
dưới cấp quận là cấp huyện. Riêng Phiên Ngung nằm dưới quận Nam Hải nhưng
là kinh đô của nước Nam Việt.
Thời Hán
Nhà Hán đánh
chiếm Nam Việt năm 111 TCN, chia lãnh thổ Nam Việt làm sáu quận là Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông), Thương Ngô, Uất Lâm (Quảng Tây), Giao Chỉ, Cửu Chân (miền Bắc Việt Nam) và lập thêm 3 quận mới
là Chu Nhai, Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam), Nhật Nam.
Riêng đối với quận Nhật Nam, khi Lộ Bác Đức đánh
bại nhà Triệu, lãnh
thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng
Bình tới Bình Định). Vùng
đất này được nhập vào lãnh thổ chung với miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày
nay lần đầu tiên sau khi các quan cai trị Giao Chỉ tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn trong
thời thuộc Hán và hình thành quận Nhật Nam.
Năm 106 TCN, Hán Vũ Đế đặt cử Thạch Đái làm thái thú 7 quận ở lục địa, 2 quận ở đảo
(tức đảo Hải Nam), trụ sở đặt tại Long Uyên, quận Giao Chỉ là quận lớn và quan trọng nhất.
Hán thư ghi
nhận quận Nam Hải gồm có
6 huyện: Phiên Ngung, Trung Túc, Bác La, Long
Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương. Quận trị Nam Hải đặt tại huyện Phiên Ngung. Quận Nam Hải thời
Hán có 19.613 hộ - 94.253 người.
Quận Uất Lâm gồm có 12 huyện: Bố Sơn, An Quảng, Hà Lâm, Quảng Đô,
Trung Lưu, Quế Lâm, Đàm Trung, Lâm Trần, Định Chu, Lĩnh Phương, Tăng Thực, Ung
Kê. Quận trị Uất Lâm đặt tại huyện Bố Sơn. Quận Uất Lâm thời Hán có 12.415 hộ - 71.162 người.
Quận Thương Ngô gồm có 10 huyện: Quảng Tín, Tạ Mộc, Cao Yếu, Phong Dương, Lâm Hạ,
Đoan Khê, Phùng Thừa, Phú Xuyên, Lệ Phổ, Mãnh Lăng. Quận trị Thương Ngô đặt tại
huyện Quảng Tín. Quận Thương Ngô thời Hán có 24.379 hộ - 146.160 người.
Quận Hợp Phố thời Tây Hán gồm có 5 huyện: Từ Văn, Cao
Lương, Hợp Phố, Lâm Doãn, Chu Lô với 15.398 hộ, 78.980 người. Thời Đông Hán gồm
5 huyện: Hợp Phố, Từ Văn, Cao
Lương, Lâm Nguyên, Chu Nhai với 23.121 hộ, 86.617 người. Quận trị Hợp Phố đặt
tại huyện Từ Văn.
Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Tử, Tây Vu, Long Uyên, Chu Diên. Theo Hán thư, quận Giao Chỉ thời Hán có 92.379 hộ - 746.237 người.
Về trị sở của quận Giao Chỉ, các
sách sử cũ của Trung Quốc ghi không thống nhất. Hán thư ghi huyện Liên Lâu đứng đầu, về nguyên tắc đó là quận trị.
Sách Giao châu ngoại vực ký cũng chép tương tự. Sách Thủy kinh chú lại xác định quận trị Giao Chỉ là huyện Mê Linh.
Quận Cửu Chân gồm có 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết (hay Vô Biên), Vô Biên. Quận
trị Cửu Chân đặt tại huyện Tư Phố, thời Vương Mãng đổi gọi Tư Phố là Hoan Thành. Quận Cửu Chân thời Hán có 35.743 hộ - 166.013 người.
Như vậy tổng số hộ tại 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân là 128.122 với 912.250 người. So với thời
Triệu, dân số tăng gấp khoảng 2,3 lần.
Còn quận Nhật Nam do nhà Hán mới đặt sau khi đánh chiếm Nam Việt, gồm
có 5 huyện: Chu Ngô, Tây Quyển, Lô Dung, Ty Ảnh và Tượng Lâm. Quận trị của Nhật Nam tại Tây Quyển. Thời nhà Tân, Vương Mãng đổi gọi
là Nhật
Nam đình. Nhật Nam thời thuộc Hán có 15.460 hộ và 69.485 người.
Kinh
tế
Nông nghiệp
Cơ sở kinh tế thời kỳ này là nông nghiệp với
nông cụ đá (rìu, cuốc đá), gỗ (mai, vồ...), nhiều công cụ đồng thau
(lưỡi cuốc, cày, xẻng, rìu,
hái...) và một số nông cụ sắt (có rìu sắt lưỡi xéo phỏng chế rìu đồng Đông Sơn)..
Lúa nước vẫn là
cây trồng chủ đạo. Bên cạnh đó, có nghề trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, đay, gai để có
cái mặc và có nhiều hoa quả như nhãn, vải, quýt, chuối.... Trong
chăn nuôi, người Việt có 5 giống gia súc là trâu, lợn, gà, dê, chó.
Thủ công nghiệp
Nền sản xuất thủ công nghiệp Giao Chỉ tiếp tục có những bước phát triển, trên cơ
sở thủ công nghiệp truyền thống của Âu Lạc kết hợp với việc tiếp thu những tinh hoa
của dân Nam Việt.
Đồ đồng Đông Sơn vẫn được sản xuất bên cạnh đồ đồng vùng Lưỡng Quảng (đỉnh,
biển hồ, gươm, qua, gương đồng...). Các sản phẩm gốm gồm gốm cổ truyền còn có
những sản phẩm chịu ảnh hưởng của phong cách Nam Việt (như gốm văn in hình học, bình 4-5 thân
dính liền nhau) và Hán (đỉnh, bình, vò...).
Thương mại
Từ khi nhà Hán chinh phục Nam Việt, người
Việt tham gia hoạt động thương mại nhiều
hơn so với trước, do tác động của các thương nhân người Hán. Điểm xuất phát của
các thương nhân người Hán từ phương Bắc, khi đi và về đều qua Nhật Nam mua bán thổ sản sau khi vòng qua trao đổi
hàng ở các quốc gia ngoài biển.
Nhiều lái buôn người Hán đến buôn bán và trở nên giàu có. Sản
vật địa phương buôn bán trao đổi bao gồm vải cát bá, đồi mồi, ngọc, voi, tê giác, vàng bạc, hoa
quả....
Việc buôn bán ở phương Đông thời Tây Hán đã phát triển. Do có vị trí thuận lợi và
phong phú sản phẩm nhiệt đới, Giao Chỉ trở thành một trạm quan trọng về giao thông biển với các nước phía nam ngoài biển. Hán thư ghi lại tên một số quốc gia có thông thường
thời kỳ đó, được xác định ở Nam Á và Đông Nam Á như
Hoàng Chi, Đô Nguyên, Âp Lô Một, Sâm Ly, Phù Cam Đô Lô, Bì Tông....
Văn
hóa và xã hội
Đến thời Bắc thuộc lần 1 là thời sơ kỳ đồ sắt Việt Nam, vẫn
tồn tại cơ cấu của nền văn minh Đông Sơn với mô
hình văn hóa nông nghiệp lúa nước cổ truyền. Người Việt đã chịu
ảnh hưởng lối sống, văn minh – văn hóa Hán được truyền bá theo 2 cách:
Sự tồn tại của văn hóa Đông Sơn được
các sử gia hiện đại đánh giá là sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt trước sự
đồng hóa của phương Bắc. Có sự
tồn tại song song của hai nền văn hóa được các nhà nghiên cứu xác nhận:
·
Trong cư trú: kiểu Đông Sơn với nhà sàn và kiểu Hán với thành
quách mô hình nhà bằng đất, mô hình giếng nước, bếp lò, chuồng trại.
·
Trong mộ táng: kiểu Đông Sơn với mộ táng hình thuyền và đồ tùy
táng kiểu Đông Sơn; kiểu Hán với mộ đất, quách gỗ và hiện vật tùy táng kiểu
Trung Quốc
·
Trong sinh hoạt: vừa có đồ gốm kiểu Đường Cồ, gốm Đông Sơn, rìu lưỡi xéo, trống đồng của người
Việt truyền thống bên cạnh bình, đỉnh miệng vuông, đao sắt, kiếm, gương đồng, móc
đai lưng.
Đầu thế kỷ 1, Nhâm Diên được Hán Quang Vũ Đế cử sang
làm thái thú quận Cửu Chân đã áp dụng lối sống Hán cải biến phong hóa
người Việt từ năm 29. Những việc cưới xin tới trang phục, giáo dục nhất thiết
phải theo lễ nghĩa Trung Quốc.
Các sử gia hiện đại cho rằng: sự pha trộn văn hóa, đời sống giữa
Hán và Việt dẫn tới sự hỗn dung văn hóa cưỡng bức, theo đó quá trình năng động
trên cơ tầng Việt đã vận hành theo cơ chế Hán. Đời sống văn hóa – xã hội Việt
chuyển từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô hình mới: Hán - Việt.
Sự
phản kháng của người Việt
Thời Bắc thuộc lần 1, trong vòng hơn 200 năm không ghi nhận một
cuộc nổi dậy chống đối đáng kể nào của người Việt. Chỉ có những việc chống đối quy mô tương
đối nhỏ, giết quan lại nhà Hán, dù
trong nhiều năm đã khiến nhà Hán phải điều động quân đội từ Kinh Sở (Hoa Nam) xuống
trấn áp nhưng không đủ mạnh để đuổi người Hán.
Năm 40, do sự tàn bạo của thái thú Tô Định (trấn trị từ năm 34), hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị đã nổi dậy chống sự cai trị của nhà Hán. Tô
Định bỏ chạy về Trung Quốc, Hai Bà Trưng xưng vương, xác lập quyền tự chủ của
người Việt. Thời Bắc thuộc lần 1 chấm dứt.
https://s20.postimg.org/seccx8o7h/Saigon_national_heroines_of_Viet_Nam.jpg
Các
quan đô hộ
Sử sách ghi lại các quan đô hộ đã sang Việt Nam trong thời kỳ
này, gồm một danh sách không đầy đủ, như sau:
·
Thạch Đái (111 - 86 TCN)
·
Chu Chương (86 - 75 TCN)
·
Ngụy Lãng
·
Ích Cư Xương (? - 54 TCN)
Xem
thêm
Tham
khảo
·
Phan
Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương
Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà xuất
bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
·
Viện Sử học (1988), Biên
niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam
·
Đào Duy Anh (2005), Đất
nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
·
Đào Duy Anh (2005), Lịch
sử cổ đại Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
No comments:
Post a Comment