Monday, November 19, 2018

ÐỊA LÝ BIỂN ÐÔNG VỚI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA (2)
(Những hình của bài không có ở đường dẫn. Tôi tìm trên mạng một số hình tiêu biểu thêm vào bài)

Vũ-Hữu-San
(tiếp theo)
4.7 - Nước, Gió và nạn Dầu loang.
Khi dàn khoan hoạt-động, các tàu chuyên chở dầu đi lại nhiều hơn và những ống dẫn dầu khí vào bờ khởi-sự; đây cũng là lúc người ta nghĩ đến những tai-nạn dầu loang và sự hiểu-biết về hải-lưu càng cần-thiết hơn. Các kế-hoạch phòng-tai bao gồm nhiều giả-thuyết kềm các biện-pháp ứng-phọ Nước trôi ra sao cùng gió thổi thế nào cần được tính-toán sđn sàng.
Hình 30 - Các giả-thuyết dầu loang ngoài khơi Biển Ðông trong hai mùa gió Ðông-Bắc và Tây-Nam.
 
Các phỏng-định sau đây đặt ra với giả-thuyết vài triệu gallons dầu thô, vì tai-nạn hay lầm-lỗi kỹ-thuật lúc khai-thác hay chuyên-chở, bị thất-thoát ra ngoài biển.

Chừng 24% số dầu đó sẽ bay hơi hay tan-biến sau 2 ngày, 42% sau 5 ngày, 45% sau 8 ngày. Bách-phân tiêu-tán này đạt đến tối-đa là 48% qua 14 ngày. Sau đó thời-tiết không còn ảnh-hưởng bao nhiêu và số dầu còn lại sẽ nằm vật vờ trôi nổi trên mặt biển. Phải qua rất nhiều thời-gian để dầu loang tự nó phân-hóa qua những phản-ứng thoái-hóa sinh-học (Biological Degradation), oxide hóa quang-năng (photo-oxidation) mà từ từ tan-biến. Khi dầu thoát ra, vì nhă nên nổi và nước gió làm dầu trôi đi trên mặt biển.

Phần nặng hay chất cặn bã của dầu thường không độc-hại bằng phần lỏng của nọ Chim chóc, cua cá, cây cốị tiếp-xúc với dầu hay nằm trong lớp dầu bao-phủ sẽ bị chết hại rất nhiềụ Nếu không được làm sạch sẽ đúng cách, tình-trạng môi-sinh trong vùng bị dầu loang chỉ trở lại bình-thường sau nhiều năm hay nhiều chục năm.

Chúng ta hãy xem vài giả-thuyết dầu loang dọc duyên-hải Việt-Nam theo tài-liệu của sách Atlas for Marine Policy in Southeast Asia(University of California Press, 1983):
  • Dầu loang ngoài khơi Vũng-Tàu (9o 40' N, 108o E.) Nếu tai-nạn dầu loang xảy ra vào ngày 1 tháng 7 khi mùa gió Tây-Nam đang thổi mạnh, dầu loang sẽ trôi theo hướng Ðông-Bắc một khoảng 600km (372hl) sau 29 ngày. Chỉ trong vòng 14 ngày, dầu loang sẽ tràn tới vùng Cam-Ranh.

    Nếu tai-nạn trên xảy ra vào ngày 1 tháng 12, trong mùa gió Ðông-Bắc; dầu loang sẽ trôi theo hướng Tây-Nam một khoảng 400km (248hl) sau thời-gian 14 - 17 ngày.
     
  • Dầu loang ngoài khơi Tây-Nam Hải-Nam (23oN, 109o E.) Bờ biển Hải-Nam sẽ bị ô-nhiỨm nếu dầu thất-thoát trong mùa gió Tây-Nam vào những tháng 5, 6, 7 và 8.

    Nếu tai-nạn trên xảy ra vào lúc giao mùa hay giữa mùa gió Ðông-Bắc, dầu loang sẽ trôi về phía bờ biển Việt-Nam: tháng 8, vào Bắc-phần và các tháng 9, 10, 11, 12, 1, 2, 3 vào vùng Bắc Trung-phần.
Hình 31 - Nếu dầu loang từ Hoàng-Sa hay ngoài khơi Hải-Nam, bờ biển Việt-Nam có cơ nguy bị ô-nhiỨm nhiều hơn phía Trung-Hoa.
 
Trong tương-lai nếu Trung-Cộng khởi sự đào dầu tại Hoàng-Sa, cơ-nguy bờ biển Trung-phần Việt-Nam bị nạn dầu loang tràn ngập rất trầm-trọng, nhất là về mùa gió Ðông-Bắc. Hải-lưu vùng này mạnh, đôi khi vượt 30hl một ngàỵ Dầu loang có thể tràn đến khu Cù-Lao Ré, Quảng-Ngãi trong vòng 10 ngày và đến Quy-Nhơn chừng 2 tuần-lễ.

5 - THIÊN-TAI TRÊN BIỂN ÐÔNG.
Thiên-tai Biển Ðông xếp thành nhiều loại:
 
5. 1 - Bão-tố
Bão-tố có mùa. Bão Biển Ðông là bão nhiệt-đới, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Gió mạnh đến 90 gút. Bão giảm đi từ tháng 9 nhưng cũng vẫn còn đến tháng 1. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Ðông-Bắc, bão làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngàỵ

Người Pháp gọi tên đảo Trường-Sa là Ðảo Bão-Tố (Ile de la Tempête), nhưng biển Trường-Sa cũng như toàn thể Biển Ðông không phải là nơi phát-sinh những trận bão lớn vùng nhiệt-đớị Những trận Ðại-phong hay Typhoon thường khởi-sự từ phía Ðông của Phi-luật-Tân, di-chuyển theo hướng Tây-Bắc về phía Bắc Việt-Nam, Hồng-Kông, Ðài-Loan Nhật-Bản. Không tới 1% giông bão phát sinh từ Biển Ðông tiến về Hoa-Nam và cũng không tới 1% giông bão phát-sinh ngoài khơi Brunei thổi về Vịnh Thái-Lan. Có tới chừng 1 phần 3 các trận đại-phong đi từ Thái-bình-Dương thổi về, qua Trường-Sa và Hoàng-Sa, tiến vào bờ biển Trung-Việt và vịnh Bắc-phần.
Hình 32 - Bão và các thiên-tai động đất, sóng thần vùng Biển Ðông.
 
Sau khi thành-lập, bão thường di-chuyển hướng Tây, nhưng rồi chuyển lên hướng Ðông-Bắc, nên Nam-phần không mấy khi bị bão lớn tàn-phá.

Khi bão phát xuất từ đảo Lữ Tống đi ngang Hoàng-Sa thì binh-sĩ đóng trên đảo thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp xuống nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao bay nhanh như bó lông (cirrus panachés.) Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp mây rất mỏng (cirro status), mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây thấp có hình vẩy cá (cirro cumulus.) Rồi đến một lớp mây đen, dày cao lối 3,000m (altostatus), tất cả trở nên đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống (100 mét hay 50), mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, bão đã tới ...

Cường-độ gió bão có thể lối 50 gút đến 90 gút.

Khi sấm sét đã xuất hiện thì có thể coi như cơn bão đã qua.
Hình 33 - Số lượng trung-bình các trận bão xảy ra trong những tháng của một năm.
 
Hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa bao gồm các đảo nhỏ bé trơ trụi, không phải là chỗ tránh bão lý-tưởng. Mỗi khi các đài khí-tượng thông-báo có bão (typhoon) là các tàu thuyền thường vội vã di-tản khỏi vùng. Trường-hợp không kịp, phải cố chạy về phía Nam, làm sao nằm được trong "bán-nguyệt an-toàn" của bão. Trong thế-chiến II, Hạm-đội Hoa-Kỳ một lần đã bị thiệt-hại nặng vì bão như vậy ở ngoài biển Phi-luật-Tân chỉ vì phải tiếp-tục hành-quân, không kịp lẩn trốn.

Hai lần Trung-Cộng hành-quân lớn, chiếm trọn Hoàng-Sa (19 tháng 1 năm 1974) và nuốt gọn 7 đảo Trường-Sa (14 tháng 3 năm 1988), chúng đều khởi-sự ồ-ạt chuyển quân xuống Biển Ðông trong mùa biển không bão tố.

Qua các tài-liệu lịch-sử, người ta đọc được nhiều lần thiên-tai khủng-khiếp gây thiệt hại sinh-mạng và tài-sản cho nước tạ Vì người dân đói khổ nên quốc-gia loạn lạc. Tai-nạn ngoài Biển Ðông mang đến chết chóc, mất tích, tản-lạc cho ngư-phủ như:
  • Vào đầu thế-kỷ 18, bão thổi thuyền bề của đội Hoàng-Sa ra biển sang Hải-Nam. Hai nhân-viên được người Tàu cứu và được trả về sau đó.
     
  • Vào thời Nam-Bắc phân-tranh, khi hai hạm-đội chuẩn-bị tác-chiến thì bão thổi tới. Chiến-thuyền đôi bên rời nhau để chạy trốn nhưng không kịp. Một số bị chìm, một số bị thổi ra biển. Có chiếc trôi ra Hoàng-Sa, có chiếc giạt tới Hải-Nam.
Thiên-tai về bão-tố đẩy thuyền ra Hoàng-Sa cũng là một yếu-tố để chứng-minh dân địa-phương như người Việt chúng ta đã đến Hoàng-Sa Trường-Sa, do vô-tình hay cố-ý từ nhiều ngàn năm xưa. Người Việt cũng như các người Ðông-Nam-Á khác đã khám-phá các đảo ngoài Biển Ðông ngay từ khi phát-minh ghe thuyền, không chờ đợi đến khi người Trung-Hoa hàng ngàn vạn dặm xa-xăm đến đây để ghi công hão!
 
5.2 - Những hiện-tượng thiên-nhiên khác.
Ngoài bão-táp là thiên-tai khủng-khiếp nhất, các vùng đất Ðông-Nam-Á nằm ngoài đại-dương còn trải qua một số các thiên-tai khác như, động đất, núi lửa, đất trùi, sóng thần, lụt lội v.v...
 
5.2.1 - Sóng Thần.
Ngoài khơi Việt-Nam, tuy có một số chấn-động địa-chất ngầm dưới biển xảy ra ngay trong thế-kỷ thứ XX nhưng đã không gây nên một thiệt-hại nào. Vùng Hoàng-Sa và Cù-lao Thu ghi-nhận ít nhất 6 lần địa-chấn. May mắn không có cơn sóng thần nào tàn-phá duyên-hải nước tạ

Sóng Thần (Tsunamis) gây nên bởi những trận động đất dưới lòng biển sâụ Sóng thần không do gió phát-sinh và vì chúng có độ dài sóng rất lớn nên mắt thường của chúng ta không thể nhận ra được khi sóng thần còn ở ngoài biển rộng. Chấn-động của cơn địa-chấn truyền đi trong lòng biển với vận-tốc nhanh tới 400 - 500 gút. Trên mặt biển, đó là những làn sóng chỉ cao đến vài ba bộ Anh nhưng chiều dài tới trên 100 hải-lý. Tuy thủy-thủ hải-hành trong khu-vực động đất không nhìn thấy sóng nhưng thường cảm thấy tàu thuyền của họ bị đập mạnh một hay hai cái theo chiều thẳng đứng giống như bị mắc cạn rồi thôi.

Khi tiến đến gần bờ, vì vận-tốc sóng vẫn cao trong khi đáy biển trở thành nông cạn, sóng bất thần bị chận lại nên trong khoảnh-khắc, biên-độ vụt gia-tăng ghê gớm. Những đợt sóng khi đó có thể cao tới 50 - 100 feet, di-chuyển rất nhanh, tàn-phá tất cả những gì trên đường đi của chúng, vào sâu trong nội-địa nhiều cây-số.

Hai nước Phi-luật-Tân và Nam-Dương chịu đựng liên-tiếp nhiều tai-ương về động đất. Sóng thần đã cuốn trôi nhiều làng mạc, quét sạch nhà cửa, ghe thuyền, con người và súc-vật ra biển. Các đảo phía cực đông của Trường-Sa, nằm gần với rãnh sâu Palawan có thể chịu những tai-họa thảm-khốc nếu sóng thần xảy ra.

Bờ biển Việt-Nam chạy lài lài ra khơi, nước ta may mắn không tiếp giáp với một bất cứ một rãnh sâu nào của đại-dương (trench) nên thoát tai-nạn những cơn sóng thần.

Việt-Nam và Biển Ðông còn may mắn hơn nữa vì nằm ngoài Vòng Lửa Thái-bình-Dương (Cercle de Feu) là khu-vực không từng bị nạn động đất nào tàn-phá trầm trọng. Nói về sự bền vững của nền lục-địa xứ ta, Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ viết rằng "Việt Nam nằm trên khối Indosinias của vỏ Trái đất bền vững từ mấy trăm triệu năm nay" 
(Cây cỏ Việt-Nam, 1993.)
Hình 34 - Hình-ảnh cơn sóng thần.

5.2.2 - Vòi Rồng.
Người đi biển và dân duyên hải thường thấy các cột nước bị cuốn hút lên trời mà họ gọi là rồng hút nước.

Rồng Hút Nước hay Vòi Rồng là một hiện-tượng sáo trộn của không-khí ngoài biển, chẳng hạn như sự đụng-chạm giữa hàn-diện và nhiệt-diện khi hai luồng không-khí nóng lạnh gặp nhau.

Tương-tự như bão nhưng Vòi Rồng xảy ra trong một phạm-vi nhỏ hăp hơn với những đặc-điểm hơi khác-biệt như sau:
  • Vòi Rồng là một cơn lốc có hình-dáng như chiếc phễu, cột nước từ mặt biển bị gió cuốn xoáy cao dần lên bầu trời đầy mây đen cumulus.
     
  • Nước của Vòi Rồng có thể là nước mặn bị hút từ biển lên hay có thể là nước ngọt do hơi nước đọng lại thành mưa.
     
  • Gió thổi của giông bão ở Bắc-bán-cầu xoáy theo chiều kim đồng-hồ và nghịch lại ở Nam-bán cầu. Chiều gió trong hiện-tượng Vòi Rồng không theo quy-luật đó, gió có thể thổi theo cùng chiều hay ngược chiều với kim đồng-hồ tùy theo với chiều gió lúc thành-lập.
     
  • Vòi Rồng thường có đường kính từ vài bộ đến nhiều trăm bộ Anh, chiều cao từ vài trăm đến nhiều trăm bộ Anh. Vòi Rồng ít khi kéo dài tới hơn một tiếng đồng-hồ.
     
  • Sức mạnh của Vòi Rồng thay đổi, nhă thì như một con trốt cuốn bụi, mạnh thì có thể đánh chìm thuyền nhỏ, làm hư-hại tàu thuyền hạng trung. Dù mạnh nhất, Vòi Rồng cũng không ảnh-hưởng mấy cho các tàu viễn-duyên, cho dù tàu có đi lọt ngay vào trung-tâm của nọ
     
  • Thủy-thủ các tàu thuyền đi ngang Vòi Rồng cho biết có khi thấy sâu bọ hay tôm cá rơi rớt trong mưa.
Hình 35 - Hình-ảnh Rồng hút nước.

6 - BIỂN ÐÔNG, NHỮNG SỰ KỲ-DIỆU THIÊN-NHIÊN.
Ngoài những hiện-tượng thiên-nhiên xảy ra như đã nói ở trên, Biển Ðông còn ghi-nhận một số sự kiện đáng gọi là kỳ-diệu.
 
6.1 - Sự kỳ-diệu về từ-tính.
Người đi biển phải thường-trực lo lắng nhất trong việc định-hướng và xác-định vị-trí con tàu. Trước khi la-bàn điện trở thành dụng-cụ căn-bản của chiến-hạm và thương-thuyền, kim chỉ nam và la-bàn từ đã là những người bạn trung-thành nhất của các nhà hàng-hải. Ngày nay trên những du-thuyền chạy buồm người ta vẫn cho thiết-trí la-bàn từ và trên những tàu lớn, một chiếc la-bàn từ, sau khi được điều-chỉnh cẩn-thận, luôn luôn là dụng-cụ được thuyền-trưởng tin cậy nhất, dùng để kiểm-soát những "phản-trắc bất-thường" của la-bàn điện.
Hình 36 - Hải-đồ ghi-nhận độ từ-sai không đáng kể trong vùng Hoàng-Sa.
 
Khi người Việt bắt đầu dùng la-bàn trong khoa địa-lý và hải-hành, tiền-nhân chúng ta hẳn đã rất ngạc-nhiên là hướng của kim chỉ nam lại hoàn-toàn phù-hợp với hướng Bắc-Nam địa-dư.

Thiên-nhiên đã tạo nên một vài vùng biển đặc-biệt trên thế-giới mà ở đó không có độ lệch từ-tính như Biển Ả-Rập và Biển Ðông. Một trong nhiều nguyên-nhân tạo nên nền văn-minh hàng-hải ở Ðông-Nam-Á có lẽ cũng vì sự nhiệm-mầu đọ Trong lúc la-bàn từ sai trệch 30, 40 độ tại nhiều nơi khác trên thế-giới, kim định-hướng của nó lại chỉ ngay đúng phương Bắc địa-dư khi con tàu tiến vào vùng Biển Ðông.

Theo những tài-liệu về khoa thế-giới địa-từ, ngoài độ từ sai bằng Zéro, Biển Ðông còn có những đặc-điểm từ-tính khác như sau:
  • Biển Ðông nằm trong vùng mà độ sai lệch từ không thay đổi (hay thay đổi rất nhọ) Hãy tưởng tượng đến sự rắc rối gây cho các nhà hàng-hải khi kim la-bàn từ sai-lệch tới 30, 40 độ mà lại còn biến-thiên thường-niên hàng chục phút nữa: họ sẽ phải cộng trừ, thêm hay bớt (Ðông hay Tây) vào những trị-số được cho biết trước đây trong tài-liệu.
     
  • Biển Ðông lại đặc-biệt hơn vì nằm trong vùng "xích-đạo từ". Tương-tự như trong vùng nhiệt-đới địa-dư, các la-bàn điện hoạt-động trong điều-kiện tốt nhất; các dụng-cụ trắc-định từ-tính cũng không cần điều-chỉnh nhiều những khi hoạt-động tại nơi có "vĩ-độ từ" thấp hay gần đường xích-đạo tự Trường-hợp tàu thuyền chạy lên Bắc-cực hay đi xuống Nam-cực, la-bàn điện dần dần trở nên vô-hiệu và thành vô-dụng tại hai cực địa-dự La-bàn từ cũng vậy, sẽ trở nên vô-hiệu ở hai cực địa-từ.
Từ khi vòng từ-trường Van Allen bao quanh trái đất được khám-phá, khoa Ðịa-từ-trường tiếp-tục được nghiên-cứu học hỏi. Từ-trường ảnh-hưởng rất nhiều tới sinh-hoạt mọi loài và cả đến sinh-mạng trên trái đất. Một ngày nào đó, có thể trong vài chục ngàn năm sắp tới, hai cực Nam Bắc địa-từ sẽ đổi ngược lại thành Bắc-Nam. Biển Ðông với vị-trí đặc-biệt cũng là nơi cần-thiết phải có sự quan-trắc các hiện-tượng địa-từ-trường.
Hình 37 - Biển Ðông không có độ sai từ và vị-trí vùng Cà-Mâu Trường-Sa nằm trên xích-đạo từ.
 
Người Tàu nhận rằng họ sáng-chế Kim Chỉ-Nam nhưng không hề biết những đặc-tính về từ-trường của Biển Ðông. Sách cổ Trung-Hoa ghi rằng vùng đất mă đẽ của từ-thạch ở Miền Nam, họ kính-ngưỡng cầu-khẩn thần núi Linh-Sơn vùng Varella, họ sợ Hoàng-Sa hút sắt làm tàu thuyền của họ mắc cạn ở Biển Ðông.
 
6.2- Sự kỳ-diệu về "địa-hình"
Mặt biển bao phủ trái đất tưởng như bằng-phẳng và đồng đều cao-độ nhưng sự thật không phải như vậy.

Ðịa-cầu không đúng là một trái cầu tròn đều mà có dạng gần với khối Ellipsoid. Ðịa cầu cũng hơi phình ra ở phía trên xích đạo, có một vẽ nào đó giống như trái lệ Mặt trái đất lại có chỗ lục-địa, có chỗ bao bởi đại-dương, nơi cao như núi Everest (gần 9km) nơi sâu như Marianas Trench (chừng 11km) nên dẫn-lực-trường (gravitational field) không đều đặn, đường giây quả rọi thường không thẳng góc với mặt biển.
Hình 38 - Hình vẽ giải-thích vài sự sai lệch trong hai phương-thức địa-hình Geoid và Ellipsoid đối với bề cao mặt biển.
 
Trong những công-tác đo đạc địa-hình, tính toán vị-trí thiên-văn và mới đây nhất khi các vệ-tinh NAVSAT (Navigation Satellite System)GPS(Global Positioning System) bắt đầu hoạt-động, người ta thấy những sự sai lệch như vậy khá lớn. Mặt "trái cầu" mới dùng làm tiêu-chuẩn, sau khi điều-chỉnh dẫn-lực, được gọi là Geoid.

Phương-pháp hải-hành điện-tử vệ-tinh ngày nay rất tiến-bô Trong vài năm nay, những tấm bản-đồ thế-giới ghi các sai-biệt 
(Contour Map of Geoidal Height hay Contour Plot of Mean Sea Level Deviations) cần dùng để điều-chỉnh độ cao mặt biển và những tài-liệu chỉ-dẫn cần-thiết liên-hệ về hải-hành đã được trang-bị cho tất cả tàu thuyền đi biển.

Vùng Biển Ðông, và đặc-biệt khu-vực gần duyên-hải Việt-Nam không có độ sai này trong khi vùng biển phía Nam của Ấn-Ðộ, các nhà hàng-hải phải trừ đi 99m và nếu tàu đi vào vùng Ðông-Bắc của New Guinea, họ lại phải cộng thêm 79m mới đúng.
Hình 39 - Bản-đồ ghi cao-độ mặt biển trung-bình. Chi-tiết vùng Biển Ðông (không có độ sai) được phóng lớn.
 
Nói một cách khác đi, mặt nước Biển Ðông là mặt biển có độ cao tiêu-chuẩn trong hệ-thống Geoid, trong khi mặt nước biển Ấn-Ðộ cao quá 99m và biển New Guinea lại thấp tới 79m. Khi làm toán về cao-độ trên mặt biển, người ta phải lần lượt trừ đi 99m và cộng thêm 79m tùy trường-hợp.

6.3 - Biển Ðông, bà mẹ thiên-nhiên chống ô-nhiễm.
Bước sang thế-kỷ 21, nạn ô-nhiễm sẽ trở nên rất nguy-hại cho môi-trường sinh-sống của thế-giới. Các nơi đông dân-cư, nhiều kỹ-nghệ, lắm cơ-giới mà lại nằm trong những vùng thung-lũng như Mexico City hay Los Angeles chắc chắn bị ô-nhiễm nặng nề nhất. Về địa-thế, Việt-Nam nằm dưới chân núi cao, đất hướng ra phía biển nên may mắn hơn rất nhiều quốc-gia khác. Biển Ðông giúp dân ta có nơi thông-thoáng.

Trong tương-lai khi các nước duyên-hải tiến lên thời-đại kỹ-nghệ, Biển Ðông cũng sẽ bị ảnh-hưởng ô-nhiễm, nước sẽ không còn trong sạch, không-khí lẫn hơi độc và bầu trời rồi cũng u-ám. Nếu dân Ðông-Nam-Á không bảo nhau cùng thi-hành chung những biện-pháp ngăn-ngừa đối-phó, thì tình-trạng sinh sống sẽ rất tồi-tệ.

Tuy vậy khi nhìn tổng-quát, người ta thấy Biển Ðông sẽ hoạt-động như một cái máy chống ô-nhiễm thần-diệu giúp con người sống mạnh khoẽ hơn. Xin xét một cách giản-dị trên hai môi-trường là nước và gió:

6.3.1 - Nước sạch sẽ.
Nhờ tiếp-giáp với hai khu-vực đại-đương rộng lớn xa các nơi kỹ-nghệ phát-triển tột cùng là Bắc-Mỹ và Âu-Châu, nước biển Thái-bình-Dương và Ấn-Ðộ-Dương vốn tinh-khiết sẽ giúp Biển Ðông rửa sạch ô-nhiễm. Các đại-hải-lưu trên hai đại-dương luân-chuyển quanh năm là máy lọc mẹ trợ giúp máy lọc con là Biển Ðông. Thiên-nhiên đặc-biệt là bà mẹ tốt, quét dọn sạch sẽ cái nhà Việt-Nam, làm xứ ta đẹp hơn các xứ khác trên phương-diện này.

Hình 40 - Nước Biển Ðông ô-nhiễm sẽ theo các hải-lưu của Thái-bình-Dương và Ấn-độ-Dương chảy đi nơi khác.
A 1943 map of the world's ocean currents.
  • Các hải-lưu Biển Ðông về mùa Ðông mang nước sạch từ Thái-bình-Dương chảy vào, đẩy một số nước ô-nhiễm qua Ấn-độ-Dương. Vận-tốc nguồn nước này rất mạnh, đặc-biệt làm cho nước biển khu-vực Trung-phần Việt-Nam rất sạch sẽ.
     
  • Vào mùa hè, khi dòng nước chảy ngược lại, nước sạch từ Ấn-Ðộ-Dương lại chảy vào đẩy một số nước cũ ra phía Nhật-Bản.

6.3.2 - Gió trong lành.
Khí-hậu vùng biển từ lâu đã được biết là tốt hơn khí hậu đất liền, không khí ngoài biển có tác-dụng rất tốt cho cơ-thể của sinh-vật.

Không-khí chuyển-động tạo thành giọ Sự di-chuyển của gió cũng có tác-dụng làm trong sạch không-khí tương-tự như hải-lưu làm trong sạch nước biển. Trên Biển Ðông, gió mùa Ðông-Bắc và Tây-Nam luân-phiên thổi qua thổi lại quanh năm, khối không-khí mới thay-thế khối không-khí cũ. Lâu lâu một trận giông bão, đại-phong xảy ra cuốn trôi hết mọi vẩn đục tác-hại còn sót lại trong không khí ra vùng bắc Thái-bình-Dương.
Hình 41 - Bản-đồ ghi nhận những đường di-chuyển tiêu-biểu của đại-phong. Không-khí ô-nhiễm của Biển Ðông sẽ thổi hết về Nhật-Bản và Bắc-Mỹ.
 
Thường thường giông bão gây nhiều tai-ương khủng khiếp, nhưng giông bão cũng tiếp-cứu cho các lá phổi mọi loài sinh-vật Việt-Nam được hít thở tự-do hơn. Sau giông bão, khí trời lại trở nên trong trẽo như xưa!

Biển Ðông hiền-hòa, từ lâu đời trong quá-khứ và mãi mãi trong tương-lai, được chúng ta gọi là Biển Mă mà !

Xin lạm-bàn một chút nữa. Nếu tình-trạng trái đất suy-đồi quá, lượng ô-nhiễm tăng thêm quá nhiều, gió mùa và đại-phong đẩy không-khí dơ bẩn cho Nhật-Bản "lãnh" và sau cùng, Bắc-Mỹ sẽ "hốt" tất cả!

7 - CÁC ÐẢO VIỆT-NAM.
Các đoạn sau đây bàn về sự quan-trọng của các hải-đảo ngoài khơi của Việt-Nam.
 
7.1 - Sự Quan-trọng của Hải-đảo.
Trong khi tài nguyên trên đất liền dần dần sút giảm, dân số vẫn gia tăng nhanh chóng; loài người đang kéo nhau đổ xô ra khai-thác biển cả.

Trong Ðặc-san Sử Ðịa số 29 năm 1975, Giáo-sư Sơn Hồng Ðức đã viết: "Nếu thế-kỷ XIX là kỷ-nguyên của việc chiếm-cứ và khai-thác các lục-địa, thì hậu-bán thế-kỷ thứ XX là lúc mà tài-nguyên thiên-nhiên trên các đất nổi đã cạn nguồn. Các nhà địa-lý kinh-tế thế-giới bắt đầu chú-ý đến vùng "đất ngầm", nghĩa là thềm lục-địa hay đáy đại-dương. Nhất là sau hội-nghị Caracas về "Luật Bể" 1974 thì khuynh-hướng chung cho rằng quan-niệm lãnh-hải của thế-kỷ XIX nay đã lỗi thời".

Ông Sơn cũng nói đến tầm quan-trọng của hải-đảo như sau: "Cha Ông chúng ta, với lòng can-đảm vô-biên, chí mạo-hiểm vô-cùng đã để lại cho con cháu ngày nay một dãy giang-sơn gấm vóc gồm lãnh-thổ lục-địa và những quần-đảo trong Biển Ðông và vịnh Thái-Lan. Quan-niệm sai-lầm thường cho rằng đây chỉ là những bãi cát bão-táp không giá-trị sản xuất nên chúng ta đã "thiếu tích-cực" trong vấn đề định-cư hoặc chiếm-đóng."

Một tướng lãnh Hoa-Kỳ cho rằng Hoàng-Sa và Trường-Sa không quan-trọng gì với Mỹ. Năm 1970, trong một cuộc họp báo tại Guam lúc mãn nhiệm-kỳ làm Tư-lệnh các lực-lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, Ðô-đốc Zumwalt mà sau đó làm Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ đã cho rằng: "Người Mỹ đang thực-thi chiến-lược tiền-đồn trên biển, song song với việc phát-triển hạm-đội tàu nổi nhưng Trường-Sa và Hoàng-Sa không đáp-ứng nhu-cầu hành-quân trên biển bằng một hàng-không mẫu-hạm, nhất là về lưu-động-tính. Hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa chỉ là đài Radar cố-định, chi-phí hoạt-động rất tốn kém..."

Phân-tích lời Ðô-Ðốc Zumwalt chúng ta thấy các điểm sau đây:
  • Sự kiện "Hải-quân Hoa-Kỳ bá-chủ ngũ đại-dương" là điều hiển-nhiên. Quyền-lực trên biển xưa nay dựa vốn đặt căn-bản trên sức mạnh. Hoàng-Sa Trường-Sa quá nhỏ bé, thật không đáng kể với sự mênh mông của cả Thế-giới. Với sự hùng-mạnh của Hoa-Kỳ hiện tại, quốc-gia nào có làm chủ được những đảo nhỏ bé đó cũng không đủ sức cản trở hoạt-động trên biển của Hải-Quân Hoa-Kỳ.
     
  • Quan-điểm của Ông đưa ra trong tình-trạng Hoa-Kỳ đang theo đuổi chính-sách hòa-hoãn với Trung-Cộng. Từ hồi đó đến nay, Hải-quân Mỹ vẫn gia-tăng lưu-động-tính nhưng lại bớt hiện-diện tại Ðông-Nam-Á. Ðồng-ý với giới bình-luận-gia thời-cuộc thời đó, chúng tôi cũng nghĩ rằng chiếc đèn xanh đã bật để Trung-Cộng tiến tới việc xâm-chiếm Hoàng-Sa năm 1974.
     
  • Một khi hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa đó không quan-hệ gì với quyền-lợi Hoa-Kỳ thì ông Zumwalt muốn so sánh thế nào cũng được. Nếu vị-trí của ông là chổ của một con dân Việt-Nam đang đứng trước móng vuốt của một kẽ xâm-lăng, vừa tàn-độc vừa quỷ-quyệt lại ưa sắt máu như Trung-Cộng thì hẳn ông đã nói khác đi.
Tuy cũng là người gốc Âu Mỹ nhưng lời phát-biểu của ký-giả Robert Thompson trong tạp-chí Kinh-Tế Viễn-Ðông lại khác. Ông cho rằng chủ-quyền trên các đảo ngoài khơi Biển Ðông rất quan-trọng, nhưng muốn làm chủ thì phải có lực-lượng bảo-vệ mới được. Robert Thompson tỏ vẽ thông-cảm nỗi khó khăn của những nước nhược-tiểu như Việt-Nam chúng ta nhiều hơn là vị Tư-lệnh Hải-quân Hoa-Kỳ. Ông đã viết một câu chí-lý: "Căn-cứ vào quyền-lực trên biển của Ðô-Ðốc Mahan, thì Quốc-gia nào có Hải-Quân mạnh mẽ sẽ có quyền-lực trên biển và chủ-quyền trên hải-đảo. Nhưng hải-quân và không-quân là hai món xa-xỉ-phẩm, các nước nghềo muốn có nó chỉ khổ thêm mà thôi!"

Chỉ quốc-gia giàu sang mới có hải-quân hùng-mạnh. Chỉ với hải-quân hùng-mạnh quốc-gia mới có quyền-lực trên biển và chủ-quyền hải-đảo. Nước Việt-Nam chúng ta rõ rệt là đã nghèo từ lâu, mà nay vẫn còn cứ nghèo, chính-quyền phải làm thế nào cho nước mạnh dân giàu thì hiện-trạng bi-đát này mới thay đổi!

Lúc chiến-tranh đất nước ta bị chia cắt Bắc-Nam, người dân Việt ước muốn sự thống-nhất và mong đòi lại Hoàng-Sa. Ông Hoàng-xuân-Hãn viết rằng: "...Khi nước Việt-Nam còn chia đôi thì khó lòng điều-đình để Hoàng-Sa trả lại đất ta, tuy rằng nhiều chứng xưa nay trong ngoài bảo rằng đó là đất Việt" 
(Ðúng 30 năm trước, Sử Ðịa số 27, 28, 1974, trang 215.) Nay nước đã thống-nhất rồi, tình-trạng mất chủ-quyền ngoài biển xem ra lại còn đen tối hơn!

Chúng tôi sẽ trình-bày giá-trị kinh-tế của Hoàng-Sa/ Trường-Sa trong một đoạn dưới đây. Giá-trị đó vốn đã không nhỏ! Mà trên cả giá-trị kinh-tế, giá-trị chiến-lược còn đáng kể hơn nhiều; nó vô cùng quan-trọng. Thật không ngoa nếu có người cho rằng Hoàng-Sa/ Trường-Sa là yếu-tố sinh-tử, tồn-vong của nước Việt-Nam.

Sự an-nguy của sườn phía Ðông nước ta nằm trong việc kiểm-soát chủ-quyền trên các hải-đảo dọc Biển Ðông. Từ Hải-Nam, Trung-Hoa dỨ dàng kiểm-soát việc ra vào vịnh Bắc-Việt. Sau khi chiếm Hoàng-Sa, người Tàu đã mở rộng tầm kiểm-soát xuống một nửa duyên-hải nước tạ Nếu họ lại chiếm cả Trường-Sa thì Trung-Hoa có khả-năng khống-chế hầu hết vùng duyên-hải phía Ðông nước tạ Khi nào cả hải-phận và không-phận bị khóa chặt như vậy, tương-lai Việt-Nam rất mịt mờ.

Trong tất cả những nước đang tranh-chấp tại Biển Ðông, Việt-Nam là quốc-gia bị lọt vào thế bí, đường cùng nhất. Hai nước Trung-Hoa một trắng một đỏ, trong tư-thế những nước ở ngoài nhảy vào trắng trợn xâm-lăng không nói làm gì, các nước khác như Phi, Mã, Nam-Dương... nếu chiếm thêm được đảo thì lợi thêm rất nhiều, trường hợp cả Biển Ðông có bị Tàu nuốt trọn, họ cũng không thiệt nhiều lắm và hiển-nhiên không vì Hoàng-Sa Trường-Sa mà họ bị ngoại-nhân khống-chệ Ðịa-thế cho phép họ tiếp-tục mở được đường biển ra phía ngoài Thái-bình-Dương và Ấn-độ-Dương.

Ðến cùng kỳ lý, Việt-Nam bị thiệt-thòi nhất: mất ít đảo thiệt-hại ít, mất nhiều đảo thiệt-hại nhiều, mất tất cả Biển Ðông thì toàn-quốc bị khống-chế. Nguy-cơ hiểm-họa lớn như chưa từng xảy ra trong suốt dòng lịch-sử, số mệnh dân-tộc như chỉ mành cheo chuông, quốc-gia như đứng bên bờ vực thẳm!

Thời-gian rất cấp-bách. Suốt mấy ngàn năm qua, chúng ta thường chỉ phải lo gìn giữ biên-thùy mặt Bắc. Nay thì ngoài mặt Bắc, cả cái sườn rộng lớn của chúng ta về phía Ðông, với nhiều ngàn cây số duyên-hải đang bị đe dọa. Hai cái gọng kìm, một từ phương Bắc bóp xuống, một từ phương Ðông siết vào, hẳn nhiên tàn-bạo lắm!
Hình 42 - Viễn-ảnh mới đe dọa nước ta từ Biển Ðông: Trung-Cộng với Phi-cơ chiến-lược và Phi-đạn tầm xa có khả-năng tấn công tới Sài-Gòn, Hải-quân không-chiến và Tiềm-thủy-đĩnh nguyên-tử đe dọa suốt từ Mống-Cáy đến vịnh Phú-Quốc. Hải-Nam, Hoàng-Sa cùng Trường-Sa là căn-cứ xuất-phát và yểm-trợ các loại chiến-hạm.
 
Ta hãy làm một cuộc so sánh để ý-thức được tầm quan-trọng về việc phòng-thủ hải-biên: Cho dù bị phong-tỏa hết biên-giới lục-địa phía Bắc và phía Tây, không được trao đổi hàng-hóa với Ai-lao và với cả Khmer, quốc-gia ta vẫn không thể bị bóp nghăt về kinh-tế. Nhưng nếu bị phong-tỏa bờ biển thì chẳng những không còn ngoại-thương mà ngay cả chuyển-vận đường biển Bắc-Nam để điều-hòa nhu-yếu phẩm trong nước cũng hết... Vậy có khác chi trong "cơ-thể Việt-Nam, máu huyết lúc chảy, lúc không.

Thà rằng chúng ta sống tiết-kiệm để tăng-cường hải-quân với đầy đủ khả-năng hải-chiến và không-chiến ngoài khơi còn hơn chờ đợi đến một ngày nào đó, cả nước chịu chết ngạt hay chết đói một cách nhục nhã vì bị bao vây.

Không bao lâu nữa, Trung-Hoa sẽ đủ khả-năng thực-hiện cái gọng kìm như vậy. Ngay khi họ sở-hữu được các đội oanh-tạc-cơ chiến-lược, mua nổi hàng-không mẫu-hạm, trang-bị đầy-đủ một hạm-đội viễn-duyên; bàn tay xâm-lược của họ sẽ đủ dài và kẽ thù truyền-kiếp của chúng ta sẽ lừng lững trở lại, áp-đặt những cái ách nặng nề lên đầu lên cổ đồng-bào chúng ta.

7.2 - Tổng-quát về các đảo ven biển Việt-Nam.
Bờ biển Việt-Nam dài trên 5,000 km. Dọc bờ biển Việt-Nam có đến trên 2 ngàn 5 trăm đảo. Có những đảo nằm đơn độc nhưng cũng có nhiều đảo nằm chung với nhau trong các quần-đảo. Những điểm đáng nói về các đảo của nước ta được tóm gọn trong vài đoạn nhỏ như sau:
  • Ðảo lớn nhất là Phú-Quốc trong vịnh Thái-Lan rộng 568 km2, đảo lớn thứ nhì là Cát Bà trong vịnh Bắc-Việt rộng 277 km2. Các đảo nhỏ nhất chỉ như những hòn đá nằm giữa biển khơi.
     
  • Ðảo có núi cao nhất là Phú-Quốc với núi Chùa cao 603 m. Một số đảo chỉ nhô lên khi nước thủy-triều xuống và bị nước bao-phủ khi thủy-triều dâng lên caọ Có những bờ bãi nông cạn mấp mé mặt biển rất khó nhận biết và nguy-hiểm cho việc hải-hành.
     
  • Hòn Tro bỗng nổi lên rồi chợt biến mất.
    Năm 1923, tại phía nam vùng Cù-lao Thu hay đảo Phú-Quý (Phan-Rí) 22 hải-lý, đảo Hòn Tro và một hòn đảo thấp nhỏ hơn đột nhiên trôì lên khỏi mặt biển. Hòn Tro cao tới 30 thước tây, hòn kia chừng 3,4 tấc. Trong vòng vài ba tháng sau, cả hai biến mất. Sở dĩ người ta gọi tên Hòn Tro vì đảo được tạo-lập bởi tro bụi và dung-nham của một núi lửa ngầm phun lên. Sau đó đảo bị sóng gió soi mòn và dòng nước cuốn trôi không còn lại dấu tích.
Hình 43 - Dấu-tích Hòn Tro trên hải-đồ quốc-tế.
 
Trong các hải-đồ ngày nay, những người đi biển thường đọc được các lời kêu gọi cảnh-giác tương-tự như "cần thận-trọng khi hải-hành vì nhiều xáo-trộn địa-chấn" trong vùng. Tại hai vị-trí (10 độ 10 phút Bắc Vĩ-tuyến, 109 độ 00 Ðông Kinh-tuyến) và (10 độ 08 phút Bắc Vĩ-tuyến, 109 độ 01 Ðông Kinh-tuyến), hải-đồ số 3148 của Sở Thủy-đạo Hoa-Kỳ đã ghi chú hai câu: "núi lửa hoạt-động 97 ft- 1923" và "núi lửa hoạt-động 1 ft- 1923"
  • Quần-đảo Hạ-Long có tới 2156 hòn đảo to nhỏ đủ cỡ, nổi tiếng là một kỳ-quan thế-giới vì vẽ đăp thiên-nhiên. Diện-tích vùng biển chỉ vào khoảng 3,000 km2, tức nhỏ hăp hơn Trường-Sa và Hòang-Sa rất nhiều, nhưng đáng kể là chi chít rất nhiều đảo.
Hình 44 - Một hình vẽ cảnh vịnh Hạ-Long vào cuối thế-kỷ 19 với hạm-đội của Ðô-Ðốc Courbet đang bỏ neo.

Hạ Long et sa baie

 
Ha Long Bay, Vietnam.
Trên địa-cầu ít nơi nào mà địa-hình lại hiểm trở như vậỵ Các đảo Hạ-Long vì cấu-tạo bằng đá vôi, nên dễ bị nước gió xâm-thực, tạo nên những hình-thù kỳ-dị. Vùng biển này có nhiều vịnh nhỏ, nhiều vũng. Cao-độ của đảo và thâm-độ của biển đột-biến bất-thường, có nơi sườn núi dựng đứng, có nơi bãi cát phẳng phiu, hang động thâm sâu, ghềng đá lên xuống; đất đá nhuộm đủ mầu sắc của cây cỏ núi non biển trờị Mặt nước chỗ lặng như gương, chỗ sóng bạc đầu cồn nổi lên trắng xóa ...
  • Ðảo Việt-Nam cung-cấp nhiều sản-phẩm quý mà ít ai ngờ tới.
     
    • Yến, bào-ngư, vi-cá, hải-sâm là những thực-phẩm đắt giá nhất đến từ các đảo vùng Ðà-Nẵng, Nha-Trang, Bạch-long-Vĩ, Phú-quốc. Ngọc trai nổi tiếng của Ðảo Cô-tô. Gỗ quý mọc trên các đảo lớn khắp nơi vùng vịnh Bắc-Việt. Nước mắm, hồ tiêu, cá tôm, đồi mồi, sò huyết, ốc quý... muôn đời vẫn là những nguồn phẩm-vật không thể thiếu được trong đời sống dân Việt-Nam ta.
       
    • Ðầu thế-kỷ này chúng ta đã phát-hiện và bắt đầu khai-thác một kho tàng quý-giá của các hải-đảo là phốt-phát. Công việc đang mang đến lợi-nhuận to lớn thì bị ngưng trệ vì nạn xâm-lăng của Trung-Cộng.
       
    • Phần tài-nguyên quan-trọng hơn hết tuy vậy, lại nằm dưới đáy biển. Dù số lượng dầu mỏ và khí đốt chưa được đánh giá đầy đủ, nhưng một số cơ-quan quốc-tế về dầu lửa đã quả-quyết rằng một khi khai-thác đầy đủ, tiền bạc thu về được có thể tương-đương với một nửa tổng-số sản-lượng quốc-gia trong tình-trạng thu-nhập yếu kém như hiện nay.
Tài-nguyên phong-phú này gây thèm muốn cho các nước láng giềng. Kẽ đang nhòm ngó kỹ lưỡng nhất chắc chắn sẽ biến thành kể thù đáng sợ nhất: Trung-Cộng.

8 - BIỂN VÀ ÐẢO THEO LUẬT BIỂN QUỐC-TẾ.
Những đoạn sau đây bàn về ranh-giới hải-phận trên Biển Ðông theo với Luật Biển hiện-hành.
 
8.1 - Quan-niệm cũ mới về lãnh-hải.
Lý-lẽ "lãnh-hải rộng 3 hải-lý vì tầm súng đại-bác" của các thế-kỷ trước đây đang đi dần vào quên lãng. Thời ấy, ngoài vùng biển chủ-quyền nhỏ hăp đó trở ra khơi, quốc-gia duyên-hải khỏi lo lắng phần trách-nhiệm.

Vào cuối thế-kỷ XX có nhiều điều đổi thay khác lạ về việc hành-sử chủ-quyền trên biển. Vì nhu-cầu sinh-tồn đòi-hỏi nhiều quốc-gia duyên-hải đã ban-hành những luật mới về hải-phận theo ý riêng nước họ.

Nhận thấy khu-vực 3 hải-lý quả thực là vùng biển quá chật hăp, nhiều nước đã tuyên-cáo những biên-giới lãnh-hải rộng lớn khác thường. Có 12 quốc-gia nhận chủ-quyền lãnh-hải tới 200 hl ngoài khơi, tính đến ngày 1 tháng 2 năm 1992.
 
8.2 - Luật Biển LHQ, một ý-thức mới về trật-tự trên biển.
Ðặc-biệt vì ý-thức được sự cần-thiết phải có một nền trật-tự chung trên đại-dương cho nhân-loại, nhiều quốc-gia đã đồng-ý cùng nhau đưa ra một dự-án quản-trị biển cả toàn-cầụ Sau 15 năm cố gắng làm việc của nhiều cơ-quan quốc-tế, gặp nhiều khó khăn về thương-thuyết, dự-thảo Luật Biển của Liên-hiệp-Quốc sau ba lần đại-hội, được ra đời vào năm 1982.

Trong niềm hy-vọng những tốt đăp trên biển cả sẽ đến với nhân-loại, các luật-gia John R. Stevenson và Bernard H. Oxman đã thở phào nhẹ nhõm khi viết rằng: "Tất cả những cố-gắng trước đây trong suốt cả thế-kỷ để đưa toàn-thể thế-giới ngồi lại với nhau trong một sự đồng-ý vững-chắc về biển cả đã tan vỡ. Thỏa-ước Liên-hiệp-Quốc về Luật Biển là điều cận-kề nhất mà loài người chúng ta có thể tiến đến với nhau. Mục-tiêu đó nay đang ở trong tầm tay"
(The Future of the United Nations Convention on the Law of the Sea, trong The American Journal of International Law, Vol. 88, July 1994: 488-499.)

Thỏa-ước "United Nations Convention on the Law of Sea", viết tắt là UNCLOS hay LOS Convention, công-bố ngày 10-12-1982 tại Montego Bay, Jamaica đã được 159 quốc-gia ký-nhận (signatures) và như tiên-liệu, đã có đủ 60 quốc-gia duyệt-y (ratification.) Kể từ ngày 16-11-1994, thỏa-ước UNCLOS trở thành luật và được mang ra thi-hành.

Nội-dung của thỏa-ước rất lý-tưởng như cho rằng "Biển cả là tài-sản chung của Nhân-Loại". Sự thi-hành Luật Biển lại dựa hoàn-toàn trên tinh-thần thiện-chí của mọi quốc-gia trên thế-giới. Có nhiều điều-luật cần-thiết còn thiếu sót. Một số điều chưa được trình-bày rõ ràng hay không phù-hợp với thực-tế sẽ dần dần được các cơ-quan luật-pháp nghiên-cứu, đề-nghị điền-khuyết hay tu-chỉnh như đã từng được làm từ mấy chục năm qua ...

Các nước Ðông-Nam-Á quanh vùng Biển Ðông đều là hội-viên LHQ., đã cùng ký-kết thi-hành Luật Biển. Trừ ra nước Tàu từ xưa vẫn ngoan-cố, nay lại chưa chấp-nhận việc thi-hành. Ðể cho tình-trạng thêm phần căng thẳng, Trung-Cộng ban-hành Luật Lãnh-hải 1992 riêng cho họ. Luật này ngăn chặn việc thi-hành Luật Biển LHQ về chủ-quyền hải-phận của những quốc-gia duyên-hải bằng cách tuyên-cáo một cách trâng tráo: Biển Ðông là nội-hải hay lãnh-hải Trung-Hoa.

Tuy vậy, đa-số giới luật-gia tin-tưởng rằng nhờ số lượng "đa-số áp-đảo" các quốc-gia ký-nhận, rồi ra Luật Biển sẽ được toàn-thể cộng-đồng nhân-loại tôn-trọng và thi-hành hầu mang lại hòa-bình trên biển.

Sự mong ước này xem ra có vẽ là một hoài-vọng quá đáng chăng ?!
 
8.3 - Lãnh-thổ và lãnh-hải.
Học địa-lý, chúng ta biết rằng diện-tích lãnh-thổ nước Việt-Nam đo được 329,600 km2. Ngoài lãnh-thổ đó, một khu-vực trên biển từ bờ trở ra khơi 12 hải-lý (hl) đã được nhận là lãnh-hải (territorial waters.) Chủ-quyền quốc-gia trên lãnh-hải giống như chủ-quyền trên lãnh-thổ. Vào năm 1964, chính-quyền cộng-sản Việt-Nam tuyên-bố lãnh-hải 12 hl.

Ngày nay, chúng ta cần biết thêm về một vùng hải-phận rộng lớn hơn nữa ở ngoài biển thuộc chủ-quyền khai-thác của dân Việt-Nam ta: Khu-vực Biển Kinh-tế Ðộc-quyền 200 hải-lý mà danh-từ Luật Biển gọi là Exclusive Economic Zone- EEZ.

Vào ngày 12-5-1977, Chính-quyền CHXHCN Việt-Nam ra tuyên-cáo những hải-phận như sau:
  • 12 hl lãnh-hải
     
  • 12 hl vùng cận-hải phía ngoài lãnh-hải
     
  • 200 hl vùng biển kinh-tế tính từ ngoài đường căn-bản lãnh-hải (200NM from territorial waters base line.)
Việt-Nam là quốc-gia có đường duyên-hải khá dài (5,237 cây số), tỷ-lệ bờ biển/ diện-tích lãnh-thổ hơn 1 phần trăm. Trong khi đó, Trung-Cộng có rất ít bờ biển, tỷ-lệ chỉ đạt tới 1.5 phần ngàn mà thôi.

Theo Luật-sư Mark J. Valencia, Việt-Nam ước-lượng vùng EEZ rộng tới 210,600 dậm vuông (square nautical-mile) trải dài ra trên Biển Ðông. Diện-tích này tính ra 722,338 km2, tức rộng hơn hai lần đất liền, (225% so với lãnh-thổ.)

Hình 45 - Theo bảng liệt-kê này, Việt-Nam có chiều dài bờ biển 2,828 hải-lý (tức 5,237 km, hải-phận EEZ rộng 210,600 hl vuông, không thua Trung-Cộng bao nhiêu.

Dự-thảo Luật Biển Liên-hiệp-Quốc (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS hay LOSC) quy-định rằng hải-phận dành cho quốc-gia duyên hải quản-trị và hải-đảo cũng có những hải-phận như đất liền. Tại Biển Ðông, nước nào có chủ-quyền trên các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa sẽ được sở-hữu những tài-nguyên trong các hải-phận liên-hê Những vùng biển như vậy rất to lớn, đặc-biệt lại nằm trong khu-vực có nhiều tiềm-năng dầu-khí.

Ðối với Việt-Nam, đặt giả-sử nếu ta kiểm-soát trọn-văn cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa, hải-phận khai-thác kinh-tế (EEZ) của quốc-gia ta sẽ lớn gấp 4, 5 lần lãnh-thổ hiện-thời trong lục-địạ Tài-nguyên dưới biển nếu khai-thác hết, có lẽ nhiều hơn sản-lượng thu-đạt trên đất liền.
 
8.4 - Thềm lục-Ðịa và EEZ.
Trong những danh-từ thường dùng của Luật Biển ngày nay, người ta còn nói đến "Thềm lục-địa" (Continental Shelf.) Trước hết, quan-niệm này phát-sinh khi khảo-sát bờ biển trên thế-giới, người ta thấy đáy biển thường thoai-thoải từ bờ ra khơi một khoảng xa, tùy nơi có thể từ vài chục hải-lý cho đến hàng trăm hải-lý; rồi đột nhiên, đáy biển dốc sâu hẳn xuống trước khi chạy tiếp ra ngoài lòng đại-dương. Hình-dạng phần đáy biển thoai thoải sát bờ đó giống như cái nền của lục-địa.
Hình 46- Quan-niệm địa-lý về thềm lục-địa
 
Vì chủ-quyền thềm lục-địa đối với các quốc-gia duyên-hải cũng như chủ-quyền cái nền nhà đối với người chủ của cái nhà, các quốc-gia thường không đồng-ý với nhau về ranh-giới này. Tổng-quát có hai khuynh-hướng:
 
1. Dùng độ sâu đáy biển.
Theo khuynh-hướng này thềm lục-địa nằm trong khu-vực có độ sâu nước biển tới 200m.
Hình 47 - Biển Ðông, thiết-đồ đáy biển và thềm lục-địa (200m.) Từ bờ Việt-Nam, đáy biển chạy thoai-thoải ra khơị (Hình của Nguyễn-Khắc-Ngữ 1981.)
 

Trường-hợp dùng đường đồng-thâm 200m này cho Việt-Nam, chúng ta thấy:
  • Vì đáy biển nông, thềm lục-địa ở Bắc-phần nước ta rất lớn, choán ra khắp vịnh Bắc-Việt. Ở đây, việc phân chia thềm lục-địa giữa Việt-Nam và Trung-Hoa đang trong vòng tranh-chấp. Việt-Nam muốn giữ đường Brévié (Kinh-tuyến 108.03' Ðông) là thỏa-hiệp đã ký từ năm 1887 giữa Pháp, lúc đó đang bảo-hộ Việt-Nam và nhà Mãn-Thanh, lúc đó đang cai-trị toàn cõi Trung-Hoa. Còn Trung-Cộng muốn chia vịnh Bắc-Việt theo đường trung-tuyến giữa những bờ biển nhưng lại không chịu kể Bạch-long-Vĩ là một hòn đảo.
Hình 48 - Vùng tranh-chấp hải-phận trong vịnh Bắc-Việt. Việt-Nam muốn: hoặc theo đường Brévie.(KT 108 đô03' Ðông) hoặc lấy trung-tuyến hai đảo Bạch-long-Vĩ và Hải-Nam. Trung-Cộng không đồng-ý cả hai, chỉ muốn lấn vào sát đất Việt-Nam.
 
  • Ở miền Trung, thềm lục-địa nhỏ hẹp. Ðặc-biệt tại Mũi Varella, vì đáy biển đột-nhiên sâu hẳn xuống nên thềm lục-địa không rộng quá 40 km.
     
  • Càng về Nam, biển càng trở nên nông cạn và thềm lục-địa nước ta lại rộng ra rất nhiềụ Ngoài khơi Ðông-Ðông-Nam, cách Vũng-Tàu 200km qua khỏi bãi Ðông-Sơn, gần bãi Tư-Chính chiều sâu đáy biển mới bắt đầu xuống quá 200m. Kể từ khu này vòng qua Phú-Quốc, biển rất nông và toàn thể khu-vực vịnh Thái-Lan bao quanh bởi Việt-Nam, Kampuchia, Thái-Lan, Mã-lai-Á, Nam-Dương trở thành thềm lục-địa của các quốc-gia ven biển.
Cách xác-định thềm lục-địa theo chiều sâu đáy biển 200m này đã bị hầu hết các quốc-gia duyên-hải bác bỏ.
 
2. Dùng khoảng cách 200hl tính từ bờ.
Có những quốc-gia duyên-hải tuyên-cáo chiều rộng thềm lục-địa riêng cho ho Theo nhu-cầu quốc-gia, nhiều chính-quyền đã ra tuyên-cáo về chiều rộng thềm lục-địạ Ranh-giới 200 hải-lý hiện đang được nhiều quốc-gia chấp-nhận. Việt-Nam có thể được kể là một trong những quốc-gia nàỵ Thềm lục-địa Việt-Nam thông-thường đã được chính-quyền đương-thời đồng-hóa với vùng hải-phận chủ-quyền kinh-tế EEZ 200hl.

8.5 - Ðường căn-bản duyên-hải và Nội-hải.
Trước đây năm ba thập-niên, phần lớn các quốc-gia duyên-hải thường lấy lãnh-hải là 3hl. Có tới 45 nước nhìn nhận ranh-giới này, tính vào ngày 1-1-1958.

Ngày nay, hầu hết các nước tuyên-cáo lãnh-hải 12hl và một vùng tiếp-cận- Continguous Sea- 12 hl phía ngoài lãnh-hải đó. Khoảng rộng được tính từ bờ biển hay bờ đảo lúc nước ròng sát.

Bờ biển và bờ đảo thường lởm chởm, chỗ lồi chỗ lõm. Các đường ranh giới vì vậy rất ngoằn ngoềo phức-tạp. Ðể giải-quyết vấn-đề chung cho các quốc-gia duyên-hải hay quần-đảo, một sự đồng-ý đã được đưa vào Luật Biển LHQ. cho phép những nước đó được vẽ đường thẳng căn-bản (Baselines) nối liền những mũi đất và đảo.
Hình 49 - LHQ. công-bố hình vẽ này như tiêu-biểu cho cách-thức vẽ những đường căn-bản duyên-hảị Lưu-ý đến khoảng cách chuẩn 12 hải-lý.
 
Theo các chuyên-gia về Luật Biển, đường căn-bản được dùng làm "căn-bản" cho chủ-quyền lãnh-hải nên chính-quyền các nước duyên-hải cần thảo ra cho sớm và cho chính-xác!

Vào ngày 12-11-1982, Việt-Nam công bố một số đường căn-bản (mà họ gọi là đường cơ-sở) từ Ðảo Cồn Cỏ đến Poulo Waị Các đường căn-bản trong vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lan, cùng các quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa, vì đang trong vòng tranh-chấp nên chưa được vẽ.

Vài quốc-gia láng giềng và cả những nước lớn như Hoa-Kỳ đã lên tiếng phản-đối Việt-Nam. Họ cho rằng những đường này là không hợp-lệ và rằng Việt-Nam đã tuyên-bố một vùng nội-hải lớn lao một cách quá đáng. Các luật-gia ở Viện Ðông-Tây tại Hawai nhận-xét: "Có nhiều nơi, đường này nằm quá xa bờ lục-địa hay có nơi đường căn-bản không nhất-thiết phải đi quá xa ngoài khơi vì bờ biển phía bên trong rất phẳng-phiu".
Hình 50 - Những đường căn-bản (baselines) của duyên-hải Việt-Nam tuyên-bố ngày 12-11-1982. Nội-hải Việt-Nam gồm hai khu-vực ranh-giới lich-sử trong vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lan và khu-vực biển nằm bên trong những đường căn-bản.
 
Từ khi đường căn-bản được ấn-định, ranh giới lãnh-hải và những hải-phận liên-hệ đến chủ-quyền quốc-gia trên biển bị thay đổi hết. Trường-hợp Việt-Nam, theo luật gia Kriangsak Kittichaisariee, nếu chỉ kể bốn đoạn (162, 161, 149 và 105 hl) trong 10 đoạn thẳng căn bản (dài tổng-cộng 850hl), nội hải (internal waters) Việt-Nam cũng đã chiếm tới 27,000 dậm vuông. (Law of the Sea and Maritime Boundary Delimitation in South-East Asia, Oxford University Press, 1992: 16-17.) Ðường căn-bản như vậy làm gia-tăng diện-tích những khu-vực thuộc chủ-quyền quốc-gia lên rất nhiều.

Hai luật-gia Mark J. Valencia và Jon M. Van Dyke, sau khi bàn-luận đến những lợi-điểm của Việt-Nam trong việc ký-nhận thi-hành Luật Biển LHQ., cũng khuyến-cáo Việt-Nam nên tu-chỉnh lãnh-hải lịch-sử (historic waters) và thu bớt phần nội-hải bằng cách duyệt lại các đường căn-bản baselines. 
(Vietnam's National Interests and the Law of the Sea, trong Ocean Development and International Law, Vol.25, Apr/Jun 1994: 217-250.)

Trên quan-điểm của chính-quyền CHXHCN Việt-Nam, những đường căn-bản đã vẽ đúng theo Luật Biển LHQ. Các lý-do được nêu ra có thể tóm tắt như sau:
  • Những đoạn thẳng trong khu-vực từ vĩ-độ 11.00N đến 14.00N phù-hợp với điều 7(1) quy-định việc xác-định đường căn-bản qua những hòn đảo nằm ngoài vùng bờ biển khúc-khuỷu, bị ăn sâu vào đất liền Trung-Việt.
     
  • Những đoạn còn lại phù-hợp với điều 7(5) quy-định các đường thẳng căn-bản cho khu-vực biển có quyền-lợi kinh-tế đặc-biệt và hiển-nhiên đã được dân-cư Việt-Nam sử-dụng từ lâu đời. (Vietnam: Fisheries and Navigation Policies and Issues, Mark J. Valencia, trong Ocean Development and International of Law, Vol.21, 1990, pp 431-445.)
Nếu Việt-Nam cứ giữ vững lập-trường để quyết nắm chủ-quyền phần "nội-hải" hay lãnh-hải rộng lớn, LHQ. sẽ phải tìm cách phân-xử.

8.6 - Thềm lục-địa kéo dài và đường trung-tuyến.
Biển Việt-Nam là sự nối-tiếp địa-hình đất liền chạy dài ra biển. Việt-Nam có được đặc-quyền tuyên-bố chiều rộng thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế cho tới 350 hải-lý (Vietnam's National Interests and the Law of the Sea, Mark J. Valentcia & Jon van Dyke, trong Ocean Development and International Law, Apr/ Jun 1994: 228-229.)

Tính chung cộng lại một cách tối-thiểu, Việt-Nam rất có cơ-hội sở-hữu ít nhất một hải-phận kinh-tế ngoài biển rộng gấp ba lần lãnh-thổ trên đất liền, cho dù rằng nước ta không giữ được toàn văn tất cả Trường-Sa cũng như không phục-hồi lại được quần-đảo Hoàng-Sa.
Hình 51 - Khu-vực tranh-chấp Việt-Nam với Nam-Dương và Mã-lai-Á. Hình nhỏ vẽ khu đáy biển sâu ở phía Bắc đảo Natuna.



Có những lý-lẽ tranh cãi khác nhau về chủ-quyền thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế nơi những vùng biển nhiều quốc-gia giao-tiếp như vậy. Tranh-chấp lẽ tẽ có thể dẫn đến chiến-tranh. Trong nhiều trường-hợp, các nước thường bàn cãi đến ranh-giới là đường Trung-tuyến (Meridian.) Ðường này chạy giữa hai đường căn-bản của bờ biển, giữa hai hòn đảo hay giữa bờ biển nước này và hòn đảo nước kia, giữa các đường căn bản, đảo, bợ tùy trường-hợp lý-luận trong thương-thảo.

Vì Việt-Nam ở trong trường-hợp có ưu-thế vì thềm lục-địa kéo dài, Việt-Nam đòi hỏi các nước láng giềng phân-chia sao cho hợp-lý như ở Vịnh Bắc-Việt và vùng thềm lục-địa Sunda, phía Bắc đảo Natuna.

Việt-Nam và Nam-Dương không thỏa-thuận được với nhau về đường ranh-giới này. Nam-Dương muốn chia hải-phận theo đường trung-tuyến giữa đảo Natuna và bờ biển Việt-Nam, còn Việt-Nam lấy lý-lẽ đáy biển sâu về phía Nam-Dương nên phải lấy trung-tuyến của bờ biển Nam-Dương và đường căn-bản baseline Việt-Nam.

8.7 - Các nước lớn và Luật Biển.
Nhiều cường-quốc không vừa lòng với Luật Biển LHQ, hải-quân của họ muốn được tự-do hải-hành khắp nơi theo ý họ muốn. Tuy vậy, chưa có sự chống-đối, cản-trở nào đáng gọi là quyết-liệt.
 
8.7.1 - Hoa-Kỳ.
Nếu nói đến cường-quốc mạnh nhất về hải-lực hiện nay, người ta phải nói đến Hoa-Kỳ. Kể từ khi đối-thủ đáng nể của họ là Liên-bang Sô-Viết tan rã, lực-lượng Hoa-Kỳ trên biển giữ vai trò độc-bá, đang tung-hoành khắp mặt đại-dương. Vì Hoa-Kỳ luôn luôn cổ-võ cho sự tự-do hải-hành nên họ vẫn đứng ra ngoài những nỗ-lực của các quốc-gia khác muốn tiến tới một một Luật Biển toàn-cầu. Hầu hết những tuyên-cáo nới rộng hải-phận của các quốc-gia khác trên thế-giới đều bị Hoa-Kỳ phản-đốị CHXHCN Việt-Nam cũng đã mấy lần nhận giấy tờ ngoại-giao của Hoa-Kỳ gởi đến tỏ ý chống-báng như vậy.

Trong một kế-hoạch toàn-cầu mới nhất về hợp-tác quốc-tế cùng nhau khai-thác các vùng biển sâu, LHQ. đã phải đối đầu với sự bất-hợp-tác của Hoa-Kỵ Vì Mỹ là nước có khẩ-năng lớn nhất về lãnh-vực này nên LHQ. phải cố-gắng rất nhiều trong việc thuyết-phục. Tin-tức mới nhất cho hay Hoa-Kỳ đã bớt lạnh nhạt và ngỏ ý sẽ tham-gia.

Tin mới đây cho biết Tổng-Thống Clinton thuận việc thi-hành Luật Biển quốc-tế, đã gửi văn-thư qua Quốc-Hội để chờ lấy quyết-định của Lập-Pháp 
(Comment: The United States and the Law of the Sea, George Galdorisi, trong "Ocean Development and International Law, Vol 26, No 1, 1995, pp 75-83.)

Phải cần một thời-gian mới có thể biết được sự đóng góp thực-sự của Hoa-Kỳ ra sao trong việc thi-hành Luật Biển.
 
8.7.2 - Trung-Cộng.
Trung-Cộng là một trường-hợp ngoại-lệ thật kỳ-dị. Quốc-gia này mặc dù là hội-viên Liên-hiệp-quốc nhưng lại bất-chấp công-pháp quốc-tế cũng như không tuân theo các nghị-quyết của hội-đồng Liên-hiệp-quốc về Luật Biển.

Không cần căn-cứ pháp-lý, Trung-Cộng nhận chủ-quyền toàn-thể Biển Ðông. Ranh giới vùng "Lưỡi Rồng" của họ sát bờ biển Trung-Việt (cách Cù-lao Ré 40 hl) xuống Indonesia qua sát Mã-Lai-Á (cách Borneo 25 hl) vòng lên sát Phi-luật-Tân (cách Palawan 25 hl.) Trung-Cộng và Ðài-Loan, tuy không phải là các quốc-gia Ðông-Nam-Á, đã cùng đứng trên một lý-lẽ, cùng sử-dụng một tấm bản-đồ với đường "ranh giới lịch-sử nước Tàu " lấn sâu xuống gần hết biển Ðông-Nam-Á. Trung-Hoa Dân-Quốc đã tự-ý vẽ ra những đường ranh-giới này từ năm 1947.

Chính-sử Trung-Hoa chưa bao giờ ghi-chép việc quân-đội của họ chiếm-đóng Hoàng-Sa/ Trường-Sa. Ðịa-dư chí nước Tàu cũng chẳng bao giờ viết rằng nước Trung-Hoa phía Nam giáp Nam-Dương, Mã-Lai-Á ... Vậy mà người Trung-Hoa thời nay giám cho rằng lịch-sử là một yếu-tố chính làm căn-bản cho chủ-quyền nước Tàu trên toàn-thể Biển Ðông.
Hình 52 - Khu-vực ranh-giới lịch-sử "Lưỡi Rồng" của Trung-Cộng chiếm gần trọn Biển Ðông.

Khi đề-cập đến sự tham-lam và ngoan-cố nhận liều hải-phận một cách vô-lối của hai nước Trung-Hoa Lục-địa và Ðài-loan như vậy, Luật-gia chuyên về hải-dương Mark J. Valencia đã nhận-định: "Không có một nguyên-lý nào trong luật-pháp quốc-tế thời hiện-đại cho phép một kiểu lý-luận như thế !".

Trung-Cộng coi "Nam-Hải" không những là vùng biển đánh cá (Exclusive Fishery Zone), vùng biển kinh-tế (Exclusive Economic Zone) của Trung-Cộng mà còn mặc-nhiên nhận như nội-hải (Inner Sea), lãnh-hải riêng (Territorial Sea) hay cái vườn sau (Back Yard) của họ vậy.

Một khi hải-quân của Trung-Cộng đủ mạnh để kiểm soát mặt biển và hành-sử chủ-quyền theo tham-vọng của họ thì mọi hoạt-động thương-mai, kinh-tế của các nước Ðông-Nam-Á trên Biển Ðông bị bóp nghăt. Các nước khác trên thế-giới rồi đây cũng sẽ bị ngăn cản về cả hai đường hàng-hải lẫn hàng-không.

9 - LUẬT BIỂN LHQ VÀ BIỂN ÐÔNG.
Trong khi áp-dụng Luật Biển Quốc-tế cho Biển Ðông, mỗi nước duyên-hải trong vùng đã suy-luận theo cách-thức riêng-biệt có lợi cho họ. Sự tranh-chấp của nhiều nước về chủ-quyền trên các đảo Hoàng-Sa Trường-Sa, ngoài cơ-nguy đụng-độ quân-sự trên biển, còn lôi kéo theo nhiều tranh-luận rắc rối về luật-lệ.
 
9.1 - Việt-Nam và Luật Biển.
Việt-Nam cùng với 159 nước trên thế-giới (tính đến đầu năm 1993) đã ký-duyệt bản dự-thảo Luật Biển 1982 của Liên-hiệp-Quốc. Tháng 7/1994, Việt-Nam lại ký tên vào danh-sách các quốc-gia tự-nguyện chấp-hành luật quốc-tế này. Dự-luật này chỉ đòi hỏi 60 quốc-gia ký-nhận để mang ra thi-hành. Hiện nay trong số 60 quốc-gia đầu tiên ký-kết đã có nhiều nước lớn như Brazil, Ai-Cập, Nam-Dương, Mễ-tây-cơ. Ngày 16/11/1994 là ngày thỏa-ước có hiệu-lực thi-hành (enter into force.)

Việc CHXHCN Việt-Nam chấp-nhận Thỏa-ước về Biển-Cả Quốc-tế đã tạo được tối-thiểu một sự an-tâm về lý-thuyết. Ðặc-biệt Việt-Nam cũng tìm ra một vị-thế thuận-lợi trên trường ngoại-giao khi tranh-chấp với Trung-Cộng.

Theo sự ước-tính của các giới thông-thạo, muốn làm hội-viên của Tổ-chức Luật Biển LHQ, Việt-Nam sẽ phải thi-hành một số trách vụ như sau:
  • Ðóng góp tiền bạc vào Quỹ của Tổ-chức cho chi-phí hoạt-động, có lẽ khoảng 60 triệu dollars cho lúc đầu và khoảng 8.5 triệu dollars thường niên. Trong hiện-tình, Việt-Nam được dự-trù đóng góp chừng 3% ngân-quỹ của LHQ .
     
  • Thu nhỏ những vùng nội-hải, sửa lại đường căn-bản duyên-hải, vẽ những vùng lãnh-hải, cận-hải, chủ-quyền kinh-tế mới sao cho phù-hợp với Luật Biển.
     
  • Sửa lại luật-lệ về giao-thông trên biển, cho phép sự thông-quá vô-tư (innocent passage) các loại thương-thuyền và chiến-hạm v.v... theo đúng với sự quy-định quốc-tế.
     
  • Tham-dự vào các chương-trình liên-hệ của Luật Biển như ngư-nghiệp, bảo-vệ môi-sinh, chống ô-nhiễm, cứu người trên biển, truy-diệt ma-túy buôn lậu, nghiên-cứu khoa-học... (Vietnam's national Interests and the Law of the Sea, Mark J. Valencia &Jon M. Van Dyke, trong báo Ocean Development and International Law, Vol.25, pp 217-250.)

9.2 - Trường-hợp các đảo Hoàng-Sa Trường-Sa.
Trong tiến-trình đi tới một Luật Biển hoàn-bị cho toàn-cầu, các cơ-cấu luật-pháp quốc-tế lần đầu tiên sẽ phải đối đầu với một vấn-đề mới khó khăn và tế-nhị về chủ-quyền trên các hòn đá san-hô tí-hon của Biển Ðông. Xin nêu một vài thí-dụ:
  • Ðảo theo nguyên-nghiã phải là do thiên-nhiên tạo rạ Ðến nay, vẫn chưa ai hiểu được luật quốc-tế phải làm sao để truy-tầm và giải-quyết trường-hợp đảo xây lên bằng cách "nhân-tạo".
     
  • Luật Biển vẫn chưa xác-định được sự khác nhau giữa Ðảo và Cồn, Ðụn. Những "đảo" san-hô thường chỉ như những cồn, đụn; hôm nay nổi mai chìm. Trường-hợp như Ðảo Tro (vùng hòn Hai, Cù-lao Thu) đùn cao lên tới 30m một thời-gian (các đảo Trường-Sa chỉ cao chừng 2m) rồi tan theo tro bụi cũng khó giải-quyết.
Hình 53 - Một tàu hải-đăng như bên, nếu cho đánh chìm xuống biển, có thể biến thành một đảo nhân-tạo !?
 
  • Sự kiện càng thêm rắc rối vì vấn-đề hợp-pháp của hải-đăng trên các bãi ngầm cũng đã được Luật Biển đề-cập tới. Năm qua, CHXHCN Việt-Nam ra tuyên-cáo thiết-lập 10 hải-đăng (?) tại quần-đảo Trường-Sa mà một chiếc đặt trên Ðá Lát là một hòn đá ngầm (reef.)
Giả-sử nếu có nước mua một tàu hải-đăng cũ đem đến một bờ bãi ngầm hay cạn nào đó rồi cho chìm xuống, nước đó có thể chứng-minh hợp-pháp cho lãnh-hải quốc-gia 12hl và cho vùng kinh-tế 200hl của họ được không?
  • Qua những bức hình cho công-bố mấy năm gần đây, rõ ràng là Trung-Cộng muốn xác-nhận chủ quyền lãnh-thổ, lãnh-hải ngay nơi đứng của người lính Tàu mà nước ngập ở dưới chân.
Luật-gia quốc-tế chỉ đành lắc đầu không nói gì được về sự ngoan cố "kiểu Tàu" như vậy!
Hình 54 - Bia chủ-quyền Trung-Cộng tại một hòn đá ngầm Trường-Sa.
 
Có những luật-gia như Jon M. Van Dyke và Dale L. Bennett cho rằng tất cả các đảo Hoàng-Sa Trường-Sa chưa bao giờ có dân-cư sinh-sống thường-trực và cũng chưa bao giờ có một đời sống kinh-tế riêng của nó (no economic life of their own) nên cùng lắm, các đảo chỉ dùng để tính lãnh-hải 12 hl mà thôi. Hai ông này đề-nghị: Trong Biển Ðông các yếu-tố như chiều dài bờ biển tiếp-cận, số lượng cư-dân vùng duyên-hải, lịch-trình sử-dụng hải-sản nên được dùng làm các mấu chốt chính-yếu để xác-định quyền sở-hữu hải-phận hơn là sự chiếm-cứ (bằng quân-sự) những đảo, đá tí-hon này.

Lý-lẽ Dyke và Bennett tuy vậy lại ngập ngừng, không vững vì hai ông phát-biểu rằng có lẽ nên để cho (một mình) đảo Phú-Lâm được hưởng phần nào quyền sở-hữu hải-phận (EEZ) trong vùng 
(Islands and the Delimitation of Ocean Space in the South China Sea, trong Ocean Yearbook 10, University of Chicago Press 1993: 54-89.)

Giống hệt như Phú-Lâm, nhiều đảo khác trên Biển Ðông cũng có hàng trăm quân trú-phòng sinh sống, với cơ-sở phi-quân-sự như đài khí-tượng, trạm hải-đăng. Ðảo được khai-thác phốt-phát bởi công-ty tư-nhân. Ðảo là nơi nghỉ chân khi hải-hành. Ðảo cung-cấp nguồn tiếp-liệu, nhà kho, sửa chữa, bảo-trì ngư-thuyền, ngư-cụ của thường-dân. Các đảo như Hoàng-Sa (Pattle) của VNCH trước 1974, và các đảo Trường-Sa, Nam-Yết, Song-tử Tây, An-Bang... ngày nay đáng được kể là "Ðảo" khi dựa vào các điều-lệ của Luật Biển.

Trên bàn thương-thảo quốc-tế, khi đi tìm một chiến-thuật tranh-cãi cho việc thụ-hưởng một vùng biển kinh-tế rộng lớn nào đó, người ta cần nghiên-cứu rõ từng trường-hợp. Căn-cứ vào những họa-đồ, sự hơn thiệt về hải-phận có thể thấy rõ. Cứ như trường-hợp Việt-Nam trong hiện-tình quân-sự, ngoại-giao hiện-tại, việc chia cắt lãnh-hải theo quan niệm "Biển Ðông không có đảo" có lẽ đem lại một vùng đặc-quyền kinh-tế EEZ lớn nhất mà nước ta có thể được hưởng .

Về phương-diện Luật Biển LHQ, nếu đứng riêng rẽ, các đảo ngoài khơi Biển Ðông diện-tích quá nhỏ bé và nằm rải rác trên một vùng biển quá rộng; không đủ điều-kiện để hưởng quy-chế quốc-gia quần-đảo (Archipelago State.) Ðiều số 47 của UNCLOS - Archipelagic Baselinesquy-định tổng-số diện-tích đất / biển phải chiếm trong khoảng tỷ-lệ từ 1/1 tới 1/9.
 
9.3 - Những đường ranh Biển Ðông.
Tình-trạng chủ-quyền của các quốc-gia trên Biển Ðông không rõ rệt lúc nàỵ Việt-Nam, Trung-Cộng và Trung-Hoa Ðài-Loan cùng nhận làm chủ toàn-thể Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Hình 55 - Bản-đồ ghi các vị-trí chiếm-đóng quân-sự ở Trường-Sa.

Ở Trường-Sa, ngoài quân-đội của Việt-Nam và hai nước Trung-Hoa, còn có lính phòng-thủ của Phi-luật-Tân, Mã-lai-Á trên các hải-đảo chen kẽ nhau. Quần-đảo ví như mối bòng bong không cách gỡ.

Trường-Sa có tới nhiều trăm "đơn-vị đất đá" nhưng chỉ có 26 đảo, cồn, đụn và 7 hòn đá nổi thường-trực trên mặt biển. Theo như các tin-tức thâu-thập được qua báo-chí tại Hoa-Kỳ, tình-trạng hiện nay như sau:
  • Việt-Nam chiếm đóng nhiều nơi nhất, có thể tới 26 vị-trí (?) mà 14 có cao-độ được kể về mặt pháp-lý (3 đảo, 7 cồn, 1 đụn, 3 đá.)
     
  • Phi-luật-Tân chiếm 8 vị-trí đều là "cao-địa (5 đảo, 3 cồn.)
     
  • Trung-Cộng chiếm tới 9 vị-trí, nhưng chỉ có 2 "cao-địa" (1 đảo,1 đá.)
     
  • Mã-lai-Á chiếm 3 vị-trí với 2 "cao-địa" (1 đảo, 1 đá.)
     
  • Ðài-Loan chiếm 1 vị-trí (1 đảo.)
     
  • Còn lại chừng 6 "cao-địa" (?) (4 đảo, 2 đá) chưa ai chiếm-đóng.
Theo một số luật-gia, đảo (island), cồn (cay), đụn (dune) có thể được hưởng quy-chế 200 hl hải-phận EEZ; còn đá thì chỉ được tính 12 hl hải-phận của lãnh-hải mà thôi.

Như đã nói ở trên, theo một vài luật-gia về biển cả; Việt-Nam là một trong số các quốc-gia có thể viện-dẫn những lý-lẽ hợp-pháp để kéo dài thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế ra tới 350 hải-lý.

Không giống như trường-hợp Phi-luật-Tân và Nam-Dương, bờ biển Việt-Nam thoai-thoải trải dài ra biển không có sự ngăn cách của các rãnh biển sâu (trench, trough) gần bờ nên sự nới rộng hải-phận hợp-lý hơn các nước kia.

Ðường thâm-thủy chỗ sâu nhất của đáy Biển Ðông trong khi nằm rất xa bờ biển Việt-Nam, lại nằm thật gần với các nước Trung-Hoa, Phi-luật-Tân, Mã-lai-Á, Nam-Dương.

Tình-trạng đáy biển càng rõ rệt trong cả hai vịnh Bắc-Việt và vịnh Thái-Lan. Tuy vậy lý-lẽ của Việt-Nam chưa bao giờ được các nước tranh-chấp liên-hệ chấp-nhận.

Bản-đồ ranh-giới tại vịnh Bắc-Việt đã được trình-bày ở một đoạn trên. Dưới đây là hình vẽ mô-tả những vùng tranh-chấp tại vịnh Thái-Lan.
Hình 56 - Khu-vực tranh-chấp hải-phận trong vịnh Thái-Lan: Việt-Khmer phía tây-bắc, Việt-Thái phía tây-nam.
 
Tại Biển Ðông, trở ngại lớn lao nhất trong việc xác-định ranh-giới là sự độc-đoán, ương-ngạnh của Trung-Cộng và sau đó là Ðài-Loan. Hai nước này nhận chủ-quyền toàn-thể hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa cùng với "nội-hải" chiếm 80% Biển Ðông. Việc thương-thảo với các nước láng giềng Ðông-Nam-Á phần nào có vẽ dễ dàng hơn.

Cho dù không thể đi đến sự xác-định đường chia cắt, các dân-tộc Ðông-Nam-Á cũng có thể sống hoà-hoãn với nhau không sắt máu. Thỏa-ước cùng chung nhau khai-thác tài-nguyên một vài vùng biển đã được các nước Nam-Dương, Mã-lai-Á thi-hành. Mới đây nhất, Việt-Nam và Mã-lai-Á lại tiến được một bước lớn về hợp-tác tương-tự như vậy. Việt-Nam cũng ngỏ-ý dễ dãi đôi-phần về việc thuyền Thái-Lan được phép đánh cá trong vài vùng Việt-Nam vẫn kiểm-soát chặt chẽ xưa nay.
Hình 57 - Bảng ghi-nhận chiều rộng các loại hải-phận của những nước Ðông-Nam-Á.
 
Trung-Cộng là một quốc-gia đông dân tới hàng tỷ người, đường bờ biển khá dài (8890 hl) nhưng diện-tích hải-phận kinh-tế EEZ lại không có bao nhiêu (281,000 hl vuông.)

Trung-Cộng đã thăm dò và khai-thác các giếng dầu trên đất, ngoài biển từ hơn hai thập niên qua nên nắm vững được số trữ-lượng dầu khị Theo các nhà nghiên-cứu quốc-tế thì Trung-Cộng biết rõ đất nước của họ không chứa nhiều dầu. Tình-trạng sản-xuất dầu khí của Trung-Hoa không khả-quan như trước đây họ từng tiên-đoán. Biển Ðông chính là nơi họ thềm muốn về cả hai phương-diện kinh-tế và quân-sự.

Với tham-vọng quá lớn của Trung-Cộng, Biển Ðông sẽ càng trở nên sóng giọ Không ai có thể vẽ ra được bản-đồ ranh-giới hải-phận trong tình-hình quá rắc rối như lúc này.

9.4 - Những hình vẽ hải-phận theo giả-thuyết.
Ðể giản-dị-hóa vấn-đề, chúng tôi xin trình-bày một số bản-đồ với các đường ranh giới hải-phận kinh-tế theo những giả-thuyết trong những trang dưới đây:
 
9.4.1 - Bản-đồ tổng-quát Biển Ðông với những vùng hải-phận tranh-chấp. Các ranh-giới bao quanh Ðài-Loan, Pratas, Hoàng-Sa, Trường-Sa trong giả-thuyết các quần-đảo này đứng riêng rẽ độc-lập.
Hình 58 - Tổng-quát Biển Ðông.

9.4.2 - Hải-phận kinh-tế EEZ của Việt-Nam trong hai giả-thuyết:
  1. Tối thiểu khi mất hết biển cho Trung-Hoa và các nước láng giềng.
     
  2. Tối-đa trong giả-thuyết Việt-Nam sở-hữu cả hai quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa, và không có sự tranh chấp hải-phận với các quốc-gia lân-bang. Trường-hợp này VN sẽ sở-hữu một hải-phận gấp 5,6 lần lãnh-thổ.
Hình 59 - Hải-phận Việt-Nam

9.4.3 - Hải-phận kinh-tế EEZ của Trung-Cộng trong hai giả-thuyết:
  1. Tối-thiểu khi Ðài-Loan đứng độc-lập và Việt-Nam kiểm-soát cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa. Nước Tàu với dân-số gần 1/4 nhân-loại nhưng hải-phận kinh-tế EEZ không hơn Việt-Nam bao nhiêu.
     
  2. Tối-đa nếu hoàn-thành được mộng xâm-lược, hải-phận vùng Nam-Hải của họ tăng lên 5, 6 lần.
Hình 60 - Hải-phận Trung-Cộng
 
9.4.4 - Hải-phận EEZ của các nước Việt-Nam, Trung-Cộng, Ðài-Loan, Phi-Luật-Tân, Mã-Lai-Á & Brunei trên Biển Ðông trong gỉả-thuyết không có các quần-đảo Hoàng-Sa/ Trường-Sa.
  • Trung-Cộng quyết-liệt ngăn-chặn đề-nghị này, cho dù bằng cả biện-pháp bạo-lực quân-sự.
Hình 61 - Hải-phận Biển Ðông nếu không có Hoàng-Sa Trường-Sa.
 
9.4.5 - Hải-phận EEZ của Việt-Nam nếu có đảo Tri-Tôn.
  • Tuy Tri-Tôn chỉ cách bờ Cù-lao Ré có 121 hl. nhưng về ranh-giới EEZ, đảo này chiếm vị-trí quan-trọng. Ðảo Tri-Tôn kết-hợp với đảo Song-Tử Tây (CHXHCN Việt-Nam đang chiếm-đóng) cho Việt-Nam lý-lẽ để sở-hữu thêm một vùng hải-phận rộng lớn, diện-tích suýt soát lãnh-thổ trên lục-địa.
Hình 62 - Vị-trí đảo Tri-Tôn trong Biển Ðông tương-ứng với Song-Tử Tây trong việc phân-chia hải-phận.

10 - ÐẶC-TÍNH CHUNG CỦA CÁC ÐẢO HOÀNG-SA VÀ TRƯỜNG-SA.
Có nhiều điểm đáng nói về các đảo thuộc Hoàng-Sa và Trường-Sa, đặc-biệt là về cách cấu-tạo địa-chất.
 
10.1 - Cấu-tạo địa-chất.
Trước hết, chúng ta duyệt xét các giả-thuyết cấu-tạo và sau đó tìm hiểu tuổi-tác các đảo.

Không giống như các đảo khác nằm gần bờ biển Việt-Nam, các đảo thuộc hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa không được tạo thành bởi các khoáng-chất như đất đá Regosol trong đất liền mà là tập-thể chồng chất các xác thân của san-hô, một loài sinh-vật dưới biển.

Kết-quả điều-nghiên của các chính-quyền Pháp, Mỹ và Việt-Nam cho biết hầu hết các đảo nằm giữa biển khơi vùng nhiệt-đới như Hoàng-Sa và Trường-Sa đều là các ám-tiêu san-hô, tiêu-biểu cho kiến-trúc ám-tiêu loại Thái-bình-Dương. San-hô là một loại sinh-vật nhỏ thuộc dòng Xoang-tràng (classes Anthozoa and Hydrozoa of the Phylum Coelenterata), sống tập-đoàn trên mặt những đảo ngầm vùng biển nhiệt-đới.
Hình 63 - Hai loại san-hô thông-thường.
 
Ðã có khá nhiều lý-thuyết hình-thành đảo san-hô như của Quoy và Gaimard, Darwin, Krempf, Murray, Agassir v.v... Các công-trình nghiên-cứu của người Pháp, đặc-biệt của ông P. Chevey thuộc viện Hải-học Ðông-Dương, rất hữu-ích cho những ai muốn tìm hiểu thêm về chi-tiết cấu-tạo đảo san-hô Biển Ðông.

Sau đây là tóm tắt một số kiến-thức về sự hình-thành các đảo san-hô, trích từ hai bài "Thử khảo-sát về quần-đảo Hoàng-Sa" của giáo-sư Sơn-Hồng-Ðức, đăng trong Ðặc-san Sử-Ðịa số 29 năm 1975, trang 185-206 và "Iles et Récifs de Coraux de la Mer de Chine" báo Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, bộ IX, số 4, Saigon ngày 10-12-1934, trang 48-56.

Lý-thuyết Darwin được một số nhà địa-chất tin-tưởng là chính-xác trong trường-hợp những ám-tiêu viền được thành-lập. Theo Darwin thì san-hô đã nhờ hoàn-cảnh thuận-lợi sinh-sản thành một tập-đoàn rộng lớn viền quanh một hòn đảo. Sau đó, chính sức nặng của san-hô và sự lún của đáy làm cho đảo từ từ chìm xuống, còn san-hô vẫn tiếp-tục phát-triển.
  • Khi đảo không chìm hoàn-toàn, hệ-thống gồm đảo ở giữa, ám-tiêu viền ngoài bao bọc đầm nước bao quanh đảo.
     
  • Khi đảo chìm hẳn, ta chỉ còn thấy ám-tiêu san-hô bao một đầm nước yên-lặng...
Hình 64 - Sự hình-thành các đảo san-hô theo thuyết "lún đáy" của Darwin.
 
Các lý-thuyết hình-thành đảo san-hô khác không phải là hoàn-toàn sai lạc. Có lẽ mỗi giả-thuyết đúng vào một khía cạnh nào đó trong tiến-trình kết-tụ:
  • a. Thuyết của Quoy và Gaymard cho rằng san-hô thành-lập trên miệng những hỏa-diệm-sơn ngầm dưới biển. Khoa địa-chất đã ghi nhận nhiều núi lửa ngầm hình-thành khi có địa-chấn trong vùng Biển Ðông. Thuyết này không hoàn-toàn đúng vì tại vài vùng có ám-tiêu san-hô lại không thấy có núi lửa.
Hình 65 - Thuyết hình-thành các đảo san-hô trên miệng núi lửa của Quoy và Gaimard.
 
  • b. Thuyết của Murray là một thuyết tác-động hóa-học. Các phân-tử vôi có trong nước biển kết-tụ trên những đỉnh núi ngầm. Khi khối vôi này cao dần đến tầng nước có ánh-sáng mặt trời đầy đủ thì san-hô bám vào và sinh sản. Murray cho rằng chính giữa khối san-hô, khí CO2 tích-tụ nhiều đã xâm-thực-hóa san-hô làm vùng giữa biến mất.
Hình 66 - Thuyết hình-thành các đảo san-hô của Murray.
 
  • c. Thuyết của Agassiz cho rằng cái nền đất đá tạo-lập nên quần-đảo san-hô là quan-trọng. Agassiz nghiên-cứu vùng Great Barrier ở Úc thấy rằng lớp san-hô không dầy lắm. Phải có cái nền thích-hợp là dải núi ngầm dưới biển thì mới có dẫy đảo san-hộ Phần kết-tụ được Agassiz trình-bày phần nào giống như thuyết Murray.
Hình 67 - Thuyết hình-thành các đảo san-hô của Agassiz đặt quan-trọng ở dải núi ngầm.
 
  • d. Thuyết của Krempf liên-hệ đến gió mùa. Ðây là một giả-thuyết mới về sự tạo-lập những đảo san-hô. Theo ông nhờ các phản-ứng hóa-học, những vật-chất lững lờ trong nước kết-hợp với san-hô. Tập-thể này tiến-triển theo chiều thẳng đứng và dần dần tạo thành đảo. Krempf cho rằng khi san-hô nổi lên thì bị sóng và gió xâm-thực, những vật-liệu bị gió mùa xâm-thực sẽ bị cuốn rơi vào bên trong đề lớp san-hô bên trong và giết chết đi. Tới khi gió mùa nghịch lại thì vùng bên kia lại bị xâm-thực và vật-liệu cũng rơi vào bên trong... Vòng đai san-hô vì thế thường có hình bầu dục kéo dài theo chiều ảnh-hưởng của gió mùa.
Hình 68 - Thuyết hình-thành các đảo san-hô với gió mùa của Krempf.
 
Biển Ðông là vùng biển có hai vụ gió mùa Ðông-Bắc và Tây-Nam thật rõ rệt trong năm. Lý thuyết Krempf giải-thích được tại sao các ám-tiêu san-hô lớn trong các quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa lại giống như những hình bầu-dục khổng-lồ kéo dài theo cùng hướng, từ Ðông-Bắc đến Tây-Nam.
Vũ-Hữu-San


No comments:

Post a Comment