Chiến tranh lạnh mới
https://caidinh.com/trangluu1/thoisu/cuocchientranhlanhmoi.htm
Lê Ngọc VânCuộc Chiến tranh lạnh mới Mỹ, Trung Hoa và Tiếng vọng của lịch sử
Ảnh Benedetto Cristofani
(Bị dị
ứng
với
TQ: nước
ở giữa, bọn ở chung quanh là lũ man di, mọi rợ. Tôi đã đổi TQ thành Trung Hoa. ĐCSTQ -> ĐCSTH)
Phải chăng thế giới đang bước vào một cuộc chiến tranh lạnh mới?
Câu trả lời của chúng tôi là
có và không.
Trả lời là ‘có’ nếu chúng ta muốn nói đến một sự cạnh tranh quốc tế kéo dài, vì chiến tranh lạnh theo nghĩa này đã có từ lâu đời như chính lịch sử của nó. Đôi lúc
nó trở nên nóng bỏng, lúc khác thì không: không có luật nào đảm bảo cả hai kết quả.
Trả lời là ‘không’ nếu chúng ta muốn nói đến cuộc Chiến Tranh Lạnh mà chúng tôi viết hoa, bởi vì câu trả lời này có nguồn gốc và làm cho thuật ngữ này trở thành phổ biến trong đại chúng. Cuộc đấu tranh đó đã diễn ra vào một thời điểm cụ thể (từ
1945-47 cho đến 1989-91), giữa các đối thủ cụ thể (Hoa Kỳ, Liên Xô và các đồng minh tương ứng của họ), và về các vấn đề cụ thể (cân bằng quyền lực sau Thế chiến II, xung đột ý thức hệ, chạy đua vũ trang). Hiện tại, không có vấn đề nào trong số những vấn đề đó trở nên lớn như hiện nay và ở đâu cũng tồn tại những điểm song hành như thế – với tính lưỡng cực ngày càng tăng, các cuộc luận chiến gay gắt hơn, làm rõ nét sự khác biệt giữa các chế độ chuyên quyền và thể chế dân chủ – bối cảnh bây giờ hoàn toàn khác.
Không còn gì phải bàn cãi khi
Hoa Kỳ và Trung Hoa, những đồng minh ngầm trong nửa sau của cuộc Chiến Tranh Lạnh cuối cùng, đang bước vào cuộc chiến tranh lạnh mới của riêng họ:
Chủ tịch Trung Hoa Tập Cận Bình đã
tuyên bố điều đó và một sự đồng thuận lưỡng đảng
hiếm hoi ở Hoa Kỳ đã chấp nhận các thách thức. Vậy thì, các cuộc thử sức trước đây – cuộc Chiến Tranh Lạnh duy nhất
và nhiều cuộc chiến tranh lạnh trước đó – có thể gợi ý điều gì về cuộc chiến này?
Tất nhiên, so với quá khứ, tương lai ít được biết đến hơn, nhưng nó không phải là không thể biết trước về mọi mặt. Thời gian sẽ tiếp tục trôi qua, định luật hấp dẫn vẫn sẽ được áp dụng, và không ai trong chúng ta sẽ sống lâu hơn giới hạn sinh lý của mình. Nhưng những bí quyết đáng tin cậy tương tự có định hình cuộc chiến tranh lạnh đang nổi lên không? Nếu thực như vậy, có những ẩn số nào ẩn trong họ? Thucydides đã có những dự đoán và gây bất ngờ như vậy trong đầu khi ông cảnh báo vào 24 thế kỷ trước, rằng tương lai sẽ giống với quá khứ nhưng không phải điều đó được phản ánh ở mọi khía cạnh – ngay cả khi ông lập luận rằng cuộc chiến đơn lẻ (giữa hai quốc gia) vĩ đại nhất trong thời đại của ông đã tiết lộ sự thật vượt thời gian sẽ đến với tất cả các cuộc chiến tranh.
Thucydides was an Athenian historian and general.
His History of the Peloponnesian War recounts the fifth-century BC war between
Sparta and Athens until the year 411 BC.
Do đó, mục đích của chúng tôi ở đây là cho thấy cuộc chiến không hồi kết lớn nhất trong thời đại
của chúng ta – Cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Liên Xô và Mỹ – ra sao, cũng như
các cuộc chiến khác trước đó, ngõ hầu có thể mở rộng kinh nghiệm và nâng cao khả năng phục hồi trong một cuộc
cạnh tranh Trung-Mỹ trong tương lai, mà nóng hay
lạnh vẫn chưa rõ ràng. Lịch sử đó cung cấp cho ta một khuôn khổ để tồn tại tuy không chắc chắn, và thậm chí có thể phát triển trong đó, bất cứ điều gì mà phần còn lại của thế kỷ XXI sẽ đi theo cách nhìn của chúng ta.
Lợi ích
khi có ranh giới
Điều đầu tiên chúng ta biết đến là địa lý, sự trôi dạt lục địa sẽ thay đổi theo thời gian, nhưng nó không nằm trong phạm vi thời gian của chúng ta.
Trung Hoa chủ yếu vẫn sẽ là một cường quốc trên bộ, bị bao vây bởi một tình thế tiến thoái lưỡng nan như từ xưa tới nay.
Trong sự tìm kiếm chiều sâu chiến lược, nếu Trung Hoa cố gắng
mở rộng phạm vi của mình, quốc gia này rất có thể bành trướng quá mức khả năng của mình và gây ra sự phản kháng từ các nước láng giềng đang lo ngại. Nếu muốn tìm lại khả năng chịu đựng, quốc gia này sẽ thu hẹp phạm vi của mình, và thế là sẽ gặp nguy cơ là mời gọi kẻ thù. Ngay cả đằng sau những bức tường vĩ đại, những cái đầu của đám người mà ranh giới của họ vẫn chưa được xác định vẫn còn nằm đó một cách khó chịu.
Ngược lại, Hoa Kỳ được hưởng lợi từ các ranh giới đã được địa lý xác định. Đó là lý do
tại sao Vương quốc
Anh, sau năm 1815, đã chọn không tranh giành quyền ưu tiên với thế hệ con cháu họ đang ở Bắc Mỹ: chuyện duy trì
quân đội xuyên
qua 3.000 dặm trên
biển cả
sẽ quá tốn kém, ngay cả đối với sức mạnh hải quân lớn nhất thế giới.
Địa lý đã mang lại cho người Mỹ quyền lãnh đạo phức hợp: sự kiểm soát một lục địa và sự tiếp cận với hai đại dương
rộng lớn mà không gặp trở ngại, và họ đã nhanh chóng kết nối hai bờ bằng một tuyến đường sắt xuyên lục địa. Điều đó cho phép họ phát triển các phương
tiện kỹ nghệ phục vụ
cho quân đội để giải cứu dân châu Âu
trong Thế chiến I, Thế chiến
II và Chiến Tranh Lạnh khỏi những nỗ lực củng cố lục địa mà họ đã phải đối đầu.
Thế thì, tại sao từ con cá rô đang ở một nơi an toàn như thế, người Mỹ lại thực hiện những cam kết khó khăn như vậy? Có lẽ họ đã soi gương và sợ hãi những gì họ nhìn thấy: một hình ảnh của chính họ về một quốc gia thống trị một lục địa và cách tiếp cận đại dương của nó. Lời cảnh báo đã được kích hoạt khi Nga hoàn thành tuyến đường sắt xuyên Tây Bá Lợi Á vào năm 1904, một dự án bị thất bại sớm do chiến tranh và cách mạng đã qua mặt – nhưng không phải trước khi gợi ra lời cảnh báo sâu sắc của nhà địa chính trị người Anh Halford Mackinder rằng quyền kiểm soát "từ trung tâm" ra các vùng nằm bên trong "vành đai" Á-Âu có thể bị thay bằng một quyền lực mới và các hình thức bá chủ phức hợp đầy tham vọng trên toàn cầu. Tổng thống Woodrow Wilson đã nghĩ đến viễn cảnh đó khi ông tuyên chiến với đế quốc Đức vào năm 1917, và Tổng thống Franklin Roosevelt đã lập luận thêm một bước nữa vào năm 1940-41, khẳng định – một cách chính xác, như các sử gia hiện nay đã xác nhận – rằng mục tiêu cuối cùng của Adolf Hitler chính là Hoa Kỳ. Vì vậy, khi nhà ngoại giao Mỹ George Kennan, vào năm 1947, kêu gọi "nhận thêm" một đồng minh dũng cảm và bạo dạn trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, là Liên Xô, ông đã có để lại những di sản lâu dài cho chúng ta có thể rút ra được bài học từ đó.
Sir Halford John Mackinder was an English geographer, academic and politician, who is regarded as one of the founding fathers of both geopolitics and geostrategy. He was the first Principal of University Extension College, Reading from 1892 to 1903, and Director of the London School of Economics from 1903 to 1908.
George
Frost Kennan was
an American diplomat and historian. He was best known as an advocate of a
policy of containment of Soviet expansion during the Cold War. He lectured
widely and wrote scholarly histories of the relations between the USSR and the
United States.
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI: Belt and Road Initiative) của ông Tập gợi lên những lo ngại tương tự. “Vành đai” là một mạng lưới các hành lang đường sắt và đường bộ xuyên từ Á sang Âu. “Con đường” sẽ là các tuyến đường biển ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và, nếu sự hâm nóng toàn cầu cho phép, cũng được thiết lập ở Bắc Cực, chúng được duy trì bởi các căn cứ và hải cảng ở các bang đã tạo được thân thiện do “lợi ích” từ BRI. Cho tới giờ, người Đức hoặc người Nga chưa từng có cố gắng kết hợp một tham vọng như vậy với tính đặc thù như thế: Trung Hoa tìm kiếm bá chủ phức hợp trên một quy mô chưa từng có. Điều này đưa chúng ta đến ẩn số đầu tiên: Điều đó có thể ám chỉ điều gì đối với Âu-Á và thế giới bên ngoài vùng này?
Trật tự thế giới
của họ Tập
Có một điều ghi nhận đáng chú ý trong ba
thế kỷ vừa qua về những
thế lực giữ cân bằng ngoài biển khơi ngăn cản tham vọng
thống trị trên đất liền: đầu tiên là Anh
chống lại Pháp vào thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, sau đó là liên minh
Anh-Mỹ chống lại Đức hai
lần trong nửa đầu thế kỷ XX, tiếp theo là liên minh
do Mỹ dẫn đầu chống lại
Liên Xô trong nửa sau thế kỷ. Thật quá dễ dàng nếu ta khẳng định rằng các quốc gia có lực lượng hải quân có thể thi thố sức mạnh mà không tạo ra sự phản kháng, vì nếu điều này đúng, chủ nghĩa thực dân vẫn sẽ phát triển mạnh. Nhưng mối quan hệ
giữa địa lý và thống trị đủ rõ ràng để chúng ta có được một sự hiểu biết thứ nhì.
Các lục địa – ngoại trừ Bắc Mỹ châu – có xu hướng nuôi dưỡng những kẻ độc đoán: nơi mà
địa lý không thể xác định ranh giới thì những bàn tay khắc nghiệt giành quyền lực và nghĩa vụ bắt họ phải làm như vậy, dù là để bảo vệ họ tránh khỏi những nguy hiểm bên ngoài hay để giữ gìn trật tự bên trong. Quyền Tự Do, trong những tình huống này, do bên trên chỉ định xuống, không được phát triển từ dưới lên. Nhưng điều này đã khiến các chế độ đó phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra. Họ không thể đổ lỗi cho ai cả, theo kiểu các nền dân chủ vẫn thường làm. Các nền chuyên quyền sa sút – chẳng hạn như Liên Bang Xô
Viết – có nguy cơ tự thân bị ruỗng từ bên trong ra
bên ngoài.
Các nhà lãnh đạo sau cuộc Chiến Tranh Lạnh của Trung Hoa, phải ép mình học tấm gương của Liên Xô, đã tìm cách
tránh lặp lại điều đó bằng cách chuyển biến chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa tư bản tiêu dùng mà không đồng thời cho phép dân chủ. Do đó, họ lật tẩy những gì họ thấy là sai lầm lớn nhất của Tổng thống Liên Xô
Mikhail Gorbachev: cho phép dân chủ mà không đảm bảo sự thịnh vượng. Lần “tạo chính danh” mới nhất này – thủ tục cổ đại của Trung Hoa về việc đặt tên cho phù
hợp với thực tế chuyển
dịch – dường như cho đến gần đây đã thành công. Các
cải cách ủng hộ thị trường thời hậu Mao của nhà lãnh đạo Trung Hoa Đặng Tiểu Bình đã củng cố sự ủng hộ vững chắc đối với chế độ và biến Trung Hoa trở thành hình mẫu cho đại bộ phận của phần
còn lại của thế giới. Ông Tập, khi lên nắm quyền, được nhiều người cho là sẽ tiếp tục con đường đó.
Nhưng ông ta không như vậy. Thay vào đó, ông Tập đang cắt đứt khả năng tiếp cận với thế giới bên ngoài, bất chấp các chuẩn mực luật pháp quốc tế và ông còn khuyến khích kiểu ngoại giao “Chiến Sói”, không điều nào trong số đó dường như được tính toán để giành hoặc giữ các đồng minh. Ở quê nhà, ông đang thực thi các biện pháp chính thống, tẩy trắng lịch sử và đàn áp các nhóm thiểu số theo những cách mà các hoàng đế Nga và Trung Hoa không còn tồn tại có thể đã hoan nghênh. Quan trọng nhất, ông đã tìm cách đảm bảo sự đảo ngược này bằng cách bãi bỏ các giới hạn về nhiệm kỳ của chính mình.
Do đó, ẩn số thứ hai của chúng ta là: Tại sao ông Tập hủy bỏ các cải cách, trong
khi từ bỏ sự khôn khéo trong ngoại giao, điều đã cho phép Trung
Hoa trỗi dậy ngay từ đầu?
Có lẽ ông ta lo sợ những rủi ro về việc nghỉ hưu của chính mình, mặc dù những rủi ro này gắn liền với từng đối thủ mà ông đã giam giữ hoặc thanh trừng. Có lẽ ông đã nhận ra rằng đổi mới là đòi hỏi nhưng cũng có thể truyền cảm hứng cho sự tự phát trong đất nước của ông. Cũng có lẽ ông lo lắng rằng các đối thủ quốc tế ngày càng thù địch sẽ không cho phép ông có thời gian vô hạn để đạt được mục tiêu của mình. Và có lẽ ông thấy bản thân của quan niệm phổ biến về trật
tự thế giới trái ngược với sự ủy thác của Thiên đàng, Marx hay Mao.
Hoặc cũng có thể là ông Tập hình dung ra một trật tự thế giới, lấy chủ nghĩa chuyên chế làm cốt lõi, với Trung Hoa là trung
tâm. Ông có thể mong đợi kỹ nghệ sẽ làm cho ý thức của con người trở nên trong sáng như các vệ tinh đã ghi lại bề mặt trái đất trong thời kỳ Chiến Tranh
Lạnh. Ông có thể cho rằng Trung Hoa sẽ không bao giờ xa lánh những người bạn nước ngoài của mình. Còn bên trong Trung Hoa, ông có thể cho rằng sẽ không bao giờ tìm thấy lý do để không trỗi dậy. Còn ông Tập, khi già đi, ông sẽ có được trí tuệ, năng lượng và sự chú ý đến từng tiểu tiết mà chỉ có ông, với tư cách là nhà lãnh đạo tối cao, mới có thể tự tin mà nhận chúng là của mình.
Nhưng nếu ông Tập thực sự tin vào tất cả những điều này, thì ông đã
không để ý đến cái hố ngăn cách giữa lời hứa và sự thực hiện mà từ lâu đã trở thành Catch-22
(1) đối với các chế độ độc tài. Vì nếu ta làm giống như những người tiền nhiệm
của Gorbachev, ta đã bỏ qua những rạn nứt như vậy,
và chúng sẽ chỉ trở nên tồi tệ hơn. Nhưng giả dụ ta giống như chính ông Gorbachev, ta thừa nhận nó, thì ta sẽ làm suy yếu những tuyên bố về sự không thể sai lầm mà tính hợp pháp trong một chế độ chuyên quyền phải dựa vào đó để tồn tại. Đó là lý do tại sao rất hiếm có những cuộc ra đi dễ mến của những
nhà độc tài.
Cội rễ của khả
năng phục hồi
Nền dân chủ ở Mỹ mang những hố ngăn cách giữa lời hứa và kết quả thực hiện, đến mức đôi khi nó dường như bị tê liệt giống như Brezhnev đã phải gánh chịu. Tuy nhiên, Hoa Kỳ khác với Trung Hoa ở chỗ là tại quốc gia này, sự mất lòng tin vào
thẩm quyền thì lại được ủy thác cho hiến pháp. Sự phân quyền đảm bảo một trọng tâm để quốc gia này có thể quay trở lại do đòi hỏi phát sinh từ bất kỳ cuộc bùng nổ nào gây ra do khủng hoảng của các hoạt động. Kết quả là cái mà các nhà sinh học tiến hóa gọi là “trạng thái cân bằng theo từng chặng”: một khả năng phục hồi bắt nguồn từ sự phục hoạt nhanh chóng từ những tình huống không lường trước. Trung Hoa thì ngược lại. Sự tôn kính dành cho các cấp có thẩm quyền đã thấm nhuần vào văn hóa
của họ, nhưng sự ổn định
bị phá vỡ bởi những biến động kéo dài khi quyền lực thất bại. Tiến (Quá) trình phục hồi, khi thiếu vắng một trọng tâm, có thể đòi hỏi hàng thập kỷ. Các lực lượng chuyên quyền thường giành chiến thắng trong các cuộc chạy nước rút, nhưng các nhà đầu tư thông minh lại đặt tiền của họ vào các nền dân chủ trong cuộc đua đường trường. Vậy thì, kiến thức thứ ba mà chúng ta được biết đến là những gốc rễ khác biệt rõ rệt của khả năng phục hồi.
Mô hình này nổi lên rõ ràng
từ hai cuộc nội chiến
tốn kém nhất của thế kỷ XIX. Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc trong giai đoạn 1850-64 đã cướp đi sinh mạng của khoảng
20 triệu người Trung Hoa, tức khoảng 5% dân số. Cuộc Nội chiến Hoa Kỳ
1861-65 đã giết chết 750.000 chiến binh, 2,5% dân số ở một quốc gia thưa dân hơn nhiều. Tuy nhiên, theo lời chứng của các nhà lãnh đạo hiện tại, Trung Hoa sau cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc đã trải qua nhiều thập kỷ hỗn loạn mà nó chỉ thoát ra được qua sự kiện Mao tuyên bố nước Cộng hòa Nhân dân ra đời vào năm
1949. Hoa Kỳ, cũng từ những thiệt hại tương đương, đã phục hồi đủ nhanh để nhập cùng những kẻ săn mồi châu Âu đã biến Trung Hoa thành nạn nhân vào cuối thế kỷ 19 và tiếp tục làm như vậy kể từ đó. Hãy bỏ qua một bên các vấn đề về độ chính xác trong nhãn quan lịch sử này. Quan điểm của chúng tôi là
sự phụ thuộc ngày càng lớn của ông Tập trong câu chuyện này, và chủ nghĩa dân tộc mà nó khơi
lên bao hàm ý tưởng là tính cách dễ bị kích động trong văn hóa Trung Hoa hiện đang có ích cho chế độ – nhưng điều đó có thể không dễ dàng bị dập tắt.
Do đó, ẩn số thứ ba của chúng ta là: Liệu ông Tập có thể bật và tắt được sự phẫn nộ trong nội
bộ, như Mao đã nhiều lần làm trong những năm cầm quyền? Hay là ông Tập đang tự nhốt mình cùng với mối phụ thuộc vào sự thù địch bên ngoài mà, như Kennan đã nói vào năm
1946, nếu không có nó thì Joseph Stalin không biết làm cách nào
để cai trị? Bởi vì, Kennan nhấn mạnh, không gì có thể làm yên lòng
một chế độ như vậy;
chỉ có những thất vọng chồng chất mới thuyết phục được
Stalin hoặc – nhiều phần đúng hơn, là những người kế nhiệm ông, rằng việc thay đổi những mặt tồi tệ nhất của hệ thống chính là cho lợi ích tốt nhất của họ. Tuy nhiên, chiến lược đó lại không phụ thuộc vào việc đặt ra thời hạn cho bên nào: Kennan còn cẩn thận chỉ ra rằng nó sẽ không bao giờ có hiệu quả với Hitler, người có một thời khóa biểu cố định, do chính cái chết của ông ta quyết định, để đạt được mục tiêu của ông ta.
Mao, một cách xảo quyệt, đã cho chế độ của mình 100 năm để lấy lại Đài Loan vào
tay mình. Ông Tập đã loại bỏ việc chuyển giao vấn đề đó từ thế hệ này sang thế hệ khác, mặc dù ông vẫn chưa ấn định ngày giải quyết. Dù sao đi nữa, lời hùng biện hoa mỹ nhưng ngày càng
hung hăng của ông làm tăng thêm nguy cơ vấn đề Đài Loan có thể khiến cuộc chiến tranh lạnh Trung-Mỹ trở nên nóng bỏng, vì Hoa Kỳ đã cố tình làm cho chính sách về Đài Loan của mình không minh bạch. Tất cả những điều đó gợi lên một cách kỳ lạ cái cách mà châu Âu đã tham chiến vào năm 1914: sự mơ hồ trong các cam kết giữa các cường quốc, cộng với việc không có nút để tắt đi sự leo thang.
Một nền hòa
bình lâu dài khác?
Ngoại trừ những điều mà chúng ta đã thâu
lượm được, trong cuộc
Chiến Tranh Lạnh còn có một sự can thiệp đã được biết đến để rút ra bài học: cuộc xung đột đó đã tự nó biến đổi thành một “nền hòa bình lâu
dài” như thế nào. Vào nửa đầu thế kỷ XX đã không có sự ủng hộ ý tưởng là các cuộc xung đột giữa các cường quốc có thể được giải quyết một cách êm thắm. Nhà ngoại giao Mỹ Joseph Grew đã dự đoán vào năm 1945: “Một cuộc chiến trong tương lai với
Nga Xô là
chắc chắn như bất cứ điều gì mà thế giới có thể khẳng định”.
Điều gì đã cho phép các siêu cường trong cuộc Chiến Tranh Lạnh thoát khỏi viễn cảnh đó, và ngày hôm nay những hoàn cảnh đó thích hợp cho diễn tiến này như thế nào?
Joseph
Clark Grew was
an American career diplomat and Foreign Service officer. He is best known as
the ambassador to Japan from 1932 to 1941 and as a high official in the State
Department in Washington from 1944 to 1945.
Một câu trả lời là chính lịch sử trong những năm đó đã trở thành lời tiên tri. Với những gì mà hầu hết các nhà lãnh đạo đã trải qua trong một cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai, thì rất ít nơi nào muốn mạo hiểm lần thứ ba. Nó cũng giúp những người ở Washington và Moscow, có thể vì những lý do khác
nhau, họ coi thời gian như
một đồng minh: người Mỹ vì chiến lược ngăn chặn dựa vào thời gian để ngăn cản tham vọng của Liên Xô,
Stalin vì ông ta mong đợi có thời gian để tạo ra những cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn giữa các nhà tư bản nhằm đảm bảo thắng lợi cách mạng của giới vô sản. Một khi những người kế nhiệm Stalin nhận thức được mức độ của những tính toán sai lầm của ông, thì đã quá muộn để đảo ngược tác động của chúng. Liên Xô đã trải qua phần còn lại của Chiến Tranh Lạnh mà không theo chân kịp.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu những quyết định để tránh cuộc chiến tới đây sẽ phai nhạt với những ký ức của cuộc chiến cuối cùng? Đó là cách một số nhà sử học giải thích về Chiến tranh thế giới thứ nhất: khi ấy một thế kỷ đã trôi qua mà không có cuộc đại chiến nào ở châu Âu. Liệu rằng ba phần tư thế kỷ vừa qua đã tách biệt các nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Hoa khỏi các cuộc chiến tranh vĩ đại của những vị tiền nhiệm hay chưa? Người Mỹ đã có một số kinh nghiệm chiến đấu trong các cuộc xung đột “hạn chế” và “cường độ thấp” mà họ đã tham gia – được kết thúc với những kết quả không giống nhau – nhưng người Trung Hoa, ngoại trừ cuộc xâm lăng ngắn của họ vào Việt Nam năm 1979, đã không đánh trận nào đáng kể trong các cuộc chiến tranh kéo dài hơn nửa thế kỷ. Đó có thể là lý do tại sao ông Tập, với cách hùng biện “bêu đầu sứt trán”, dường như muốn tán dương tính kiên định: chắc ông không biết chi phí của nó có thể cao bao nhiêu.
Cuộc tập trận của
quân đội Đài Loan gần Bình Đông (Pingtung), cực nam Đài Loan, tháng 4 năm 2010 – Nicky Loh / Reuters
Cách thứ hai mà các nhà sử học đã giải thích về “hòa bình lâu
dài” là vũ khí hạt nhân đã dập tắt sự lạc quan về cách các cuộc chiến tranh có thể kết thúc như thế nào. Không làm sao để biết chắc chắn điều gì trong Chiến Tranh Lạnh đã ngăn cản: vì đó là chuyện lịch sử đã không xảy ra. Nhưng bản thân điều này gợi ra một sự thiếu quyết tâm có cân nhắc: qua bất kỳ điều gì mà Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev và Tổng thống Hoa Kỳ John F.
Kennedy đã công bố cho đại chúng biết, thì họ đều không muốn chết cho Berlin. Thay vào đó, họ chấp nhận một thành phố có tường bao quanh bên trong một quốc gia bị cắt nhỏ, ở giữa
một lục địa bị chia cắt. Không một thiết kế vĩ đại nào có thể tạo ra sự kỳ quặc như vậy, và nó vẫn tồn tại cho đến khi cuộc
Chiến Tranh Lạnh kết thúc một cách hòa bình theo cách riêng, nếu không muốn nói là cũng
không bất ngờ. Không điều gì trong số này có thể xảy ra nếu không có sức mạnh của hạt nhân, vì chỉ có nó mới có thể cứu nguy đồng thời ở hai nơi là Washington và Moscow.
Vậy còn Washington và Bắc Kinh thì sao? Ngay
cả với những cải tiến
gần đây, Trung Hoa triển khai ít hơn 10%
số vũ khí hạt nhân mà Hoa Kỳ và Nga còn
giữ lại, và con số đó chỉ bằng 15% so với những gì hai siêu cường đã từng có vào thời kỳ cao điểm của cuộc Chiến Tranh Lạnh. Chuyện
này chẳng có gì là quan trọng hay sao? Chúng tôi
nghi ngờ điều đó, với những gì mà Khrushchev đã đạt được vào năm
1962: mặc dù trong thế bất lợi chín-chọi-một về vũ khí hạt nhân, nhưng ông đã ngăn chặn được cuộc xâm lược vào Cuba mà
Kennedy đã lên kế hoạch sau khi xảy ra vụ Vịnh Con Heo. Kể từ khi đó Hoa Kỳ đã sống với sự bất thường nằm sát bên mình: một hòn đảo cộng sản nằm giữa vùng biển Caribe mà họ (Cuba) tự nhận có quyền kiểm soát.
Ngày nay, càng bất hợp lý hơn nếu Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân để bảo vệ Đài Loan, vì
hòn đảo đó quan trọng đối với Bắc Kinh hơn Cuba hay Berlin trước đây đối với Moscow. Tuy nhiên, sự viển vông đó có thể khiến ông Tập tin rằng ông có thể xâm lăng Đài Loan mà không phải chịu rủi ro một cuộc trả đũa lại bằng hạt nhân của Hoa Kỳ. Khả năng chống vệ tinh và kiểm soát mạng vũ trụ ngày càng tăng của Trung Hoa cũng có thể khuyến khích ông ta, khi có sự gia tăng trở lại của nguy cơ bị tấn công bất ngờ mà cuộc cách mạng do thám của cuộc Chiến Tranh Lạnh
trong nhiều thập kỷ dường như đã giảm bớt.
Nhưng sau đó
thì sao? Tập sẽ làm gì với Đài Loan nếu chiếm được nó? Hòn đảo không phải là Hong
Kong, một thành phố dễ bị kiểm soát. Nó cũng không
phải là Crimea, với một phần lớn dân số mặc nhiên phục tùng. Cũng không phải những hòn đảo lớn khác trong khu vực – như Nhật Bản, Philippines, Indonesia, Úc và New
Zealand – những quân cờ domino nằm bấp bênh. Hoa Kỳ, với khả năng dự phóng sức mạnh vô song của mình, chắc sẽ không “ngồi im chịu trận”, như người Trung Hoa có thể nói: vì vậy ông sẽ để “mập mờ” có nghĩa là
để ngỏ các lựa chọn, không loại trừ bất kỳ phản ứng nào.
Một trong những phản ứng như vậy có thể là để khai thác sự căng thẳng quá mức xuất phát từ việc Trung Hoa đang mở rộng mạnh mẽ các chư hầu của mình, vấn đề tự tạo ra đã từng gây khó khăn cho Moscow. Việc dập tắt “Mùa xuân Praha” là đủ đơn giản đối với Liên Xô vào năm 1968, cho đến khi tinh thần quân đội giảm mạnh khi người Séc nói rõ với những người chiếm đóng rằng họ không cảm thấy “được giải phóng”. Chủ thuyết Brezhnev – cam kết
hành động tương tự ở bất cứ nơi nào mà “chủ nghĩa xã hội” có thể gặp rủi ro – cảnh báo các nhà lãnh đạo của các quốc gia khác nhiều hơn là làm họ an tâm, đặc biệt là Mao, người đã bí mật bắt đầu lên kế hoạch “mở cửa” năm 1971 với Washington. Vào thời điểm Liên Xô viện dẫn lại chủ thuyết này, tại Afghanistan vào năm 1979, họ chỉ còn lại một ít đồng minh ở vài nơi, nhưng
không có ai đáng tin cậy.
Những lời đe dọa của ông Tập gửi đến Đài Loan có thể gây ra tác động tương tự đối với các quốc gia xung quanh Trung Hoa, những quốc gia này có thể tìm kiếm những "cơ hội mở cửa" sang Washington cho riêng mình. Những tuyên bố ngông cuồng của Trung Hoa ở Biển Đông đã làm gia tăng sự lo lắng trong khu vực đó: chúng ta được chứng kiến sự liên kết bất ngờ của Úc với người Mỹ và người Anh về tàu ngầm hạt nhân, cũng như
sự mở rộng hợp tác của Ấn Độ với các đồng minh trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương. Người Trung Á có thể không bỏ qua những cuộc đàn áp của người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur). Bẫy nợ, suy thoái môi trường và các điều khoản trả nợ khó khăn đang khiến người nhận chán nản về các lợi ích của BRI. Và Nga, nguồn gốc ban đầu của những mối
quan tâm vào đầu thế kỷ XX về “vùng đất trung tâm”, giờ đây có thể thấy mình bị bao quanh bởi các “vành đai” của Trung Hoa ở châu Á, đông và đông
nam châu Âu, và thậm chí ở cả Bắc Cực.
Tất cả những điều đó làm gia tăng khả năng kết thúc tình trạng đơn cực của Mỹ không phải bằng tình trạng lưỡng cực Trung-Mỹ bấp bênh mà bằng một trạng thái đa cực đang kiềm chế Bắc Kinh bằng cách quyết định tự nhượng bộ. Cung cách của Metternich và Bismarck rồi sẽ được chấp thuận. Một
Chiến Binh xảo quyệt trong cuộc Chiến Tranh Lạnh của Mỹ, theo gương họ, rồi cũng
hy vọng triển khai một chiến lược tương tự. “Tôi nghĩ đó sẽ là một thế giới an toàn hơn và một thế giới tốt đẹp hơn,” Tổng thống Richard Nixon nói với tạp chí Time vào năm 1972 là “phải chi nếu chúng ta có một Hoa Kỳ, châu Âu, Liên Xô, Trung Hoa, Nhật Bản mạnh
mẽ, cân bằng quyền lực
lẫn nhau”.
Các loại ngạc nhiên
Điều cuối cùng chúng ta biết đến là không thể tránh khỏi những bất ngờ. Các lý thuyết gia nói với chúng ta rằng các hệ thống quốc tế là vô chính phủ, ở chỗ không có thành phần nào bên
trong chúng hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát. Chiến lược có thể làm giảm sự không chắc chắn nhưng sẽ không bao giờ loại bỏ nó: con người dễ bị sai lầm, và trí tuệ nhân tạo chắc chắn cũng sẽ như vậy. Tuy nhiên, có những mô hình cạnh tranh xuyên thời gian và không
gian. Người ta có thể suy ra từ những mô hình này – đặc biệt là từ cuộc Chiến Tranh Lạnh Xô Viết-Mỹ – để thấy các loại bất ngờ có khả năng xảy ra trong chiến tranh lạnh Trung-Mỹ.
Những bất ngờ hiện hữu là sự chuyển dịch trong vòng đấu trường trong đó các cường quốc cạnh tranh nhau, không có ai phải chịu trách nhiệm về chúng nhưng
chúng lại gây nguy hiểm cho cả đôi bên. Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã nghĩ đến điều này khi ông gây ngạc nhiên cho
Gorbachev trong cuộc gặp đầu tiên của họ, vào năm
1985, với tuyên bố rằng một cuộc xâm lược từ sao Hỏa sẽ buộc Hoa Kỳ
và Liên Xô phải giải quyết những khác biệt của họ trong vòng một đêm: Phải chăng vũ khí hạt nhân nguy hiểm không kém hay
sao? Người sao Hỏa vẫn chưa
đến, nhưng chúng ta phải đối mặt với hai mối đe dọa hiện hữu mới:
Sự gia tăng tốc độ biến đổi khí hậu và sự bùng phát gần như chỉ sau một đêm, vào năm 2020, của một đại dịch toàn cầu.
Không có điều gì là chưa từng có. Khí hậu luôn biến động, đó là lý do
tại sao con người đã từng đi bộ từ Siberia đến Alaska. Thucydides đã mô tả bệnh dịch hạch tấn công Athens vào năm 430 trước Công nguyên. Điểm mới là mức độ toàn cầu hóa đã đẩy nhanh những hiện tượng này, đặt ra câu hỏi là liệu các đối thủ địa chính trị có thể hợp tác giải quyết những vấn đề trọng đại đang ngày càng gia
tăng đang làm thay đổi chính họ hay không.
Cuộc Chiến Tranh Lạnh Xô Viết-Mỹ cho thấy rằng hợp tác để tránh thảm họa cần phải không được minh bạch: không có hiệp ước nào quy định rằng vũ khí hạt nhân, sau năm 1945, sẽ không được sử dụng trong chiến tranh nữa. Thay vào đó, những mối nguy hiểm hiện hữu đã tạo ra sự hợp tác ngầm trong đó các hình thức thương lượng chính thức gần như chắc chắn sẽ thất
bại. Biến đổi khí hậu có thể trưng ra những cơ hội tương tự như trong chiến
tranh lạnh Trung-Mỹ, ngay cả khi COVID-19 cho đến nay chỉ thúc đẩy sự suy mòn của Trung Hoa. Vấn đề cần lưu ý là giữ cho các điểm hạ cánh cho các
sự kiện tương đương
như người trên sao Hỏa đổ bộ được mở, không phải để chào đón các vấn đề đang tồn tại mà để khám phá xem liệu các vấn đề này có thể đưa đến những kết quả do hợp tác hay
không.
Bất ngờ có chủ ý bắt nguồn từ nỗ lực của các đối thủ đang cạnh tranh đơn lẻ để làm đối phương của họ giật mình, bối rối hoặc mất tinh thần. Các cuộc tấn công bất ngờ, như ở Trân Châu Cảng, phù hợp với loại này và không bao giờ có thể loại trừ được những thất bại
về tình báo. Tuy nhiên, bất ngờ lớn nhất của cuộc Chiến
Tranh Lạnh lại nảy sinh từ sự đảo cực, mà Mao là bậc thầy. Khi nghiêng về phía đông, vào năm 1949-50, ông đã che mắt chính quyền Truman và mở đường cho Chiến tranh Triều Tiên và một cuộc tấn công của cộng sản ở châu Á. Khi nghiêng về phía Tây, vào những năm 1970-71, ông đã biến Hoa Kỳ trở thành đồng minh trong khi khiến Liên Xô dễ bị tổn thương trên hai mặt trận, một bất lợi mà kể từ đó quốc gia này cho tới nay vẫn chưa khi nào hồi phục được.
Đó là lý do tại sao một người Mỹ “mở cửa” với Moscow một ngày nào đó có thể sẽ chống lại Bắc Kinh. Sự chia rẽ Trung-Xô khi khởi đầu mất hai thập kỷ để phát triển, với việc chính quyền Eisenhower tìm cách đẩy nhanh quá trình bằng cách đẩy Mao vào một mối quan hệ khắc nghiệt song phương với Khrushchev. BRI của ông Tập có thể đang tự thân nó thực hiện điều này với Tổng thống Nga Vladimir Putin, người từ lâu đã phàn nàn về sự “ngăn chặn” của Hoa Kỳ đối với Nga. “Sự ngăn chặn” của Trung Hoa, theo quan điểm của Điện Kremlin, cuối cùng có thể trở thành mối nguy hiểm lớn hơn.
Lễ đặt vòng
hoa tại Mộ Chiến sĩ Vô danh ở Moscow, tháng 5 năm 2015.
Ảnh Sputnik Photo Agency / Reuters
Một dạng bất ngờ có chủ ý khác được cho là đến từ những nước chư hầu nhỏ trên thực tế thì không được như vậy. Cả Washington và Moscow đều không muốn các cuộc khủng hoảng do tranh chấp các đảo ngoài khơi vào những năm 1954-55 và 1958: chính Tưởng Giới Thạch ở Đài Bắc và Mao ở Bắc Kinh đã khiến chúng xảy ra. Những lời cảnh báo của nhà lãnh đạo cộng sản Walter Ulbricht về sự sụp đổ sắp xảy ra ở Đông Đức đã buộc Khrushchev kích động các cuộc khủng hoảng Berlin vào những năm 1958-59 và 1961. Các cường quốc nhỏ hơn đang theo đuổi chương trình nghị sự của riêng mình đã khiến Xô-Mỹ trật đường rầy trong những năm 1970: Ai Cập tấn công Do Thái năm 1973; Cuba bằng cách can thiệp vào châu Phi trong các năm 1975-77; và Hafizullah Amin ở Afghanistan, người được báo cáo có các cuộc tiếp xúc với các quan chức Hoa Kỳ đã kích hoạt một cuộc xâm lược của Liên Xô vào năm 1979 và sau đó tự làm cho mình bại trận. Tuy nhiên, điều này là chưa từng có: Thucydides đã cho ta thấy Corinth và Corcyra đang làm điều gì đó tương tự như người Sparta và người Athen 24 thế kỷ trước.
Walter Ernst Paul Ulbricht was a German communist politician. Ulbricht played a leading role in the creation of the Weimar-era Communist Party of Germany and later in the early development and establishment of the German Democratic Republic in East Germany.
Hafizullah Amin was an Afghan communist
revolutionary, politician and teacher. He organized the Saur Revolution of 1978
and co-founded the Democratic Republic of Afghanistan, ruling Afghanistan as
General Secretary of the People's Democratic Party from September 1979 until
his assassination in December 1979.
Tiềm năng chó nhảy bàn độc trong chiến tranh lạnh
Trung-Mỹ đã quá rõ ràng: những căng thẳng gia tăng ở eo biển Đài Loan là kết quả của những thay đổi trong chính trị Đài Loan trong những năm gần đây cũng như từ những quyết định có chủ ý ở Washington hoặc Bắc Kinh. Và trong khi
Trung Hoa đang, qua BRI, cố gắng
tạo ra một hệ thống tối đa hóa sức mạnh của mình, thì cuối cùng, Trung Hoa có thể sẽ phải chấm dứt xây dựng công trình này, do các mối quan hệ với các chế độ không an toàn và không ổn định, đúng như kiểu phụ thuộc ngược trở lại đã làm phật lòng các siêu cường thời Chiến Tranh Lạnh. Đó có thể là công thức cho sự biến động: lịch sử đầy rẫy những trường hợp mà các tác nhân địa phương lôi kéo các quyền lực lớn hơn.
Cuối cùng, có những bất ngờ mang tính hệ thống. Cuộc Chiến Tranh Lạnh
kết thúc theo cách mà không ai có thể ngờ tới trong thời điểm đó: với sự sụp đổ bất ngờ của một siêu cường và ý thức hệ đi kèm của nó. Tuy
nhiên, hai nhân vật có viễn kiến đã từng thấy trước khả năng như
vậy, là những người sáng lập ra học thuyết đó vào giữa thế kỷ 19: Karl Marx và Friedrich Engels.
Hai ông đã chắc chắn rằng chủ nghĩa tư bản cuối cùng sẽ tự hủy diệt bằng cách tạo ra ngăn cách quá lớn giữa phương tiện để sản xuất và lợi ích mà nó phân phối. Kennan, một thế kỷ sau, đã đảo ngược Marx và Engels. Thay vào
đó – ông nhấn mạnh vào năm 1946-47, cái hố giữa các phương tiện sản xuất và lợi ích được phân phối sẽ dẫn đến sự sụp đổ của
chủ nghĩa cộng sản trong Liên bang Xô Viết và các quốc gia chư hầu sau Thế chiến II. Kennan không đón mừng những gì cuối cùng đã xảy ra vào năm
1990-91: bản thân sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là một sự phá vỡ quá lớn trong cán cân quyền lực ngay cả đối với ông. Nhưng ông đã hiểu là bằng cách nào mà những căng thẳng trong xã hội lại có thể gây bất ngờ lớn như thế cho ngay
cả những người trong cuộc.
Không ai có thể đoán trước được khi nào một trận động đất địa chính trị “mới” có thể xảy ra: động đất địa chất đã đủ khó để có thể lường trước. Tuy nhiên, các nhà địa chất học biết nơi nào có thể xảy ra: đó là lý do tại sao California nhận được cảnh báo động đất nhưng Connecticut thì không. Liệu sự giòn tan của các chế độ độc tài – niềm tin kỳ lạ của họ vào sự bất tử của cấu trúc với sự chỉ đạo từ trên xuống – lại khiến họ bị tổn thương
giống như vậy? Hay sự ngoan cố cố hữu của các nền dân chủ – sự phản kháng của họ chống lại sự đang bị chỉ đạo – thậm chí còn gây ra những mối nguy hiểm lớn hơn cho họ? Chỉ có thời gian mới trả lời được, có lẽ sớm hơn là chúng ta mong đợi.
Chiến lược và sự bất định
Sự tổng hợp những điều đã biết, những điều chưa biết và những điều bất ngờ này khiến chúng ta có sự liên tưởng tương đương mang tính lịch sử của một bài toán ba vật thể: khi dự đoán và điều nghịch lại của nó cùng tồn tại, chúng ta sẽ chỉ biết kết quả khi chúng ta đã nhìn thấy nó. Tuy nhiên, chiến lược không có được điều kiện xa xỉ đó. Thành công của nó đòi hỏi phải sống với những bất ổn, trong đó không bao giờ thiếu những gì tương lai cung cấp. Chiến lược ngăn chặn, mặc
dù không hoàn hảo về thành tích và
đôi khi thất bại thảm hại, nhưng
nó đã điều hợp thành công những mâu thuẫn nội tại trong khi mua được
thời gian cần thiết để những mâu thuẫn trong hệ thống Liên Xô hiện nguyên hình, thậm chí cho đến giai đoạn cuối đã làm lộ mặt các nhà lãnh đạo của chính hệ thống này.
Điều này đã có được chủ yếu là nhờ cách kết hợp sự đơn giản trong quan niệm với sự linh hoạt trong ứng dụng, vì những điểm đến, ngay cả khi thấy nó rõ ràng
nhất, có thể không phải lúc nào cũng
tiết lộ những con đường
sẽ dẫn đến chúng. Chẳng hạn, có thể cần phải hợp tác với Stalin để đánh bại Hitler chăng, hoặc giả với Tito để chống lại
Stalin, hoặc có nên hợp tác với Mao để khiến Brezhnev bối
rối không: không phải mọi ác quỷ đều giống như nhau tại mọi
thời điểm. Việc xây dựng vũ khí cũng
không phải lúc nào cũng xấu hay các cuộc đàm phán
luôn luôn tốt: Eisenhower, Kennedy, Nixon và Reagan đã
sử dụng cả hai để bắt
đầu tiến trình làm biến dạng những kẻ thù đang đối đầu. Kennan thì không tin tưởng vào sự co giãn như vậy khi theo đuổi việc ngăn
chặn, nhưng chính khả năng cơ động này đã đảm bảo chiến lược đến đích một cách an toàn.
Cách thứ hai mà sự ngăn chặn đã đạt thành quả là coi sự thương lượng tự phát như một sức mạnh. Minh ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) là một tổ chức của châu Âu hơn là một tổ chức của Mỹ, trái ngược hẳn với đối thủ do Moscow thống trị, là Khối Warsaw. Ngoài châu Âu, Hoa Kỳ cũng không đòi hỏi sự đồng nhất về ý thức hệ giữa các nước bạn của mình. Thay vào đó, mục tiêu là làm
cho sự đa dạng trở thành vũ khí chống lại một đối thủ đang muốn đàn áp nó: sử dụng sự phản kháng đối với tính đồng nhất được gắn trong lịch sử, nền văn hóa và tín ngưỡng đặc biệt như một rào cản chống lại tham vọng đồng
nhất của những kẻ sẽ trở thành bá chủ.
Còn có một tài sản thứ ba nữa, mặc dù không phải lúc nào cũng có thể có được như vậy vào các thời điểm, là chu kỳ bầu cử của Mỹ. Cuộc thử sức về căng thẳng bốn
năm một lần về khả năng ngăn chặn khiến các kiến trúc sư không khỏi lo lắng, nó làm bận lòng các
chuyên gia hăng say và cảnh báo cho các đồng minh ở nước ngoài, nhưng
ít ra chúng là biện pháp bảo vệ chống lại sự hóa thạch của tư duy. Không có chiến lược dài hạn nào có thể thành công nếu nó cho phép những khát vọng vượt xa khả năng của mình hoặc có khả năng làm hỏng khát vọng đạt mục tiêu của chiến lược. Tuy nhiên, làm thế nào để các chiến lược gia phát triển được sự tự nhận thức – và sự tự tin – để thừa nhận rằng
các chiến lược của họ không hiệu quả? Các cuộc bầu cử, chắc chắn là những công cụ cùn mằn. Tuy nhiên, có nó vẫn tốt hơn là không có phương cách nào để thẩm định lại một cách riêng rẽ bên cạnh yếu tố sụp đổ gây ra bởi những kẻ chuyên quyền già nua, thời điểm mà những người rời bỏ thế giới này không được loan báo cho những kẻ kế tục được biết.
Do đó, ở Hoa Kỳ, không có các hoạt động đối ngoại độc quyền. Bởi vì người Mỹ tuyên bố lý tưởng của họ một cách rõ ràng, họ minh họa sự ra đi của họ một cách sống động hơn tất cả. Những
thất bại trong nước như bất bình đẳng kinh tế, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, suy thoái môi trường và vượt ra ngoài vòng hiến pháp một cách thái quá của thượng tầng lãnh đạo đều được trưng bày cho thế giới xem. Như Kennan đã chỉ ra trong một bài báo đã từng được đăng bản và được trích dẫn nhiều nhất (The Source of Soviet Conduct, tác giả: George F. Kennan, đăng trong Foreign Affairs, số tháng 7/1947): “Sự thiếu quyết đoán, mất đoàn kết và sự tan vỡ nội bộ trong đất nước này” có thể “có hiệu ứng gây phấn khích” cho những kẻ thù từ bên ngoài. Vì vậy, để bảo vệ các lợi ích bên ngoài của mình, “Hoa Kỳ chỉ cần chứng tỏ mình đạt được những truyền thống tốt nhất của riêng mình và
chứng tỏ mình xứng đáng được bảo tồn như một quốc gia vĩ đại”.
Nói thì dễ, nhưng làm thì
không dễ, và lồng trong đó là bài kiểm tra cuối cùng cho Hoa
Kỳ trong cuộc cạnh
tranh với Trung Hoa: sự quản lý kiên nhẫn các mối đe dọa nội bộ đối với nền dân chủ của chúng ta, cũng như lòng khoan dung đối với những mâu thuẫn đạo đức và địa chính trị mà qua đó,
tính đa dạng toàn cầu có thể được bảo vệ một cách khả thi nhất. Nghiên cứu lịch sử là chiếc la bàn tốt nhất mà chúng ta có trong việc định hướng tương lai này – ngay cả khi nó hóa ra không như những gì chúng ta mong đợi và không giống với những gì chúng ta đã trải qua trước đây.
.
Nguyên tác: The New Cold War – America, China, and the Echoes of History
Tác giả: Hal Brands and John Lewis Gaddis
Trích từ: https://www.foreignaffairs.com/articles/united-states/2021-10-19/new-cold-war
Người dịch: Lê Ngọc Vân
______
(1) Chú thích của BBT: Catch-22 là tên tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Hoa Kỳ Joseph Heller, và được đánh giá là 1 trong 3 tiểu thuyết nổi tiếng nhất viết
về cuộc Thế chiến thứ 2. Ra mắt năm 1960, tác phẩm này có một số chi tiết hư cấu đến mức không thể tin được, nhưng đó là dụng ý của tác giả, muốn chỉ trích guồng máy chiến tranh và chế độ tư bản bằng những sự vô lý của nó. Catch-22 trở thành nổi tiếng khi phong trào chống chiến tranh Việt Nam lên cao. Trong văn
chương, thuật ngữ "Catch-22" thường được dùng để chỉ một vấn đề phức tạp hoặc
một tình huống không có lợi hoặc vô lý.
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/thoisu/cuocchientranhlanhmoi.htm
No comments:
Post a Comment