Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ - Đào Văn Bình
https://nhinrabonphuong.blogspot.com/2021/11/oc-hien-nhu-but-cua-ha-long-but-si-ao.html
Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2021
Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ - Đào Văn Bình
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược,
Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên
giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn
Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ
trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên
cứu lịch sử và triết học.
<!>
Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu
chương với những chủ đề: Phật
Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
Tổng Quát:
1) Hiền Như Bụt: Trong tiểu luận này tác giả nói lý do tại sao lại có chữ “Bụt”. Buddha người Việt Giao Chỉ gọi nôm na là Ông Bụt. Mãi sau theo Tàu, thời Minh thuộc (1407-1428) mới gọi là Phật vì người Tàu phiên âm Buddha là Phật Đà. Ông Bụt đi cạnh ông Tiên đi vào đời sống tâm linh của người dân từ những đầu thế kỷ Dương Lịch đã trở thành một triết lý, một tôn giáo dân tộc. Ông Trời hay Tạo Hóa hay Thượng Đế thì cao xa quá còn Ông Bụt gần hơn, thân mật, hiền từ hơn. Triết gia Đức Schopenhauer khi được hỏi là các tôn giáo triết lý Tây Phương có thể thay thế được Đạo Phật ở Á Đông từ Thế Kỷ Thứ 19 đã trả lời, “Không có đạo nào có thể thay thế Đạo Phật ở Đông Phương được vì làm như thế chẳng khác gì bắn một viên đạn lên vách núi cao.”
Arthur Schopenhauer was a
German philosopher. He is best known for his 1818 work The World as Will and
Representation, which characterizes the phenomenal world as the product of a
blind noumenal will.
2) Văn Hóa Hữu Lễ và Mẫu Người Hiền Như Bụt: Qua cách xưng hô của người Việt Nam, Văn Hóa Hữu Lễ bao hàm nghĩa đồng bào. Lễ liền với nhạc là trật tự tiết tấu hài hòa vũ trụ phổ vào trật tự xã hội. Dân chủ Tây Phương từ gốc duy lý đều coi nhẹ tình cảm gia tộc dẫn tới xã hội cá mè một lứa. Trong ngôn ngữ Việt, chữ “Hiền” được dùng nhiều nhất để chỉ định một người tốt như: Mẹ hiền, vợ hiền, cha hiền, anh hiền,
chị hiền, vua hiền, tôi hiền (hiền thần), hiền như Bụt
và ở hiền gặp lành.
3) Đạo Bụt Sáng Nghĩa: Trong Khóa Hư Lục, nhà vua hiền triết Trần Nhân Tông đã
tóm lược con đường tu học
như sau:
Trần Nhân
Tông, personal name Trần Khâm, temple name Nhân Tông, was the third monarch of the
Trần
dynasty, reigning over Đại Việt from 1278 to 1293. After ceding the throne to
his son Trần Anh Tông,
Nhân Tông held the title Retired Emperor from 1294 to his death in 1308.
Lễ Phật giả, kính Phật chi đức.
Niệm Phật giả, cảm Phật chi ân.
Trì
giới giả, hành
Phật chi hạnh.
Khán
kinh giả, minh Phật chi lý.
Tọa thiền giả,
đạt Phật chi cảnh.
Tham thiền giả, hợp Phật chi tâm.
Thuyết pháp giả, mãn Phật chi nguyện.
4) Chết đi về đâu? Tác giả tóm gọn vào một câu, “Dựa trên mức độ tu tập và nghiệp nặng, nghiệp nhẹ, mỗi người
có thể đi vào các cõi: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, A
Tu La, Người, Trời gọi là Lục Đạo.
5) Nghiệp: Đó là hành động lành-dữ của chúng ta trong kiếp trước. Thế nhưng chúng ta có thể tu tập để chuyển nghiệp.
Ta có tự do hành động, ta trồng cây nào thì
ăn quả đó.
6) Cái Gì Luân Hồi?: Tác giả đã dùng một thí dụ rất sống động để nói về luân hồi. “Như một ngọn đèn (hay ngọn nến) cháy từ canh này sang canh khác. Tuy khác nhau, biến dịch mỗi canh nhưng ánh sáng liên tục phát ra. Cũng vậy, không có một linh hồn bất biến trong
con người mà chỉ có tâm thức diễn tiến liên tục. Còn dục vọng thì còn luân
hồi kiếp này kiếp khác. Còn cái để cháy để đốt thì ngọn lửa còn cháy. Còn luyến ái thì vẫn còn mồi cho ngọn lửa cháy liên tục.
7) Chân Không khác Hư Vô: Vào Thế Kỷ IXX, các triết gia Tây Phương
lúc đó chưa hiểu Phật pháp đều cho rằng Phật Giáo theo chủ nghĩa hư vô (nihility). Thế nhưng Hư Vô và Không của Phật Giáo khác hẳn nhau. Hư vô là không có gì hết. Còn tánh không là thể tánh của muôn loài, do duyên khởi mà có hình tướng. Chính vì thế mà trong Không đã Có và thể tánh của Có chính là
Không.
8) Nhân Chủ và Thần Chủ: Theo tác giả, truyền thống Đông Phương không có
đạo giáo nào đưa ra kinh sách bằng “thần khải” như các tôn giáo phát xuất từ thần quyền Trung Đông gồm Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo. Đạo giáo Đông Phương
nghiêng về triết lý (từ trí tuệ mà đi lên)…từ đó không để một ông thần ngồi trên đầu mình mà xây dựng một xã hội Nhân Chủ, con người tự làm chủ vận mệnh của mình, tự do, nhân bản và khai
phóng.
9) Quốc Độ Bồ Tát: Theo tác giả vì Đức Phật nói về quốc độ của nhiều vị Phật như Cực Lạc của Phật
A Di Đà, Đế Thích với 33 tầng trời…cho nên Phật Giáo là hữu thần nhưng không độc thần như Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Truyền thống văn hóa tôn giáo
xứ nào cũng vậy. Nó là một tổng hợp sáng tạo cũ mới, xa gần, nội ngoại.
Vấn đề là có tổng hợp (dung hợp) được không. Tổng hợp được thì với thời gian ngàn năm sẽ thành truyền thống, không được sẽ thành ngoại lai. Ngoại lai thì khó tồn tại bên cạnh tổng thể. Phật Giáo dung hợp được tập tục thờ cúng tổ tiên, Nho Giáo lẫn Đạo Giáo đã có sẳn trong lòng người dân Việt Nam.
10) Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi: Đó là lời di giáo của Phật trước khi nhập niết bàn. Nhìn
dung mạo khác phàm của Phật có người hỏi ngài là người hay thần linh? Đức Phật nói rằng ta không phải là người mà cũng không phải là thần linh mà ta là Bụt. Đạo pháp của bậc đại giác ngộ đó không dựa vào thần linh, không cần tới thế lực, xảo thuật, không cần tới vũ lực gươm giáo vẫn chinh phục được nhân thế kể cả chúng sinh cõi trời và thần linh cõi khác.
11) Chiều Kích Vũ Trụ: Có sự dung thông giữa Phật-Nho-Lão ở khoảng dưới, khoảng giữa và khoảng cao. Nhưng tới mức độ tột
cao thì Đạo Phật vượt lên như một nỗ lực siêu việt.
12) Diệu Âm và Diệu Hương: Điểm đặc sắc của Đạo Phật là dùng nhiều phương tiện để giáo hóa, hoằng pháp trong đó có Diệu Âm và Diệu Hương. Điển hình về Diệu Âm có Quán Thế Âm Bồ Tát nghe tiếng kêu than mà tới cứu khổ. Còn Hương Tích Phật - giáo chủ quốc độ Chúng Hương, dùng mùi thơm kỳ diệu để giáo hóa chúng sinh. Mùi thơm của sen cũng có tác dụng làm chúng ta thanh tịnh để đi vào “bầu trời cảnh Bụt”.
13) Tu Bao Lâu Thì Đạt Đạo?: Tác giả đưa ra câu trả lời qua câu chuyện ngụ ngôn rất vui: Một tu sĩ trẻ trên đường đi tới Hy Mã Lạp Sơn, đi qua làng, dừng lại hỏi cụ bà bán nước bên đường, “Cụ cho tôi hỏi từ đây
đi bao lâu nữa thì
tới chân
núi?” Bà cụ không trả lời. Gạn hỏi thêm hai lần nữa bà cụ cũng làm ngơ. Vị tu sĩ nghĩ bà cụ tai điếc, đành tiếp tục lên đường. Mới đi được một quãng bỗng nghe tiếng bà cụ réo gọi, “Bẩy ngày thì tới.” Vị tu sĩ ngạc nhiên quay qua
hỏi, “Sao con hỏi cụ ba lần cụ không trả lời. Nay mới đi lại nghe cụ gọi?”
Cụ bà trả lời, “Già này phải xem thầy đi nhanh hay đi chậm, có quyết tâm không thì mới trả lời được.”
I. Phật Pháp
Trị Liệu:
Trong 11 trang của chương này tác giả cho biết rất nhiều bác sĩ tâm thần của Tây Phương đã dùng Phật pháp như trị liệu pháp để chữa căn bệnh lan tràn ở Phương Tây đó là các bệnh; Thần kinh tâm trí (neurosis và
psychosis) cả triệu người, lo âu (anxiety
disorders) 12 triệu người ở nước Mỹ, bệnh điên (schizophrenia,
phân ý) 3 triệu người điên khùng rồ dại. Cả thế giới có khoảng 1%-2% tức vài trăm triệu người điên! Tờ New York Times nói rằng chỉ cần chữa phân nửa số bệnh nhân tâm thần ở Mỹ thôi cũng phải tốn kém khoảng 75 tỷ Mỹ Kim. Carl Jung - một bác sĩ Thụy Sĩ nổi tiếng về trị liệu
bệnh tâm thần đã nói rằng, “Nhiệm vụ của tôi là chữa bệnh khổ tâm não vì thế tôi phải làm quen với lối nhìn và phương pháp của bậc vạn thế sư biểu. Là một bác
sĩ tôi xác nhận những giảng dạy của nhà Phật đã
giúp tôi và kích thích tôi hết sức lớn lao. Nếu vậy thì cũng chỉ là noi theo con đường đã vạch ra hơn hai ngàn năm trong dòng tư tưởng của nhân loại.” Vì sống trong lòng Âu Châu Thiên Chúa Giáo, BS Carl Jung đã phải biện minh, “Nếu
lòng
tin Thiên Chúa không chữa được tâm
bệnh thì
có lấy phương pháp
trị liệu từ Phật pháp cũng không có gì là lạ.”
Carl Gustav Jung, was a Swiss psychiatrist and
psychoanalyst who founded analytical psychology. Jung's work has been
influential in the fields of psychiatry, anthropology, archaeology, literature,
philosophy, psychology and religious studies.
Trong chương này tác giả bàn thêm về Khẩu Nghiệp rất nặng của người Việt Nam qua lối
chửi, dè bỉu, chê bai, ví von, khinh bạc người khác, đè người khác qua sự chửi bới thô tục, ác độc…mà nguyên do chỉ vì xã hội bất an, thiếu ăn và thiếu giáo dục. Thậm chí trong
sách vở, thi ca cũng đầy rẫy
những tiếng chửi, ngôn ngữ thô tục, ví von hiểu theo hai nghĩa bị cấm đoán ở các quốc gia khác… nhưng lại được ưa chuộng và kể đi kể lại, truyền tụng tại Việt Nam.
Trong chương này tác giả còn nói thêm về Thiền Định, Thiền Quán là pháp môn tu tập chứ không phải chỉ tụng kinh, cầu nguyện. Rồi tác giả nói về lợi lạc của pháp môn Tịnh Khẩu qua lời Phật khuyên bảo ngài Mục Kiền Liên, “Thầy nên yên lặng như bậc Thánh, chớ sinh buông lung, nên tịnh tâm, không để bất cứ điều gì làm chượng ngại.”
https://www.youtube.com/watch?v=mq8kE22Zh7o
II. Đạo Bụt và
Khoa Học:
Trong chương này, tác giả trình bày tỉ mỉ hai tiểu luận Vạn Pháp Dung Thông và Vật Lý Lượng Tử đi cùng với Diệu Lý Hoa
Nghiêm của nhà Phật.
Trong thế giới của Hoa Nghiệm thì “Tam thiên đại thiên thế giới thu trên
đầu hạt
cải” và “Tất cả chỉ là một và
một là tất cả”.
Với Einstein, “Sự tương đối dạy ta tính dung thông giữa những hình sắc dị biệt của cùng một thực tướng.” Còn Stephen Hawking muốn thống nhất quang lực quantrum với trọng lực trong Lý Thuyết Bao Gồm Tất Cả (A Theory of Everything). Còn Max
Plank, Niels Bohr và Heisenberg- cha đẻ của Cơ Học Lượng Tử, đầu Thế Kỷ XX nói rằng: Lượng tử vừa là hạt vừa là sóng (particle and wave) năng lượng như vậy không liên tục, bất định, không thể một lúc biết được vị trí và xung động của hạt (position and momentum of particle).
Trong khi đó Duy Thức Học của Phật Giáo và trong
Kinh A Di Đà, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm thì “hằng mà chuyển” là quy luật của vạn pháp, vừa thường hằng, vừa biến hóa, vừa là hạt vừa là sóng. Vạn pháp thay đổi trong từng sát-na.
Thế mới hay Đức Phật do Thiên Nhãn và Tuệ Nhãn đã nhìn thấu rõ bản thể của vũ trụ mà hơn 20 thế kỷ sau các khoa học gia mới tìm ra.
III. Bóng Bụt Trong Thơ
Văn Việt Nam và Quốc Tế:
1)Trong cổ thi vùng Trung Đông (Thế Kỷ XII-XVI)
Những thi hào Ba Tư như Omar Khayyam, Hafiz, Rumi…đều theo tông
phái Sufi là tông phái cởi mở của Hồi Giáo và chất chứa nhiều tư tưởng dung hợp với Phật Giáo, nếu không muốn nói là thoát thai từ Phật Giáo. Vì khá
nhiều cho nên tôi chỉ có thể trích dẫn được một bài:
Cần chi phải dạo
vườn hoa.
Bản tâm
cây lá trong ta mọc đầy.
Cánh
sen an trụ tọa đài.
Vạn xuân tuyệt mỹ búp tay vẹn toàn.
2) Thơ
Thiền Xứ Anh Đào:
Có quá nhiều như: Thiền Sư Ryokan, Basho, Shinkichi
Takahashi, Dogen. Tôi chỉ xin trích dẫn một hai bài thơ:
Nói
năng bàn chuyện ích
gì?
Khi
lòng chỉ muốn quên
đi sự đời.
Tôi
mang bình bát xin ăn.
Trùng
trùng cúc nở,
Mênh
mang núi rừng.
Hạt sương đầu cỏ lạnh lùng.
Phải chăng nước mắt côn trùng đêm qua?
(Ryokan1758-1831)
Thế gian ảo ảnh
hơi sương.
Hơi sương ấy thế mà thường khổ đau. (Buson 1715-1783)
3) Bút
pháp phá chấp của Bồ Tùng
Linh Trong Liêu Trai Chí Dị:
Liêu Trai Chí Dị là “Chuyện thật lạ viết ở một căn buồng hiu hắt” của Bồ Tùng Linh (1640-1715) - một văn sĩ nghèo lận đận đời Nhà Thanh.
Sách đã được 30 quốc gia dịch
sang tiếng của họ, kể cả Nga, Tiệp Khắc. Tại Việt Nam, Liêu Trai Chí Dị được cụ Đào Trinh Nhất dịch sang Việt Ngữ năm 1900. Theo tác giả Lưu Văn Vịnh, “Đặc tính sáng tạo chính là tài năng mở rộng cõi thế gian tới vô biên, phá tung biên cương giữa các cõi, các
quốc độ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh,
ma, trời, người, tiên, Bụt…giải thoát tâm tưởng khỏi màn vô minh hẹp hòi biên kiến. Sức hấp dẫn của tuyệt bút Tây Du
Ký và Liêu Trai Chí Dị là ở chỗ đó. Nó như chìa khóa thần đưa độc giả vào thăm chùng chùng thế giới mới lạ dị kỳ, mở toang 8,4000 cánh cửa ngục tù. Càng vào sâu
càng thấy cuộc sống dài ra, rộng ra, sâu thêm, cao thêm…”
4)
Cung Đàn Bạc Mệnh Trong Thung Lũng Ma
Theo sử liệu thì cuộc đời của Cụ Nguyễn Du là một ca khúc đoạn trường. “Năm 10 tuổi cha chết. Năm 13 tuổi mẹ chết. Năm 21 tuổi
anh cả Nguyễn Khản chết. Năm 26 tuổi anh thứ là Nguyễn Quýnh bị quân Tây Sơn giết. Ngoài 30 tuổi vợ đầu chết.” Có lẽ chính nỗi bi thương này mà Nguyễn Du đã phổ cuộc đời mình vào hai nhân vật Đạm Tiên và Thúy
Kiều trong Đoạn Trường
Tân Thanh và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh.
Theo tác giả, “Nhà đạo diễn Nguyễn Du đã đặt chính đời ông vào nhân vật Kiều “chữ tài liền với chữ tai một vần” là câu dành cho đời ông chứ không phải dành cho một kỹ nữ. Ông sống trong cơn lốc tam phân thiên hạ: Lê-Trịnh, Tây Sơn và
Nguyễn Ánh. Ông sống trong nghèo nàn, bốn vợ mười sáu con,
trong bất mãn, “Hàng thần lơ láo phận mình ra sao”. Ông ra
làm quan cho nhà Nguyễn với tâm sự của một nhân sĩ Bắc Hà từng phò Lê và phục Lê như Phạm Thái. “Thế nhưng cuối cùng Nguyễn Du đã “tâm thức hoàn lương an lạc, tìm ra Phật pháp vốn dĩ là một phương pháp tâm lý trị liệu (psychotherapy):
Khắp trong tứ hải quần chu.
Não
phiền trút
sạch, oán
thù rửa xong.
…Nhờ phép
Phật uy linh dũng mãnh,
Trong
giấc mê
khua tỉnh chiêm
bao. (Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh)
Và:
Ngã độc Kim Cương
thiên biến linh.
…Tài
chi vô tự thị chân
kinh.
Kim Cương
Kinh đọc ngàn
lần.
Mới hay không
chữ mới gần chân
kinh.
Cũng trong chương này tác giả còn nói về Phạm Thái nổi danh Chiêu Lỳ say sưa với lý tưởng phục Lê đã đến Chùa Tiêu Sơn
khoác áo thiền sư che dấu hoạt động và Cung Oán Ngâm
Khúc để cho thấy tư tưởng
Thiền, tư tưởng Phật đã thấm vào thi ca Việt Nam trong suốt chiều dài của lịch sử.
Cũng trong chương này tôi thật cảm khái với những dòng tác giả viết khi thăm lại quê hương: “Và tôi đã trở về Thăng
Long sau 39 năm. Mới năm nào
chớm thu, bắt chước người lớn, mắt ứa lệ qua Cầu Long Biên. Hôm nay một ngày tàn thu trở lại mắt đã khô như sa mạc và lòng bình thản nhìn tuồng ảo hóa như một cơn bụi lốc của mê tâm. Những trang kinh Kim Cương, Pháp Hoa …quả có tác dụng giải thoát của nó.
Tôi lần bước bên
Hồ Gươm lối đi học năm xưa, lấy tay sờ lên mấy viên
gạch cổ miếu chỗ vua chúa từng ngồi câu
cá và là chỗ bán
lạc rang nổi tiếng của ông già Tàu thời 1950. Bên kia Vườn Hoa Chí Linh từng chiếc lá vàng rơi lác đác trong cơn mưa phùn.”
Và tác giả cũng đã đi thăm
Chùa Hương để “tìm loài hoa ba nghìn năm mới xuất hiện một lần”. “ Vào một buổi sớm tinh sương, ăn lót lòng bằng một nắm cốm gói lá sen thanh tịnh, tôi đi vào Chùa Hương, qua những con đương
chất đống rơm rạ và những cánh đồng cày sâu quốc bẫm. Trời lại lất phất mưa như bụi
hoa linh diệu trải đầy không
gian- một không
gian thân thuộc, êm
ấm như vòng
tay người mẹ ôm
lấy đứa con thơ – đứa con hư đốn ngỗ nghịch- đứa con ngoan
ngoãn hiền lành, đứa cười đứa khóc.”
IV.Văn Hóa Tam Giáo:
Có bốn vị thánh bất tử trong lòng dân tộc Việt Nam đó là: Thần Núi Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Công Chúa
Liễu Hạnh bắt nguồn từ
thời Hùng Vương, đó là tín ngưỡng bình dân, là Thần Đạo thờ thần sông, thần núi, anh hùng và các nhân vật lạ kỳ. Theo tác giả, tuyển chọn nhân tài ra giúp nước là từ Đạo Nho. Ổn định nề nếp xã hội, gia đình, làng nước cũng là Đạo Nho. Nhưng phong tục, cốt tủy nghìn năm là Đạo Phật. Phật vượt lên trên Khổng-Lão biến thành tâm
linh và tâm thức Việt. Ba nền tảng đạo đức và tôn giáo
đó kết hợp hài hòa trong lòng dân tộc qua cấu trúc của làng quê với Đình Làng, Miếu Đền và Chùa. Tác giả đã dẫn chứng nguồn ca dao trong
lòng người dân như:
Lên
chùa lạy Phật Thích
Ca.
Lạy ông Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.
Bước ra kết nghĩa
cùng nàng.
Túi
anh có nhẫn cho nàng
đeo tay.
Rồi:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ.
Xem Cầu Thê
Húc xem Chùa Ngọc Sơn.
Đài
Nghiên, Bút Tháp chưa mòn.
Hỏi ai xây dựng nên
non nước này?
V. Phương Đông Trước Những Luồng
Gió Tôn Giáo Mới:
Sau khi lược qua những
tranh chấp tôn giáo, cải đạo ráo riết ở các nước có truyền thống Phật Giáo như Nam
Hàn, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam tác giả nhận định: “Tôn giáo là cốt tủy của văn hóa, là mạch máu của chủng tộc là não bộ của quốc gia. Một nước thiếu
thuần nhất về chủng tộc mà có chung
tôn giáo thì vẫn gắn bó keo sơn như các nước Hồi Giáo, Ấn Độ, các nước Âu Mỹ với Thiên Chúa Giáo, Nhật Bản với Thần Giáo và các Thiền Phái.” Và tác giả cũng có cái nhìn thực tế về một số tôn giáo:
“Cho nên hoạt động tôn giáo trên thế gian phần nhiều là sinh hoạt thế tục, che phủ “hình nhi hạ” bằng hào quang “hình nhi thượng” thần thánh mà
thôi.” (Tức nói thần nói thánh nhưng
thực chất là quyền lực và quyền lợi kinh tế, chính trị.)
VI. Chuỗi Ngọc
Kinh Bụt:
Trong chương cuối này tác giả trích một số lời dạy của Phật trong Kinh Pháp Cú, Viên Giác, Kim Cương, Kinh Trung Bộ, Tiểu Bộ Kinh, Kinh Lăng Già, Kinh Pháp Ấn, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Kinh Pháp Hoa,
Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Trường A Hàm.
Tạm Kết Luận:
Trong Lời Bạt tác giả nói rằng, “Là người học Phật, sách này chỉ là vòng ngoài của tri kiến Phật, là những bước đầu còn rất xa trí tuệ cao siêu của bậc đại trí, đại giác.”
Và trong chia xẻ riêng tư, tác giả nói rằng trong Đạo Nho có Nho Sĩ.
Trong Đạo Lão có Đạo Sĩ thì trong Đạo Phật có Bụt Sĩ tức là người học Phật và làm theo Phật. Bụt Sĩ không phải là người xuất gia mà là các thiện tri thức sống đời thường nhưng am hiểu Phật, kính trọng Phật và nỗ lực làm theo những gì mà Phật dạy.
Trong 444 trang tác giả bàn luận về nhiều đề tài kể cả khoa học, y học, tâm lý học, sử Việt và thi ca. Trong nỗ lực trình bày
giáo lý vĩ đại và cao siêu của Phật, điều tác giả muốn gửi gấm là: Học Phật, theo Phật không phải để trở thành ông Thần, ông Thánh
như Đạt Ma Tổ Sư nói với Lương Vũ Đế “Quách nhiên vô thánh”
tức trống rỗng chẳng
có thánh thần gì hết….mà để trở thành một người hiền. Là mẹ thì phải là “mẹ hiền”. Là con thì
phải là “Dâu hiền rể thảo”. Là bạn thì là “bạn hiền”. Là người thì phải là “hiền nhân quân tử”. Nếu là trí thức thì phải là “hiền triết”. Làm quan giúp nước phải là “hiền thần”. Còn nếu tu hành đắc quả thì “hiền như Bụt”. Nếu làm được như vậy thì thế giới này trở thành Cực Lạc Tại Thế mà chẳng cần nhọc công tìm kiếm thiên đường ở đâu xa. Lục Tổ Huện Năng nói rằng “Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”. Tâm Tịnh Độ là tâm hiền. Trong “hiền” có thanh tịnh, trong “dữ” có bợn nhơ.
Có thể nói sách “khế hợp” với mọi trình độ, từ dân giả bình thường tới đại trí thức. Đó là điều khó nhưng cũng là sự thành công của tác giả. Xin chân thành giới thiệu.
Đào Văn Bình
Đào Văn Bình sinh năm 1942 tại Hải Phòng.
Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam.
Năm 1955 quy y Tam Bảo với Hòa Thượng Hải Tràng tại Chùa Phổ Quang, Sài Gòn, được HT ban cho pháp danh là Thiện Quả
Năm 1966 tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa, Đại Học Luật Khoa Sài Gòn.
Năm 1968 tốt nghiệp Cao Học Hành Chánh,
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
Phó Tỉnh Trưởng các Tỉnh Quảng Ngãi, Kiến Hoà.
Sau 30/4/1975 bị giam cầm 9 năm qua các trại tù từ Nam ra Bắc.
Được phóng thích Tháng 5, 1984 tại Trại Tù Xuân Lộc Z. 30 A.
Tháng 10, 1984 vượt biển đến Mã Lai (Đảo Bidong.)
Năm 1989 là một trong 9 thành viên sáng lập Tổng Hội Cựu Tù Nhân
Chính Trị Việt Nam.
Được bầu vào chức vụ Chủ Tịch BCH Tổng Hội Cựu TNCT/VN từ 1993 tới
2005.
(California ngày7/11/2021)
No comments:
Post a Comment