Đi nhận xác Thầy
Đi nhận xác Thầy
Tôn Thất Sang
Kính dâng hương hồn các vị Giáo Sư Đức Quốc:
Giáo Sư Gunther Krainick và Phu Nhân:
- Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Greifswald 1943
- Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Freiburg 1951
- Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954
- Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế
Giáo Sư Raymund Discher:
- Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế
- Trưởng Khu Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế
Bác Sĩ Alterkoster:
- Phụ Tá Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương
- Bác Sĩ thường trú khu Truyền Nhiễm
Là những vị đã đóng góp công lao và tâm trí rất nhiều vào
việc khai sáng Đại Học Y Khoa Huế...
Những vị, với lương tâm chức nghiệp cao quí và lòng vị
tha vô bờ đối với bệnh nhân, đã mãi là gương sáng của chúng tôi.
Những vị đã bỏ mình nơi quê người vì tâm hồn bác ái và
tình nhân loại (Tết Mậu Thân 1968)
***
Lần giở những trang trân trọng đầu tiên của cuốn luận án
Y Khoa; nhìn tên, tước vị của các Giáo Sư người Đức, bỗng nhiên tôi thấy lòng bồi
hồi dâng lên niềm đau xót vô vàn với những tiếc nuối khôn nguôi. Những thương
yêu, kính mến, với biết bao kỷ niệm và lòng tri ân với các vị; đã vì thiện tâm,
chấp nhận hy sinh, xa gia đình, xa bạn bè, xa tổ quốc thân yêu, để đem sở học
và nguyện ước của mình, đi truyền rao để khai hóa tận một xứ sở kém mở mang, xa
xôi hẻo lánh, đầy dẫy hiểm nguy, ở tận bên kia bờ Đại Dương. Ước nguyện của quí
vị thật dễ thương và hiền hòa là làm sao tạo dựng những bác sĩ Y Khoa tài năng,
để đem sở học phục vụ bệnh nhân, phục vụ con người, phục vụ Y đạo ở ngay xứ sở
họ.
Thế nhưng, những hy sinh cao quí, từ những con người nhân
ái đó, đã bị trả một giá quá đắt - bằng chính mạng sống của họ - bởi một chính
quyền gọi là phát xuất từ nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân “chính quyền Cộng
Sản”; đã lạnh lùng ra lệnh thủ tiêu họ, không chút tiết thương, trong biến động
do chúng gây ra, cái gọi là “Mặt trận Toàn dân nổi dậy tổng công kích”vào cố đô
Huế; trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân!?
Hạ tuần tháng 4 năm 1968.
Khoảng gần hai tháng, sau Tết Mậu Thân, cố đô Huế đã được
quân lực VNCH tái chiếm (25 tháng 2 – 1968 dựng lại cờ tại kỳ đài chính của cố
đô Huế; VC khai hỏa trong đêm Giao Thừa 29- 1- 68)
Huế, sau những ngày bị bọn quỉ đỏ tràn ngập, đã nhuộm máu
đào và nước mắt!
Không có phường nào, xã nào, không có xóm nào, không có gia đình nào, là
không có người thân ngã gục, cha xa con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn, hoặc
bằng con dao, hoặc bằng cán cuốc...Có hàng loạt ngưòi bị chôn sống, sau khi bị
cột thành từng “xâu người”, nối kết lại bằng dây dừa, dây điện thoại...
- Nào Phú Thứ oán khí ngất trời, với tiếng khóc và màu tang phủ trắng cánh
đồng!
- Nào chùa Áo Vàng (Tăng Quang Tự), nào lăng Tự Đức.
- Nào Trung Học Gia Hội, với hầm chôn tập thể, nơi mà trường học biến thành
lò sát sinh, nơi mà bọn “phản sư diệt tổ Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân...và Lê Văn Hảo (Chủ Tịch Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ
và Hoà Bình tại Huế), đã triệt để vâng lời bác Hồ dạy: “Trăm năm trồng người” để
chôn sống hàng loạt con người bằng xương bằng thịt với nỗi đau kinh khiếp, rợn
người mà oán khí chất ngất của họ chắc sẽ đời đời theo níu chân bác và gia đình
mà đòi nợ xưong máu!..
- Nào Khe Đá Mài, Bãi Dâu, Tây Lộc... mà mỗi địa danh là một âm vang của
loài quỉ đỏ!
Huế tang thương lầy lội
Huế rách như xơ mướp!
Huế tiêu điều với tường xiêu, mái đổ
Huế với thép gai giăng mắc
Huế như mặt kẻ bị đậu mùa!
Huế với B40, với AK47, với CKC báng đỏ,
Huế đầy nước mắt với khăn tang,
Máu đỏ tanh hôi chảy ngập đàng,
Hoa cúc, mai vàng sao chẳng thấy?
Chỉ còn hoang lạnh với ly tan!
Trong cái cảnh hổn mang ấy, tôi đi giữa kinh thành Huế tang thương, đổ vỡ,
lạc lỏng, bơ vơ, không định hướng như bị mộng du. Tôi đi mà lòng ngậm ngùi
thương tiếc như lạc mất người yêu xưa! Tôi đi, nhìn, nghe, phân vân, bồng bềnh
như trong cơn ác mộng!
Mậu Thân 1968: “Huế đầy nước mắt với khăn tang”
Bỗng tôi hoảng hồn vì tiếng Vespa rít lên bên cạnh, đồng thời với cái vỗ
vai làm tôi giật bắn người:
- Đã biết tin gì chưa?
Tôi định thần nhìn lại, thì ra Đặng Ngọc Hồ, tôi hỏi.
- Tin gì mà có vẻ gấp rút thế?
- Tìm thấy xác của các thầy Krainick, Discher,
Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!
- Trời ơi, có chắc không, ở đâu?
- Nghe đâu gần chuà Tường Vân, phía trên dốc Nam Giao. Rồi
Hồ nói luôn:
- Ban đầu dân họ tưởng Mỹ, họ báo với tiểu khu. Tiểu khu
liên lạc với Lãnh sự Mỹ, thì biết Mỹ tuy có thiệt hại khá nhiều, nhưng không có
mất tích. Sau liên lạc với viện Đại Học mình và với Lãnh Sự quán Tây Đức thì biết
Đức bị mất tích 4 công dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ thì trùng khớp.
Tôi chưa kịp đình thần, thì trong tiếng còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hửu
Út xuất hiện như một cơn lốc trên chiếc xe gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp!
Tôi và Hồ vừa vội vàng nhảy tránh cú lạng vừa nói cho Út biết...Đằng xa lại thấy
Lê Đình Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ tới...
Bọn tôi, vội vàng làm cuộc họp “bỏ túi” trên lề đường Trần
Hưng Đạo, gần chi Thông Tin ở chân múi cầu Trường Tiền, bay giờ đã gãy một nhịp
– vết ô nhục do đoàn cán binh Bắc Việt để lại, khắc một vết nhơ sâu đậm trong
lòng người dân xứ Huế.
Khi đó vào khoảng mười giờ sáng, cái lạnh của những ngày
đầu Xuân len lén như dao cắt vào da thịt, lại thêm cái nắng quái của ngày Xuân,
sao hôm nay lại khác thường, nó nhợt nhạt, vàng vàng, tai tái như da của một
xác chết. Nó như bàn bạc mùi tử khí của một thành phố đang ung mủ, đã có lắm
người chết oan khiên uất hận; chúng tôi chợt nghĩ đến các thầy và thương quá là
thương.
Tôi đề nghị anh Hồ qua tiểu khu hỏi lại tình hình an ninh
vùng đó đã ổn chưa; Còn chúng tôi, lên xe, chở nhau, nhắm vùng Nam Giao trực chỉ.
Một hồi sau, Tiểu Khu cho một tiểu đội, trên chiếc xe
Dodge, với vũ khí đầy đủ đi mở đường, nhắm hướng vùng chùa Tường Vân. Anh Thiếu
úy bảo bọn tôi ngồi chờ ở ngã ba đường Nam Giao, ngả rẻ vào chùa Tưòng Vân để
chờ họ báo tin. Khoảng nửa giờ sau, viên sĩ quan trở lại bảo tình hình an ninh
an toàn, ụ không có mìn bẩy và hiện tiểu đội ông vẫn bám sát địa hình.
Đột nhiên ông buồn bã, ngậm ngùi nói:
- Quân tôi, cùng một số dân trong xóm, đang đào đất, thấy
nhô lên bốn đầu tóc, trong đó có một đầu tóc màu bạch kim, thật tội nghiệp quá!
Bọn tôi nhìn nhau thở dài:
- Chắc là thầy Discher rồi!
Mái tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của người thầy tài ba
thưong mến học trò, xem học trò như con, không ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi đến
xót xa.
Bọn tôi cám ơn viên Sĩ Quan và tất cả lên xe, nhắm hướng
chùa Tường Vân trực chỉ.
Chùa Tưòng Vân nằm về hưóng tây nam núi Ngự Bình (hưóng
Nam Giao, từ phố đi lên), đi quá chùa Sư Nữ một quảng xa thì rẽ phải, con đừờng
mòn đất đỏ, thoai thoải dốc với nhiều ổ gà và nhiều bụi rậm.
Ngôi chùa với mái rêu phong, cỗ kính, chung quanh sân rộng
là những ngọn trúc la đà. Ở giữa là ngọn giả sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa xa, về
phía dưói ruộng là hàng tre bao phủ, xanh ngắt một màu, xen kẻ mấy cây lồ ô,
thân vàng có sọc xanh, dịu dàng lay động trứoc gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn
tôi không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ! Vừa xuống xe tại sân
chùa, đã nghe tiếng cuốc xẻn và thấy vài người dân địa phưong tụm năm tụm ba,
cùng một vài anh em quân nhân đang xúm xít đào bới tận bờ hào tre, cách sân
chùa khoảng 200 mét. Bọn tôi vội vàng chạy lại.
- Tội quá các anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống
nhau. Tụi VC thật quá dã man, côn đồ! tiếng một quân nhân phát biểu.
“... Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại quốc đều
bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết chặc bằng giây điện
thoại truyền tin...”
Tôi vội vàng nhìn theo tay anh chỉ, thấy ba quân nhân
đang cùng một vài ngưòi dân, tay cuốc, tay xẻng, nhẹ nhàng xúc đất và cát lên từ
một chiếc hầm đào vội; bề dài khoảng 3.0m, bề ngang khoảng 1.0m và bề cao khoảng
1.0m, vừa đủ cho thế quì thẳng đứng của một ngưòi ngoại quốc! Trong chiếc hầm
chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau
lưng, bị siết chặt bằng giây điện thoại truyền tin. Nhìn mặt họ đều bị biến đổi.
Thái dưong trái là lổ đạn vào, thái dưong phải là lổ đạn ra, nên bị phá ra
toang hoát; mắt lồi hẳn ra ngoài! Đưòng đi ngọt xớt của viên dạn do chính kẻ
luôn luôn rêu rao lấy lưọng khoan hồng và nhân đạo làm nền tảng để xử thế, đã
làm méo mó, biến dạng những khuôn mặt hiền hoà của các vị thầy chúng ta. Các Thầy
đã “được giải phóng” bởi cái gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam của Bắc Bộ phủ!!!
Chúng đã đang tâm đi “giải phóng” những con ngưòi chỉ biết đem tình thương và
lòng nhân ái ra cứu chữa cho mọi ngưòi bệnh tật, nghèo đói.
Sau đó, chúng tôi cùng nhau, ngươi một tay phụ giúp anh
em chuyển xác quí thầy lên xe của tiểu khu và đưa vào nhà xác của Bệnh Viện
Trung Ương Huế.
“... Các Thầy đã “được giải phóng” bởi cái gọi là Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam của Bắc Bộ Phủ!!!...”
Cả thành phố Huế xôn xao, cả bệnh viện xôn xao! Nhiều
ngưòi đã khóc nức nở. Có nhiều tiếng khóc thầm lặng ở khu nội thưong, phòng cấp
cứu, khu truyền nhiễm, khu nhi đồng…
- Ôi, còn đâu nữa vị Bác Sĩ trưỏng đoàn, luống tuổi, hồn
nhiên, thưong yêu sinh viên, đã luôn luôn tận tụy trong bài giảng, trong lâm
sàn, suốt đêm ngày khám bệnh ở khu Nhi Đồng. Thân mật với sinh viên, vui đùa,
xem như con; chúng tôi thưòng gọi ông là Bon Papa.
Có lần, trong khi chuông reo, chờ giáo sư đổi giờ vào giảng,
chúng tôi thuờng nghịch ngợm “câu giờ”; mặc dầu chuông reo, nhưng chưa chịu vào
lớp. Tôi cùng Lê văn Mộ, Trần Xuân Thắng, Hoàng Thế Định…đứng cheo leo trên mép
thành cửa sổ lầu hai, nói chuyện phiếm. Ông đi lại nhắc nhở:
- C’est l’heure!
Chúng tôi giả bộ không nghe, ông vội trờ tới, nheo mắt, lo lắng mỉm cưòi
nói:
- N’avez vous pas peur de tomber du ciel?
Tôi làm bộ sắp rơi từ cửa sổ đáp:
- Si, mais je veux voler dans le ciel plein de beaux
nuages, mon bon papa.
Ông vội vàng chạy lại, hai tay nhẹ nhàng nhấc bỗng tôi lên, đặt xuống sàn
nhà, hào hển nói:
- Oh, Il faut faire attention, mon pauvre enfant!
Bọn chúng tôi cười sảng khoái vì câu đựoc giờ, ù chạy vào phòng học. Bon
Papa mệt nhọc theo sau!
Còn đâu những kỷ niệm êm đềm bên ngưòi Thầy yêu quí,
ngưòi đã đem hết cuộc đời tận tuỵ để phụng sự khoa học. Lẽ ra Thầy phải về nước
dưõng bệnh một thời gian, sau khi bị cơn bệnh “Japanese Encephalitis” vật vã một
thời, tưỏng như gần “đi đứt”. Tuy nhiên ông đã ở lại vào dịp Tết Mậu Thân nghiệt
ngã và bọn quỉ đỏ đã bắt Thầy cùng vị phu nhân can đảm, yêu thưong chồng, xin
được đi theo để chăm sóc chồng, cho đến ngày cuối cuộc đời thì Bà cũng bị xử bắn
luôn!
Xin vĩnh biệt thầy cùng phu nhân.
Nguyện cầu Thầy cùng phu nhân thanh bình trong cõi vĩnh hằng,
ở nơi không còn hận thù, ở nơi mà bọn quỉ đỏ phải lánh xa.
- Ôi, còn đâu nữa, Bác Sĩ Raymund Discher - ngưòi BS trẻ
tuổi, điềm đạm và trầm tĩnh, vui tính và nhân hậu nhưng nghiêm khắc, ngày đêm ở
khu truyền nhiễm, với tương lai đang rực sáng, Nhớ lại những “Family Party” thầy
và cô thỉnh thoảng mở ra, mời sinh viên một vài lớp đến dự trong căn apartment
nhỏ ấm cúng, bên bờ sông Bến Ngự. Thầy và cô hạnh phúc bên nhau như đôi vợ chồng
mới cưói, thức ăn nhẹ, ruợu chát đỏ, vừa chuyện trò với đám sinh viên và nghe
những tấu khúc bất hủ của Mozart trong không gian của buổi chiều đang tắt nắng,
chỉ còn lại ánh đèn vàng của gian phòng ấm cúng.. Hạnh phúc của thầy cô bình
yên và miên viễn đến chừng nào.
Tuy nhiên định mệnh năm Mậu Thân đã khắc nghiệt cướp đi mạng
sống của người chồng tài hoa. Thầy vừa mới đưa vợ về nước, và đáng lẽ thầy còn
được nghỉ, mọi ngưòi đều khuyên nên ở lại, nói tình hình ngoài Huế không an
ninh, nhưng thầy lại tìm đủ mọi cách ra Huế để giảng dạy sinh viên cho kịp thời
khoá biểu riêng mà thầy đã lập sẳn!
Bọn quỷ đỏ đã nhẫn tâm hành quyết thầy bằng viên đạn
xuyên thái dương đầy thù hận!
Nguyện cầu linh hồn Bác Sĩ Raymund Discher sẽ mãi mãi
bình yên ở chốn vĩnh hằng.
- Ôi, còn đâu nữa Bác Sĩ Alterkoster, ngưòi Bác Sĩ trẻ tuổi,
đẹp trai, tận tâm ở khu truyền nhiễm. Alterkoster với bộ râu quai nón đầy vẻ
giang hồ của một tay hải tặc khí phách “Le Viking”, đôi mắt xanh biếc ánh lên
nét thông minh và nhân từ; nhìn chung rất lôi cuốn và nhất định phải là một
“good guy”. Alterkoster rất thân mật và hoà đồng với sinh viên, ông thưòng rũ
sinh viên lên Kim Long, Thiên Mụ ăn chè, ăn bánh bèo...Tướng ông rất tốt, xem
qua không thể chết yểu được, ngờ đâu lại bại dưới tay “sát thủ” của đảng và
bác!
Nguyện cầu BS. Alterkoster sẽ mãi mãi ở nơi chốn Thiên
Đàng.
Tối hôm đó, chúng tôi, hầu như tất cả các sinh viên Y
khoa còn tại Huế, đều tề tựu đến bệnh viện trung ưong. Từ Đại Học Xá Nam Giao,
trung tâm Xavier, trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Cán Sự Y Tế... các bạn ở mọi nơi
trong thành phố, lần lượt biết tin, tập trung tại phòng trực bệnh viện để phân
chia công việc và trực xác quí thầy, đang tạm quàng tại nhà xác bệnh viện.
Mờ sáng hôm sau, quan tài quí thầy được đưa lên quàn tại
Toà Viện Trưỏng Viện Đại Học Huế.
Sinh viên Y khoa chúng tôi, quần sẩm, áo chemise trắng
dài tay, cravat đen; nghiêm trang vòng tay đứng thành hai hàng, trực bên quan
tài quí thầy. Những tràng hoa phúng điếu rải rác của các Toà Lãnh Sự, các
Trưòng, các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các Phân Khoa bạn...
Thầy Cô và Sinh Viên Y Khoa Huế bên cạnh bia tưởng niệm
các GS, BS đã bị thảm sát trong biến cố Mậu Thân 1968
Đức Tổng Giám Mục Địa Phận Huế Nguyễn Kim Điền chủ tế.
Không khí lắng đọng, cảm xúc và trang nghiêm. Mắt mọi ngưòi đều rưng rưng,
tiếng máy quay phim đều đều, âm thanh trầm buồn như lời nguyện cầu. Đột nhiên,
có tiếng thổn thức ở phía cửa chính, mọi ngưòi xôn xao nhìn ra; nhiều ống kính
hưóng theo, ánh sáng máy ảnh lập loè: Một thiếu nữ, trong bộ đồ đen tuyền, khăn
tang trắng bịt ngang đầu, nức nở lảo đảo tiến vào; hai tay ôm chặt vòng hoa tím
– Couronne Mortuaire – kết cườm đen có đính dãi băng màu tím với giòng chữ trắng
“To You With All My Sacred And Humble Love”. Đức
Tổng Giám Mục lặng lẽ nhìn, nét mặt ngài dịu đi. Mọi ngưòi xúc động bàng hoàng
cùng với nhiều tiếng nức nở. Ai đây? Ngưòi thiếu nữ nhẹ đặt vòng hoa trước linh
cửu của BS. Alterkoster rồi phủ phục xuống, ôm quan tài khóc nức nở!
Mắt tôi mờ đi, cảm xúc đến lặng ngưòi; nhìn người thiếu nữ, không còn trẻ lắm,
với nét thuỳ mị, đoan trang và kín đáo, kín đáo như trong tình yêu thiêng liêng
của chị, thắm thiết và buồn như màu tím của vành Couronne mortuaire. Những giọt
nước mắt xót thương chị đang gởi cho ngưòi mình yêu vừa ngã gục trên mảnh đất của
quê hương nầy. Máu đào của anh, vô tình đã tô thắm lên quê hưong Việt Nam mến
yêu của chị!
Tình yêu của hai người kín đáo và thầm lặng như giòng sông xứ Huế, rất ít
người được biết.
Ở đây, tôi xin phép chị Thảo – vâng, người ấy chính là chị – cho tôi viết
ra điều nầy, phải chăng đó là những kỷ niệm cao quí nhất và thiêng liêng nhất của
cả cuộc đời chị mà tôi tin rằng, nếu mọi người biết đến, cũng sẽ làm tâm hồn họ
thăng hoa, bâng khuâng và xúc động, như khi họ khám phá ra một khu vườn hoa đầy
hương sắc, kỳ bí, mong manh, dễ vỡ. Họ sẽ ngạc nhiên thích thú và trân trọng giữ
gìn...
(Chị là chuyên viên phòng thí nghiệm trường Y, nhưng chị thường lên thư viện
để tìm sách đọc nghiên cứu, và trò chuyện cùng chị Hưòng nên nhiều người cứ tưởng
chị là quản thủ thư viện - là chị Hường).
Sáng hôm sau, hai chiếc máy bay màu trắng bạc “Air
America”đưa bốn quan tài vào phi trường Tân Sơn Nhất. Ở đó, ngoài phái đoàn Đại
Học Y Khoa Huế, còn có phái đoàn của sinh viên Đại Học Y Khoa Saigon chờ đón với
vòng hoa phân ưu và biểu ngữ lên án bọn quỉ đỏ đã ra tay thảm sát những người
làm công việc y tế, chỉ biết phụng sự khoa học, phụng sự nhân loại.
(**) Linh cửu của bốn vị được đưa ra phi cơ về cố quốc trên chiếc xe có bốn
ngựa kéo, theo sau là 250 sinh viên Y Khoa Huế và Saigon, đội đưa tang và đội
quân danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sinh viên cầm biểu ngữ nói lên
lòng biết ơn công lao của quí vị...
Bia tưởng niệm các GS, BS Krainick, Raymund Disher và
ALois Altekoester như trong hình đã bị đập và vất xuống hồ rau muống nằm giữa
trường Y Khoa Huế và trường Cán sự Điều dưỡng sau ngày đất nước thống nhất.
“Qúy Thầy đã bị chôn hai lần (1968 và 1975), nhưng mãi mãi tập thể Y Khoa Huế
không bao giờ quên ơn của qúy Thầy đã góp công xây dựng trường, đào tạo những
Bác Sĩ tài năng và đã hy sinh đời mình cho lý tưởng phụng sự Y đạo ngay trên
quê hương chúng tôi.”
Bs Tôn Thất Sang