Sunday, September 30, 2018

Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) phần 3

(Xin quý vị giữ lại bài viết này trong máy. Đề phòng bản văn bị xoá.)

Bản điều trần của Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA)Về việc đảng Cộng-sản Việt-Nam, Lãnh đạo nhà nước cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc Ngày 10-11-2001

Bí ẩn về việc đảng Cộng-sản lãnh đạo nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ

... (tiếp theo) 
 

Ghi chú đặc biệt của Trần Đại-Sỹ
Sau khi bài lày lộ ra, có 71 bài nghiên cứu cãi nhau về cái tên Nam-quan, xếp bắt tôi phải im lặng, mặc cho họ cãi nhau, kệ họ là thầy bói xem voi. Người thì bảo Nam-quan của Trung-quốc, kẻ thì bảo của Việt-Nam. Rồi họ cãi nhau lung tung về vị trí đích thực của Nam-quan.
Tháng 8-2002 nhân tôi sang Hoa-kỳ (California) thăm thân hữu, bị mấy nữ ký giả truyền hình quay như chong chóng, tôi đã buột miệng nói ra, thôi thì sự đã rồi, bây giờ tôi xin trình bầy ở đây (tôi vốn yếu bóng vía trước các người đẹp).
Có tất cả có 5 "Nam-quan".
 
NAM QUAN THỨ NHẤT, của Trung-quốc (1558-1885)
Hình ải Nam-quan 1558-1885.
Vua Gia-Tĩnh, triều Minh ban chỉ kiến tạo năm 1558, mang tên Trấn Nam-quan, nhưng thường gọi bằng danh tự Nam-quan. Trấn Này nằm giữa hai ngọn núi nhỏ, chặn ngang đường từ Lạng-sơn đi Ung-châu (Nam-ninh). Nằm về phía Nam trấn này 2 dặm là ải Phả-lũy của Việt-Nam. Biên giới Hoa-Việt được kể từ chân ải Nam-quan. Tháng 6 năm Đinh Hợi 1406, tại phía Nam ải này có cuộc tiễn đưa lịch sử giữa Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, rồi có suối Phi-Khanh.
Năm 1884, triều đình Nguyễn ký hiệp ước chịu sự bảo hộ của Pháp. Thiếu-tướng Francois Oscar De Négrier được cử làm tư lệnh vùng biên giới phía Đông của Hoa-Việt. Trong lúc giao thời Pháp-Việt, ải Phả-lũy bỏ không. Quân Thanh tràn sang phá ải, rồi cướp phá vùng Đồng-đăng. Ngày 24 tháng 3 năm 1884, Thiếu-tướng De Négrier tổ chức cuộc hành quân đánh đuổi quân Thanh.  Quân Thanh đại bại, Tổng-binh Sầm Quang Anh bị giết. Ngày đầu năm 1985, Tổng-binh Nùng Mặc Sơn, đem một trung đoàn Thanh tấn công, chiếm đồn Phả-lũy rồi tràn vào Lạng-sơn cướp phá. Tướng De Négrier đem 3 tiểu đoàn (2 tiểu đoàn Pháo-thủ, một Tiểu-đoàn bộ binh thuộc địa), đánh đuổi quân Thanh, giết Nùng Mặc Sơn. Ngày 5-1-1885, chiếm ải Nam-quan, đặt chất nổ san bằng.

NAM QUAN THỨ NHÌ, của Trung-quốc, Việt-Nam (1886-1952)
Sau khi thỏa ước Pháp-Thanh ký, Nam-quan được xây lại bằng ngân sách của chính phủ Đông-dương và Thanh-triều. Ải xây bằng đá mài, mái cong rất đẹp. Trong ải một nửa thuộc Pháp, một nửa thuộc Thanh. Mỗi bên đều có cơ quan Cảnh-sát, lính biên phòng, quan thuế. Tiền tu bổ hằng năm, do ngân sách tỉnh Quảng-Tây và Lạng-sơn đài thọ.  
Biên giới Hoa-Việt được kể từ giữa ải: Nam của Việt, Bắc của Hoa. Thời gian này VN soạn thảo sách giáo khoa Việt-ngữ, bởi vậy mới có câu:
"Nước Việt-Nam hình chữ S chạy từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu"
Trong chiến tranh Quốc-Cộng 1949, ải này bị phá hủy.

NAM QUAN THỨ BA, (Mục Nam-quan) của Trung-quốc (1952-2001)

Hồi chiến tranh Việt-Pháp (1946-2001), sau chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chủ-tịch đảng Cộng-sản Việt-Nam là Hồ Chí Minh sang Trung-quốc cầu viện với Chủ-tịch đảng Cộng-sản Trung-quốc. Hai bên thỏa thuận bằng những hiệp ước mật. Trung-quốc cho xây Mục Nam-quan, lùi vào lãnh địa Việt-Nam. Hình trên, không thấy hai ngọn núi và suối Phi-Khanh đâu. Mục đích việc lùi biên giới này như sau: Vùng phía Bắc Mục Nam-quan tuy là lãnh thổ Việt-Nam, nhưng bây giờ là của Trung-quốc. Như vậy Pháp không dám dùng không quân oanh tạc. Đó là vùng an ninh để Hồng-quân lập các trung tâm huấn luyện quân Việt-Minh. Sau chiến tranh (1954) Trung-quốc giữ luôn. Trong chiến tranh 1960-1975, không quân Hoa-kỳ cũng ê càng không dám oanh tạc khu này.

NAM-QUAN THỨ TƯ, (1952-1979)
Phía Nam Mục Nam-quan mấy trăm thước, chính phủ Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa cũng cho xây một cửa ải nữa, mang tên cửa Hữu-nghị. Tại đây có đầy đủ các cơ quan như: Công-an biên phòng, Hải-quan, Bưu-điện v.v. Trong chiến tranh 1979, Trung-quốc san bằng cái cửa Hữu-nghị này. Chúng tôi không còn lưu trữ được hình ảnh.
Sau chiến tranh, VN cho xây lại một cữa Hữu-nghị khác. Nhưng từ khi ký hiệp định 1999, thì cái Hữu-nghị này phá bỏ. ViệtNam xây cửa Hữu-nghị mới lùi lại sau mấy trăm thước nữa.

NAM-QUAN THỨ NĂM (2001- ?).
Cửa Hữu-nghị mới xây lại năm 2001.
Ảnh chụp tháng 8-2001, cửa Nam-quan cũ lùi lại sau,Cửa Hữu-nghị mới!!!

4.3.2 - Mất cửa ngõ giao thông lịch sử giữa tộc Hoa, tộc Việt.
Tôi đã nhiều lần từ Việt-Nam sang Trung-quốc bằng cửa ải này và ngược lại. Lãnh thổ  Hoa-Việt được phân chia bởi một con sông nhỏ. Đây là cửa họng giao thông của Trung-quốc, Việt-Nam bằng đường bộ. Suốt hơn mấy nghìn năm qua, dân Hoa-Việt giao thương đều qua đây. Chính vì vậy mà con đường quốc lộ xuyên Việt mang tên Quốc-lộ 1, được đánh số cây số Zéro từ đầu cây cầu Nam-quan. Tất cả thư tịch Việt-Nam đều chép rằng:
"Con đường Bắc-Nam khởi từ ải Nam-quan".
Hoặc:
"Lãnh thổ Việt-Nam Bắc giáp Trung-hoa, khởi từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu, theo hình chữ S".
Bây giờ nếu Quý-vị vào Website của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam, Quý-vị sẽ không thấy hàng chữ trên, mà chỉ thấy câu:
"Lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số không ở phía Bắc".

Thưa Quý-vị,
Cái cây số không đó là cây số 1,5 cũ đấy. Cột cây số Zéro bây giờ ở nằm giửa Mục Nam-quan và cửa Hữu-nghị mới. Từ cây số Zéro đến cây số 1, nay thuộc Trung-quốc.
Sát Mục Nam-quan, phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
·        Cơ sở Hải-quan,
·        Bãi đậu cho hằng trăm xe tải, để chờ kiểm soát, chờ làm thủ tục nộp thuế.
·        Cơ sở di trú của Công-an để kiểm soát Passeport,
·        Đồn của quân đội để tuần phòng, bảo vệ lãnh thổ,
·        Hằng chục cơ quan, khác như Bưu-điện, Ngân-hàng, công ty điện, nước.
·        Về phía dân chúng, hằng trăm cửa hàng ăn, nhà ngủ, khách sạn.
Các cơ sở phía Nam thuộc Việt-Nam, trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, quân đội Trung-quốc đã san bằng hết. Kể cả cây cột biên giới.
Tuy vậy sau chiến tranh, đã xây dựng lại hoàn toàn. Từ khi có phong trào mở cửa, đổi mới chính trị, dân chúng cả hai bên đã xây dựng lại khang trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ, và hiện đại hơn  cũ. Nhưng từ khi hiệp định 30-12-1999 ký thì toàn bộ khu này thuộc Trung-quốc. Những cơ sở đó bây giờ được thay bằng một tòa nhà duy nhất. (Hình đính kèm)

Hình chụp từ phía lãnh thổ Trung-quốc mới (VN cũ) sang, căn nhà này là Nam-quan thứ 5, trong nước gọi là cửa khẩu Hữu-nghị của VN (mới)
4.3.3, Mất dân, mất di tích lịch sử.
Đi sâu vào khu vực phía Nam của Nam-quan ít cây số nữa là quận lỵ Đồng-đăng, rồi tới tỉnh lỵ Lạng-sơn. Đây cũng là đất thiêng, khu có di tích văn hóa lịch sử của tộc Việt: Động Tam-thanh, tượng núi Tô-thị, thành của bọn giặc Mạc trên núi. Vùng Lạng-sơn xưa là Thủ-đô của con cháu giặc Mạc Đăng-Dung, mà năm 1540 đã dâng đất cho Trung-quốc, để được bao che cát cứ quân phiệt một thời gian. Trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, hầu như  toàn bộ các cơ sở kỹ nghệ, cầu cống, dinh thự, di tích tôn giáo, lịch sử, cơ sở hành chính, thương mại, kể cả nhà cửa của dân chúng bị san bằng. Chắc Quý-vị cho rằng tôi dùng từ Coventry có đôi chút quá đáng. Thưa Quý-vị từ Coventry cũng chưa đủ để chỉ việc quân đội Trung-quốc đã làm ở Lạng-sơn. Kinh khiếp nhất là động Nhất-thanh, Nhị-thanh, Tam-thanh, họ cũng dùng đại bác bắn vào làm hư hại rất nhiều.
Đi sâu về phía Nam ít cây số nữa là Ải Chi-lăng, nơi mà quân Trung-quốc vượt qua không biết bao nhiêu lần để tiến về thủ đô Thăng-long của Việt-Nam xưa. Tại đây đã diễn ra những trận chiến ác liệt, khiến ít nhất 73 vạn quân của các triều đại Tống, Mông-cổ, Minh, Thanh bị giết. Và cũng tại đây, có không biết bao nhiều tướng của các triều đại trên bị tử trận. Khi quân Việt giết những tướng, dù vào thời kỳ nào chăng nữa thì đầu vẫn bêu tại một mỏm núi, gọi là núi Đầu-quỷ.
Tại ải Chi-lăng, núi Đầu-quỷ đều khắc bia đá ghi lại di tích lịch sử.
Hồi chiến tranh Hoa-Việt 1979, khi các tướng Hồng-quân cho quân tiến đến đây, nghe nhắc chuyện cũ thì họ toát mồ hôi lạnh, phải ngừng lại. May mắn thay khu này vẫn còn thuộc lãnh thổ Việt. (2 hình đính kèm)
Bia lưu niệm Ải Chi-lăng 

Cửa Ải Chi-lăng, yết hầu biên giới vào đồng bằng Bắc-bộ

Trở lại vùng đất mà đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng cho Trung-quốc, dĩ nhiên họ nhượng cả dân chúng nữa. Trong năm nghìn năm lịch sử chiến tranh Hoa-Việt, dân chúng, chiến sĩ tại vùng này là lực lượng đầu tiên chống quân Trung-quốc. Họ phải hy sinh tính mạng, tài sản đầu tiên, khi quân Trung-quốc đánh sang. Có không biết bao nhiêu di tích, huyền sử về núi non, về sông ngòi, về cuộc chiến, về gương anh hùng. Chính quyền các triều đại đều tuyên dương công lao của họ, họ từng hãnh diện đời nọ sang đời kia. Bây giờ vùng này trao cho Trung-quốc, kẻ thù năm nghìn năm của họ. Họ bị mất mát quá nhiều về tinh thần. Họ phải cúi mặt chịu sự cai trị của kẻ thù. Bao nhiêu di tích lịch sử, huyền sử phải phá bỏ, không được nhắc tới. Thương tổn tinh thần quá lớn.
Gần đây nhất, trong chiến tranh 1979, phía Việt cũng như Trung-quốc, chôn trên lãnh thổ mình, dọc theo biên giới mấy chục vạn quả mìn. Sau chiến tranh mới đào lên. Phía Việt lập rất nhiều đồn, hầm, công-sự chiến đấu dọc biên giới thành 4 vòng đai. Mấy chục nghìn chiến sĩ Việt tử trận tại đây. Hiện những cơ sở đó vẫn còn. Trong khu vực này dân chúng, gia đình liệt sĩ đã ghi dấu tưởng niệm thân hân họ. Nay trao cho Trung-quốc, dĩ nhiên các di tích này bị phá hủy. Dân chúng đang là lực lượng chong mặt với kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dĩ. Các vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá nhiều.
 
Ghi chú của IFA
Chúng tôi xin sao nguyên văn bản hiệp ước Pháp-Thanh ngày 26-6-1887 tại văn khố Pháp.
Les Commissaires nommés par:
- Le Président de la République Française,
- et par S.M l'Empereur de Chine,
en exécution de l'article 3 du Traité du 9 Juin 1885 pour reconnaitre la frontière entre la Chine et le Tonkin ayant terminé leur travaux,
Monsieur. Ernest Constans, député, ancien Ministre de l'intérieur et des cultes, commissaire du Gouvernement, envoyé extraordinaire de la République Française,
d'une part, Et S.A.le Prince K'ing, prince du second rang, président du Tsoung-li-Yamen, assisté de S.Exc. Souen-Yu Quen, membre du Tsoung-li-Yamen, premier vice-président du ministère des travaux publics;
Agissant au nom de leurs gouvernement respectifs;
Ont décidé de consigner dans le présent Acte les dispositions suivantes destinées a régler définitivement la délimitation de ladite frontière:
- 1° Les procès-verbaux et les cartes y annexées qui ont été dressées et signés par les Commissaires Français et Chinois sont et demeurent approuvés;
- 2° les points sur lesquels l'accord n'avait pu se faire entre les deux commissions, et les rectifications visées par le deuxième paragraphe de l'article 3 du Traité du 9 Juin 1885 sont réglés ainsi qui suit:
Au Kouang-tong, il est entendu que les points contestés qui sont situes a l'est et au nord-est de Monkạ, au-delà de la frontière telle qu 'elle a été fixée par la Commission de délimitation, sont attribués à la Chine.
Les ỵles qui sont à l'est du méridien de Paris 105° 43' de longitude est, c'est à dire la ligne nord-sud passant par la pointe orientale de l'ỵle de Tch’a Kou ou Ouanchan (Tra-co) et formant la frontière ,sont également attribuées a la Chine. Les ỵles Go-tho et les autres ỵles qui sont à l'ouest de ce méridien appartiennent à l'Annam. Les Chinois coupables ou inculpés de crimes ou de délits qui chercheraient refuge dans ces ỵles , seront, conformément au stipulations de l'article 27 du Traité du 25 Avril 1886, recherchés , arrêtés et extradiés par les Autorités Françaises.
Sur la frontière du Yun-Nan, il est entendu que la démarcation suivra le tracé suivant: De Keou-teou-tchai (Cao-dao-trai) sur la rive gauche du Siao-tou-tcheou-ho (Tien-do-chu-ha), point M de la carte de la deuxième section , elle se dirige pendant 50 lis (20 km) directement de l'ouest vers l'est en laissant à la Chine les endroits de Tsui-kiang-cho ou Tsui-y-cho (Tu-nghia-xa), Tsui-mei-cho (Tu-mi-xa) Kiang-fei-cho ou Y-fei-cho (Nghia-fi-xa), qui sont au nord de cette ligne, à l'Annam celui de Yeou-p'ong-cho (Hu-bang-xa) qui en est au sud, jusqu'aux points marqués Pet Q sur la carte annexe ou elle coupe les deux branches du second affluent de droite de Hoi-ho (Hac-ha) ou Tou-cheou-ho (Do chu-ha).A partir du point Q, elle s'infléchit vers le sud-est d'environ 15 lis(6 km),jusqu'au point R, laissant à la Chine le territoire de Nan-ian (Nam-don) au nord de ce point R; puis à partir de ce dit point remonte vers le nord-est jusqu'au point S,en suivant la direction traçée sur la carte par la ligne R-S,le cours de Nan-teng-ho (Nam-dang-ha) et les territoires de Manmẹ (Man-mi),de Mong-tong-chang-s'oun (Muang-dong-troung-then), de Mong-tuong-chan (Muong-dong-son), de Mong-tuong-tchoung-ts’uon (Muong-dong-truong-thon) et de Meng-tuong-chia-ts'ou (Muong-dong-ha-thon) restant a l'Annam. A partir du point S (Meng-tuong-chia-ts’ou ou Muong-dong-ha-thon), le milieu du Ts'ing-chouei ho (Than thuy ha ) indique jusqu'à son confluent , en T, avec la rivière Claire , la frontière adoptée. Du point T,  son tracé est marqué par le milieu de la rivière Claire jusqu'au point X, à hauteur de Tch'ouan-teou (Thuyen-dan. Du point X, elle remonte jusqu'au point Y, en passant par Paiche-yai (Bach-thach-giai) et Lao-ai-k'an (Lao-hai-kan), la moitié de chacun de ces deux endroits appartenant a la Chine et à l'Annam;ce qui est à l'est appartient à l'Annam, ce qui est a l'ouest à la Chine. A partir du point Y ,elle longe, dans la direction du nord, la rive droite du petit affluent de gauche de la rivière Claire, qui la reçoit entre Pien-pao-kia (Bien-bao-kha) et Pei-pao (Bac-bao) et gagne ensuite Kao-ma-pai (Cao-mabach),point Z ou elle se raccorde avec le tracé de la troisième section.A partir de Long-po-tchai (cinquième section), la frontière commun du Yun Nan et de l'Annam remonte le cours du Long-po-ho jusqu'à son influent avec le Ts'ing-chouei-ho ,marqué A sur la carte; du point A , elle suit la direction générale du nord-est au sud-ouest jusqu'au point B indiqué sur la carte ,endroit ou le Sai-kiang-po reçoit le Mien-chouei-ouan; dans ce parcours ,la frontière laisse à la Chine le cours du Ts'ing-chouei-ho. Du point B, la frontière, la direction est-ouest jusqu'au point C ó elle rencontre le point Teng-tiao-tchiang au dessous de Ta-chou-tchio ; Ce qui est sud de cette ligne appartient à l'Annam, ce qui est au nord ,à la Chine. Du point C, elle descend vers le sud en suivant le milieu de la rivière Teng-tiao-Tchiang jusqu'à son confluent au point D avec le Tsin-tse-ho. Elle suit ensuite le Tsin-tse-ho pendant environ 30 lis et continue dans la direction est-ouest jusqu'au point D ou elle rencontre le petit ruisseau qui se jette dans la rivière Noire (Hei-tciang ou Hac-giang) à l'est du bac de Meng-pang.Le milieu de ce ruisseau sert de frontière du point E au point F.A partir du point F, le milieu de la rivière Noire sert de frontière à l'ouest.
Les Autorités locales Chinoises et les Agents désignés par le Résident générale de la République Française en Annam et au Tonkin seront chargés de procéder a l'abornement, conformément aux cartes dressées et signées par la Commission de délimitation et au tracé ci-dessus. Aux présent actes sont annexées trois cartes en deux exemplaires, signées et scellées par les deux parties. Sur ces cartes, la nouvelle frontière est tracé par un trait rouge et indiquez sur la carte de Yun Nan par les lettres de l'alphabet française et les caractères cycliques Chinois.
Fait a Pékin, en double expédition, le 26 Juin 1887. (Signature et cachet du Plénipotentiaire Chinois)
Signé:Constans
(Cachet de la légation de France à Pékin)

Phụ đính 1
Bản đồ biên giới vùng Nam-quan theo hiệp ước Pháp-Thanh 26 tháng 6 năm 1887
 



4.4 - Vụ cắt lãnh hải.
Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
Từ giữa thế kỷ thứ 19 về trước, chưa từng có việc ấn định rõ lãnh hải Việt-Hoa. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 15, Việt-Nam đã định lãnh hải qua vụ nhà vua sai vẽ Hồng-đức bản đồ. Theo bản đồ này thì các quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) thuộc Đại-Việt. Và hai quần đảo đó đều thuộc Việt-Nam cho đến khi Bộ Chính-trị thời 1958 trao cho Trung-quốc (trên lý thuyết).
Vào những thời kỳ ấy (1500-1887), Thủy-quân cũng như thương thuyền, tầu đánh cá của cả Hoa lẫn Việt chỉ là những thuyền nhỏ, không ra xa bờ biển làm bao, nên chưa có những đụng chạm.
Sau khi triều Nguyễn của Việt-Nam ký hòa ước năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của Pháp; thì người Pháp mới định rõ lãnh hải. Nước Pháp với tư cách bảo hộ Việt-Nam, đã ký với Thanh-triều hòa ước 1887, định rõ lãnh hải trong vùng vịnh Bắc-Việt. Đối với hòa ước này, Việt-Nam đã chịu khá nhiều thiệt hại, vì mất một số đảo, mà dân chúng là người Việt, nói tiếng Việt, mặc y phục Việt, sống trong văn hóa Việt. Cho đến nay (2001), dân trên các đảo này vẫn còn nói tiếng Việt, ẩm thực theo Việt, và dùng y phục Việt. (Chúng tôi đã từng thăm vùng này hồi 1983).
Tuy nhiên với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh Bắc-Việt được phân chia như sau:
·        Trung-quốc 38 %
·        Việt-Nam   62%
Đối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung-hoa và Việt-Nam, họ thấy Thanh-triều chấp nhận 38%, thì cho rằng mình thắng thế. Còn Thanh-triều khi đạt được 38%, họ coi như một món quà trên trời rơi xuống. Vì trong quá trình lịch sử, Trung-quốc vẫn coi vịnh Bắc-Việt là của Việt-Nam.
Chứng cớ:
·        Vùng đất Hợp-phố là đất cực Nam của Trung-quốc, thế nhưng lại có hải cảng Bắc-hải. Bắc đây chỉ có thể là Bắc đối với Việt-Nam. Nếu là đất của Trung-quốc họ phải gọi là thị xã Nam-hải chứ? Rõ ràng vùng này là đất cũ của Việt-Nam.
 
·        Vùng vịnh nằm ở phía Nam Trung-quốc, phía Tây đảo Hải-Nam, phía Đông Bắc Việt-Nam mà Pháp-Hoa ký hòa ước 1887 đó, Việt-Nam gọi là vịnh Bắc-Việt. Trung-quốc cũng gọi là vịnh Bắc-bộ. Cho đến nay (2001), họ cũng vẫn dùng tên đó. Vậy thì rõ ràng vịnh này của Việt-Nam. Nếu của Trung-quốc thì họ phải gọi là vịnh Nam-bộ chứ?

Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 15,
Có sách Tây-phương nào viết về vấn đề này không?
Gs TĐS,
Nhiều lắm, tôi xin cử ra vài tài liệu mới đây:
·        Edward H.H, Schafer trong Shore of Pears (châu Nhai) (Berkley-London 1970),

Tác giả căn cứ vào khai quật, cũng như khảo cổ đã kết luận rằng:

Vào thời Hán, đảo Hải-Nam không có đường thông thương với Trung-quốc. Đảo này thuộc Giao-chỉ. Tất cả thương thuyền đều từ Giao-chỉ tới. (TĐS ghi chú dành riêng cho người Việt: Tôi đã tới Hải-Nam nghiên cứu 2 lần. Tại đây tôi tìm ra nhiều di tích thời vua Trưng, nên trong bộ "Cẩm-khê di hận" tôi đã thuật lại trận chiến giữa Hán-Việt. Nhiều "học giả" ngu dốt, công kích tôi, thấy họ ngu quá tôi không trả lời.)
Cử tọa hỏi câu hỏi thứ 16,
- Xin cho biết việc phân chia lãnh hải Hoa-Việt theo hiệp ước 1887?
Gs TĐS,
Tôi xin chiếu lên để Ngài thấy.
Đảo Hải-Nam, lãnh thổ thời Lĩnh-Nam (vua Trưng) về trước. Hình vẽ trong sách của E.H. Schefer.


( Xem tiếp phần IV )




Saturday, September 29, 2018

Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) phần 2

(Xin quý vị giữ lại bài viết này trong máy. Đề phòng bản văn bị xoá.)


Bản điều trần của Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) Về việc đảng Cộng-sản Việt-Nam, Lãnh đạo nhà nước cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc Ngày 10-11-2001

Bí ẩn về việc đảng Cộng-sản lãnh đạo nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
... (tiếp theo) 
Kính thưa Quý-vị,
Tôi vừa lướt qua vài nét đơn sơ về biên giới Hoa-Việt, về ngoại giao Hoa-Việt trong thời gian 989 năm. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào đầu đề hôm nay, về việc:
·        Đảng Lao-động Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa (VNDCCH, 1945-1975).
 
·        Đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN, 1975-2001)
Nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc gọi tắt là Trung-quốc.

3. VỤ VIỆT-NAM DÂN CHỦ CỘNG-HÒA NHƯỢNG LÃNH HẢI CHO TRUNG-QUỐC.
3.1, Kết quả của văn kiện 14-9-1958.
Ngày 4-9-1958, chính phủ Trung-quốc tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý kể từ đất liền của họ, có đính kèm bản đồ rất rõ ràng. Bản tuyên cáo này chỉ có hai nước công nhận đó là VNDCCH và Bắc Cao (Cộng-hòa Nhân-dân Triều-tiên). Việc VNDCCH công nhận như sau: Ngay khi nhận được bản tuyên cáo do sứ quán Trung-quốc tại Hà-nội trao, Chủ-tịch Hồ Chí Minh triệu tập Bộ Chính-trị đảng Lao-động Việt-Nam (tức đảng Cộng-sản Việt-Nam ẩn danh). Trong buổi họp này toàn thể các thành viên nhất trí chấp nhận bản tuyên bố của Trung-quốc. Ngày 14-9-1958, Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng tuân lệnh Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, gửi văn thư cho Tổng-lý Quốc-vụ viện Trung-quốc (Thủ-tướng) là Chu Ân-Lai, trong đó có đoạn (Văn thư đính kèm 1):
"Chính-phủ nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa tôn trọng quyết định ấy, và sẽ chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng-hòa Nhân-dân Trung-hoa trên mặt biển".


Ngắt đoạn 3,
 
Cử tọa thắc mắc, câu hỏi 3,
Ngoài bản văn này, liệu chúng ta có thể tìm lại một vài chi tiết khác không?
Gs. TĐS,
Thưa Ngài nhiều lắm, nhưng tôi chỉ xin cử vài tài liệu mà thôi:
  1. Bản tin UPI-AFP ngày 23-9-1958.
     
  2. Vụ việc này báo chí Việt-Hoa đều có đăng tải ngày 23-9-1958, Quý-vị có thể tìm tại thư viện Paris, London và cả một số thư viện Trung-quốc (Bắc-kinh), Việt-Nam (Hà-nội). Nội dung UPI- AFP đều đánh đi đại lược:

    "Ngày 22 tháng 9 năm 1958, Đại-sứ của VNDCCH tại Trung-quốc là ông Nguyễn Khang, đã trao công hàm cho ông Cơ Bằng Phi, Thứ-trưởng Bộ Ngoại-giao Trung-quốc. Nội dung như sau:

    Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận Trung-quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển".

     
  3. Tháng 5 năm 1976 (chúng tôi quên ghi ngày), nhật báo Sài-gòn Giải-phóng, cơ quan ngôn luận của Thành-ủy Thành phố Hồ Chí Minh viết một bài xác nhận quần đảo Hoàng-sa, thuộc Trung-quốc. Nguyên văn có câu:

    "Trung-quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là ông thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng-sa thuộc Trung-quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Trung-quốc với là hai nước sông liền sông, núi liền núi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại quần đảo này, Trung-quốc sẽ sẵn sàng giao lại".
     
  4. Sau trận hải  chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988 với Trung-quốc, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng-sản Việt-Nam, tờ Nhân-dân, số ra ngày 26 tháng 4 năm 1988, tự biện hộ về việc nộp lãnh hải của Bộ Chính-trị thời Hồ Chí Minh như sau:

    "Đúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt lại những lời tuyên bố này  trong bối cảnh lịch sử của nó... Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn mình nhiều, Việt-Nam tranh thủ được Trung-quốc gắn chặt với cục chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chận Mỹ sử dụng hai quần đảo cũng như vùng biển Đông chống lại Việt-Nam, thì càng tốt bấy nhiêu".
Kính thưa Quý-vị, tôi xin tiếp tục,
Theo bản tuyên bố này thì những nước liên hệ là:
  • Trung-hoa Dân-quốc (Ðài-loan),
  • Nhật-bản,
  • Hoa-kỳ (hạm đội 7),
  • Phi-luật-tân,
  • Mã-lai,
  • Brunei,
  • Indonésia,
  • VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH).
Thế nhưng từ hồi đó đến nay các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ cho đến các nước Á-châu Thái-bình-dương (ACTBD) không hề để ý đến văn thư trên. Ngay VNCH, bấy giờ cơ quan tình báo được gọi là Sở Nghiên-cứu Chính-trị và Xã-hội, được chỉ đạo bới một trí thức siêu việt, đào tạo tại Pháp là ông Ngô Đình Nhu, mà cũng không để ý tới. Vì đọc bản tuyên bố lãnh hải kể từ đất liền, là 12 hải lý, đúng theo công ước Liên-hiệp quốc họp tại San Francisco năm 1951, thì có chi bận tâm?
Vì sao một người tinh minh, mẫn cán như ông Ngô Đình Nhu mà cũng bị sơ sót?
Bản tuyên bố chỉ đọc trên hệ thống truyền thanh của Trung-quốc, rồi cũng được các báo Trung-quốc đăng lại, mà không có bản đồ đính kèm. Cả thế giới (kể cả Hoa-kỳ, Trung Hoa Dân Quốc, VNCH) cứ nhìn trên bản đồ Trung-quốc cũng như vùng Nam-hải phân định lãnh hải từ 1887 mà cho rằng: theo Quốc-tế công pháp thì lãnh hải hầu hết các nước đều gồm 12 hải lý, kể từ thềm lục địa. Vụ Trung-quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của họ là một sự bình thường. Cái tưởng lầm tai hại đó cho đến nay (11-2001), những người chống đối vụ nhường đất cho Trung-quốc ở trong nội địa Việt-Nam, cũng như hải ngoại chỉ kết tội vu vơ, không rõ ràng, không chứng cớ vì nguyên do không bản đồ này.
Do kết quả không có bản đồ đính kèm của Trung-quốc tuyên bố lãnh hải của họ (gần như trọn vẹn vùng biển Nam-hải, đính kèm), Hoa-kỳ cũng như thế giới không biết (hay không công nhận), nên suốt thời gian 1958-2001:
  • Hạm đội 7 của Hoa-kỳ tuần hành trong vùng lãnh hải tuyên bố này, đầy đe dọa Trung-quốc, mà Trung-quốc vẫn ngậm bồ hòn.
     
  • Chiến hạm của Pháp, Đức, Ý cũng như một số nước Úc, Âu trong thời gian 1975-1980 vẫn tuần hành, hộ tống những con tầu vớt người Việt trốn chạy trong vùng,  mà Trung-quốc đành im lặng.
Hôm nay tôi cần phải trình bày trước các vị và làm sáng tỏ nội vụ.

Kính thưa Quý-vị,
3.2. Những bí ẩn.
Cái bí ẩn đó không có gì lạ cả, rất rõ ràng, rất chi tiết.
  • Về phía các nhà nghiên-cứu Âu-Mỹ, ACTBD không có bản đồ đính kèm bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung-quốc, họ cứ nhìn vào bản đồ đã phân định từ 1887, giữa Pháp và triều Thanh. Họ cũng cứ  nhìn bản đồ của các nước vùng Nam-hải, của Trung-quốc, của Trung-hoa Dân-quốc cũ, rồi cho rằng lãnh hải 12 hải lý thì đúng công ước quốc tế.
Nhưng nếu họ có bản đồ về lãnh thổ đính kèm bản tuyên bố thì họ sẽ toát mồ hôi ra. Vì bản đồ này bao gồm toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc-Việt, toàn bộ các đảo ở biển Nam-hải như Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa). Như vậy nếu tính lãnh hải 12 hải lý, tính từ các đảo này thì:
·        Lãnh hải Trung-quốc ở biển Nam-hải, phía Tây sẽ sát tới bờ biển suốt miền Trung, Bắc Việt-Nam.
·        Phía Đông sát tới lục địa Phi-luật-tân, Brunei,
·        Phía Nam sát tới Indonésia, Mã-lai.
Trở lại với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, bộ Chính-trị đảng Lao-động (Cộng-sản) Việt-Nam và chính phủ VNDCCH hồi 1958, khi các vị ấy có bản tuyên bố lãnh hải của Trung-quốc, thìï cũng có bản đồ chi tiết. Nhưng các vị ấy gửi thư chấp nhận bản tuyên bố đó thì có nghĩa rằng:
Họ đồng ý nhường cho Trung-quốc toàn bộ:
·        Các đảo của Việt-Nam trên biển Nam-hải.
·        Toàn bộ lãnh hải Việt-Nam cách các đảo đó 12 hải lý, nghĩa là toàn bộ biển Nam-hải.


Bản đồ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung-quốc ngày 4-9-1958. Theo bản đồ này thì lãnh hải của họ chiếm hết biển Nam-hải, cách Phan-thiết, Quảng-Nam Mã-lai, Phi-luật-tân có 50 hải lý. Quyết định này được đảng Cộng-sản VN tán thành.
Kính thưa Quý-vị,
3.3 - Bí ẩn vụ Trung-quốc chiếm Hoàng-sa (Tây-sa)
Từ trước đến giờ, có nhiều vị hiện diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng:
·        Tại sao năm 1974, thình lình Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) từ VNCH. Trận chiến diễn ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt hại gấp ba VNCH (về nhân mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ phía Trung-quốc). Nhưng VNCH vì quân ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ. Trong khi Trung-quốc có hỏa tiễn địa-địa, chiến hạm lớn đông gấp bội VNCH. VNCH lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân đội VNDCCH, vì vậy VNCH phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa. Bấy giờ Hoa-kỳ với VNCH có hiệp ước hỗ tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại Việt-Nam, hạm đội 7 hùng hậu đang tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao Hoa-kỳ không can thiệp,  không lên tiếng bênh vực VNCH? Ngay việc  thủy thủ VN, tầu bị chìm, mà hạm đội 7 cũng không vớt theo luật hàng hải Quốc-tế.
 
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 4,
- Xin Gs cho biết trong trận hải chiến này, phía Trung-quốc, VNCH, bên nào nổ súng trước?
Gs TĐS,
- Thưa VNCH. Hải-quân VNCH rất thiện chiến, tác xạ rất chính xác, các sĩ quan đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ, thêm kinh nghiệm VN. Ngay loạt đạn đầu tiên khiến 4 hạm trưởng Trung-quốc tử trận.

Tôi xin trở lại đầu đề:
Vì:
Trong-cuộc mật đàm giữa Hoa-kỳ (Kissinger) và Trung-quốc (Mao Trạch Đông). Phía Trung-quốc trao cho ông Kissinger bản tuyên bố lãnh hải 4-9-1958 cùng bản đồ. Ông Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó. Cho nên ông Kissinger vừa rời Trung-quốc hai ngày, thì ngày 11 tháng 1  năm 1974, Trung-quốc tuyên bố hai quần đảo Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa) là của Trung-quốc, rồi Trung-quốc đem hạm đội xuống  Hoàng-sa. Bấy giờ Hoàng-sa do VNCH trấn đóng.
Vì:
Văn thư của ông Phạm Văn-Đồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc. Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là việc chiếm lại lãnh thổ được văn thư 14-9-1958 công nhận. Nghĩa là Trung-quốc chiếm lại lãnh thổ đã bị VNCH xâm lăng 16 năm.
 
Ngắt đoạn 4,

Cử tọa hỏi, câu hỏi 5, cấm phổ biến.
Về nguồn gốc tài liệu  cuộc mật đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông và Cố-vấn Kissinger. Gs Trần trình bày chi tiết. Toàn bộ cử tọa chấp nhận; nhưng chúng tôi bị cấm không được phổ biến.
 
Sau khi Gs Trần trình bầy, một trong ba vị chủ tọa phát biểu:
Tôi xin bổ túc những gì Gs Trần lướt qua. Bấy giờ (1974) là thời điểm chiến tranh Đông-dương đang diễn ra cực kỳ sôi động, mà tình hình giữa Liên-sô với Trung-quốc cũng căng thẳng cực kỳ. Qua những cuộc mật đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông với Cố-vấn Kissinger; Trung-quốc, Hoa-kỳ đã đi đến những thỏa thuận quan trọng. Rồi Tổng-thống Richard Nixon thăm Trung-quốc.
Chúng ta đều biết sự hiện diện, của Hoa-kỳ tại Đông-dương là ngăn chặn hai mũi dùi Cộng-sản từ Afghanistan, Đông-dương nối với nhau. Bây giờ Hoa-kỳ biết chắc Trung-quốc, Liên-sô không thể hàn gắn lại, khối Cộng bị vỡ làm nhiều mảnh. Vì vậy sự hiện diện của Hoa-kỳ trở thành vô ích, vừa tốn tiền, vừa tốn máu. Cho nên họ muốn rút ra khỏi Đông-dương, dùng Đông-dương làm bình xăng tưới vào ngọn lửa đang thiêu đốt căn nhà ngoại giao Trung-Sô.
Chìa khóa của Đông-dương là Việt-Nam.  Mà tại Việt-Nam, mọi quyết định do Bộ Chính-trị. Chủ-tịch Hồ Chí Minh chết 5 năm rồi, vấn đề tranh quyền đã ngã ngũ, phe chạy theo Liên-sô Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế. Trung-quốc biết rất rõ. Suốt bao năm Trung-quốc cưu mang cho Bắc VN, nay bỗng dưng Trung-quốc mất hết, chỉ còn tay trắng ư? Trung-quốc phải kiềm chế Bắc VN. Thế nhưng Trung-quốc muốn kiềm chế mà không được. Mao tìm cách nắm Cambodge mà bấy giờ Cambodge còn nằm trong tay Bắc VN. Vì vậy Trung-quốc muốn tìm cách dùng Nam VN (VNCH) làm bức tường cản Bắc Việt-Nam (VNDCCH). Trung-quốc tìm cách gần Nam VN bằng hai ngả:
1.     Ngả  thứ nhất: Mật sứ của Trung-quốc tại Londre gặp Đại-sứ Nam VN (VNCH) ngỏ ý cho biết Hoa-kỳ đang muốn trao VNCH cho Bắc VN. Nếu VNCH muốn, Trung-quốc sẽ giúp như sau:  Mặt Bắc, chặn con đường tiếp tế từ đường bộ Liên-sô qua lãnh thổ Trung-quốc. Trung-quốc đem đại quân ép Bắc biên. Mặt Nam tiếp tế vũ khí cho VNCH. Như vậy bắt buộc Bắc VN phải rút quân về.
 
2.     Ngả thứ nhì, Trung-quốc qua mấy nhân vật trí thức VN trong Phong Trào Liên Bang Đông Nam Á (hội tư luật 1901) tại Paris, trực tiếp nói cho Tổng-thống, và Bộ Ngoại-giao VNCH biết rằng: Việc Hồng-quân tiến xuống Trường-sa chỉ là cái cớ để Trung-quốc với VNCH ngồi vào bàn hội nghị. Nhưng không rõ VNCH quan niệm ra sao, mà lại khai hỏa trước.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 6,
- Hồi đầu năm 1974, tôi có đọc trên một tờ báo Anh-ngữ xuất bản tại Hương-cảng tường thuật về trận đánh giữa VN (VNCH) và Trung-quốc ngày 19-1-1974 trong vùng quần đảo Hoàng-sa. Giáo-sư có thể cho biết: Lực lượng tham chiến của hai bên ra sao? (Người đặt câu hỏi nguyên là Đô-đốc)
Gs TĐS,
- Thưa Ngài tôi xin chiếu lên màn ảnh để Ngài thấy.

Về phía VNCH,
1, Lực lượng tham chiến: 4 chiến hạm
·        Khu trục hạm Trần Khánh Dư, ký số HQ4, hạm trưởng là Trung-tá Vũ Hữu San.
·        Tuần dương hạm Trần Bình Trọng, ký số HQ5, hạm trưởng là Trung-tá Phạm Trọng Quỳnh.
·        Hộ tống hạm Nhật-tảo, ký số 10, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Văn Thà. Khi chiến hạm hỏng máy, bị chìm, trong khi tất cả thủy thủ đoàn xuống xuồng chạy, thì ông cương quyết ở lại, chết với tầu của mình. Tuẫn quốc.
·        Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, ký số HQ16, hạm trưởng là Trung-tá Lê Văn Thự.
2, Lực lượng trừ bị,
·        Tuần dương hạm Trần Quốc Toản, ký số HQ6,
·        Hộ tống hạm Chí-linh, ký số HQ11
·        Không quân: Phi -đoàn F5-A37.
Nhưng lực lượng trừ bị Hải-quân ở quá xa chưa kịp can thiệp thì trận chiến đã kết thúc. Không quân thuộc Quân-khu I, không can thiệp. Vì vậy sau trận đánh, Tư-lệnh Hải-quân ra lệnh cho các sĩ quan tham dự, không thuyết trình cho Tư lệnh quân khu I là tướng Ngô Quang Trưởng.
 

Về phía Trung-quốc,
1, Lực lượng tham chiến: 14 chiến hạm
·        Hộ tống hạm Kronstadt, ký số 271, hạm trưởng là Đại-tá Vương Kỳ Uy, tử thương.
·        Hộ tống hạm Kronstadt, ký số 274, hạm trưởng là Đại-tá Quan Đức, tử thương. Đây là soái hạm của chiến dịch. Tư lệnh mặt trận là Đô-đốc Phương Quang Kinh, Tư-lệnh phó hạm đội Nam-hải của Trung-quốc với bộ tham mưu đi trên chiến hạm  này. Khoảng giữa trận chiến, ông cùng bộ tham mưu tử thương (1 Đô-đốc, 4 Đại-tá, 6 Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 sĩ quan cấp úy).
·        Trục lôi hạm, ký số 389, hạm trưởng là Trung-tá Triệu Quát, tử thương.
·        Trục lôi hạm, ký số 396, hạm trưởng là Đại-tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.
·        Phi tiễn đỉnh Komar 133, trang bị hỏa tiễn địa-địa Styx hạm trưởng là Thiếu-tá Tôn Quân Anh,
·        Phi tiễn đỉnh Komar 137, trang bị hỏa tiễn đĩa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Mạc Quang Đại,
·        Phi tiễn đỉnh Komar 139, trang bị hỏa tiễn địa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Tạ Quỳ,
·        Phi tiễn đỉnh Komar 145, trang bị hỏa tiễn địa-địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Như.
·        6 Hải vận hạm chở quân.
2, Lực lượng trừ bị,
  • 2 Tuần dương hạm,
  • 4 Pháo-hạm,
  • 4 Khu trục hạm trang bị hỏa tiễn Kianjiang.
  •  2 Phi đội MIG 19,
  • 2 phi đội MIG 21,
Do chính Đô-đốc Tư-lệnh hạm đội Nam-hải chỉ huy. Chúng tôi không biết tên ông.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 7,
- Tổn thất 2 bên ra sao? (Vẫn vị cựu Đô-đốc trên)
Gs. TĐS,
- Xin mời ngài xem bảng so sánh, tôi chiếu lên.
 
Về phía VNCH,
·        3 chiến hạm bị thương (HQ 4-5-16 bị thương nhẹ, rút về Đà-nẵng, sau khi sửa chữa, lại hoạt động như cũ.)
·        HQ10 bị chìm.
·        Một hạm trưởng tử thương.
 
Về phía Trung-quốc,
·        Tư lệnh mặt trận, bộ tham mưu (1 Đô-đốc, 4 Đại-tá, 6 Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 sĩ quan cấp úy)  và 4 hạm trưởng tử thương,
·        Hộ tống hạm 274 bị chìm.
·        Hộ tống hạm 271,  hai trục lôi hạm  389-396 bị hư hại nặng phải ủi bãi, sau đó phải phá hủy.
·        4 ngư thuyền chở quân bị chìm.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 8,
Cấm phổ biến: Nội dung về nguồn gốc tài liệu tổn thất về phía Trung-quốc.
 
Cử tọa hỏi, câu hỏi 9,
- Tôi nghe Hoa-kỳ trang bị cho VN (VNCH) những vũ khí, cũng như chiến hạm tối tân nhất. Trong khi Giáo-sư chiếu hình 4 chiến hạm tham chiến đều thuộc loại hạ thủy vào thập niên 1940, quá cũ kỹ. Vũ khí cũng vậy. Tại sao VN (VNCH) không đem những chiến hạm, vũ khí tối tân ra tham chiến? (Người đặt câu hỏi nguyên là kỹ sư hàng hải).
Gs TĐS,
- Thưa quả đúng như Ngài nhận xét. Tất cả chiến hạm Hoa-kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc loại phế thải. Thay vì Hoa-kỳ phá hủy, họ tân trang lại rồi trao cho VN. Bốn chiến hạm tham dự trận đánh đều là những chiến hạm tốt nhất mà VN nhận được. HQ4 hạ thủy năm 1943. (Cử tọa bật cười). HQ5 hạ thủy năm 1944. HQ10 hạ thủy năm 1942. HQ 16 hạ thủy năm 1942. Còn vũ khí, cũng có chiến hạm trang bị loại đại bác bắn liên thanh. Nhưng khi trao cho VN thì Hoa-kỳ tháo đi. Dường như Hoa-kỳ đoán trước có cuộc hải chiến này, nên một chiến hạm trang bị loại đại bác trên, tuy đã trao cho VNCH, nhưng bị tháo đi trước đó mấy tháng. Bằng không phía Trung-quốc bị thiệt hại còn nặng hơn nhiều.
Quý vị có biết không? Hộ tống hạm ký số HQ10, giữa trận đánh, máy bị hỏng, do cũ quá chứ không phải bị trúng đạn, vì vậy không di chuyển được, làm bia lĩnh đạn, sau đó bị chìm.
 
Cử tọa hỏi, câu hỏi 10,
- Trong quá khứ, giữa VN với Trung-quốc đã xẩy ra những trận thủy chiến nào? Kết quả ra sao? (Người hỏi nguyên là giáo sư sử Đông-Á)
Gs TĐS,
- Thưa Ngài trong lịch sử 5000 năm của Hoa-Việt, chiến tranh liên miên. Về bộ chiến, kị chiến thì cả hai bên khi khi thắng khi bại. Duy thủy chiến, bao giờ Việt cũng thắng.
 
Cử tọa hỏi câu hỏi 11,
- Xin cho biết những trận nào?
Gs TĐS,
- Trận cổ nhất vào  năm 42 sau Tây-lịch. Chiến địa xẩy ra ngoài biển Đông. Đô-đốc Trung-quốc là Đoàn Chí. Đô-đốc Việt là Trần Quốc, một nữ tướng. (Cử tọa ồ lên). Kết quả hạm đội Trung-quốc bị đánh chìm hết. Đoàn Chí bị giết.
- Hồi đó người Việt theo chế độ mẫu hệ ư?
- Thưa không. Nhưng vị Hoàng-đế cai trị là một phụ nữ. Trong suốt năm nghìn năm lịch sử, đời nào VN cũng có những nữ tướng kiệt hiệt.
- Hiện có còn chứng tích nào về vị nữ Đô-đốc này không?
- Nếu Ngài du lịch VN, xin tới Hà-nội, thuê xe, bảo tài xế đưa đến làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm là nơi có đền thờ bà. Tôi xin chiếu vidéo về đền thờ này. (chiếu vidéo 5 phút).
- Thưa Ngài trận thứ nhì do Vua Ngô (938), trận thứ ba do vua Lê (981), trận thứ tư do Hưng Đạo vương (1288). Cả ba trận sau đều diễn ra trên sông Bạch-đằng, Trung-quốc đều bị bại. Trận 1288 là trận khủng khiếp nhất, bên Trung-quốc do vua Mông-cổ là Hốt Tất Liệt chỉ đạo. Kể từ đó cho đến năm 1974, mới có trận Hoàng-sa.


Đền thờ công chúa Gia-hưng Trần Quốc, đại đô đốc thời Lĩnh-Nam (vua Trưng), tại làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm, Hà-nội.
Bốn chữ đại tự trên là VẠN CỔ ANH PHONG. Có 3 câu đối ở mặt tiền, câu thứ 2 nói lên huân nghiệp của ngài:
Tô khấu tước bình trực bả quần thoa đương kiếm kích,
Trưng vương dực tải hảo tương cân quắc hộ sơn hà.
(Bình giặc Tô Định, đem quần thoa, chống với kiếm kích. Phò Trưng vương, đem khăn yếm giữ non sông)

Đền Kiếp-bạc, thờ Hưng Đạo vương. Bốn chữ đại tự trên là:
DỮ THIÊN VÔ CỰC. Bốn chữ dưới là TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ.

 
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 12,
- Xin cho biết lực lượng hải quân Trung-quốc và Việt-Nam hiện giờ?
Gs TĐS,
- Trình bày chi tiết, cử tọa chấp nhận. Nhưng chúng tôi bị cấm không được  phổ biến.
Tôi xin trở lại với bài điều trần:
- Cũng có vị hỏi tôi rằng: Tại quần đảo Trường-sa (Nam-sa) hiện có quân của Trung-hoa Dân-quốc (Đài-loan), Phi-luật-tân, Mã-lai, Việt-Nam. Thế sao hải quân Trung-quốc luôn khai hỏa vào hải quân Việt-Nam. Quan trọng nhất là trận chiến 14 tháng 3 năm 1988. Việt-Nam chỉ phản đối lấy lệ?
Nay tôi xin thưa:
Do văn thư của ông Phạm Văn-Đồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc.
Lập luận phía Trung-quốc là: Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng đã công nhận vùng này là lãnh hải Trung-quốc, tại sao quân đội Việt-Nam còn hiện diện tại đây? Như thế là Việt-Nam xâm phạm lãnh thổ Trung-quốc. Quân đội Trung-quốc phải đánh đuổi quân xâm lăng, bảo vệ đất nước là lẽ thường. Quân đội Đài-loan đóng tại đây, mà Trung-quốc không tấn công vì quân Đài-loan thì cũng là quân đội Trung-quốc đóng trên lãnh thổ Trung-quốc. Còn Phi, Mã-lai với Trung-quốc đang tranh chấp trên quần đảo này chưa ngã ngũ; thì quân đội của họ hiện diện là lẽ thường. Trung-quốc không thể tấn công họ, vì như vậy là Trung-quốc ỷ lớn hiếp nhỏ.
Đối với vụ việc tranh chấp Trung-quốc, Việt-Nam trên đảo Trường-sa (Nam-sa) đã giải quyết bằng văn thư của Việt-Nam ngày 14-9-1958. Chính vì lý do này mà Trung-quốc chỉ chấp nhận đàm phán về vùng đảo với từng nước, mà không chịu đàm phán chung với tất cả các bên liên hệ. Có nghĩa họ gạt Việt-Nam ra ngoài, vì Việt-Nam đã công nhận các đảo này là của Trung-quốc.

Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 13,
·        Giáo-sư có thể cho biết chi tiết về trận đánh ngày 14-3-1988 không? Tổn thất hai bên như thế nào?
Gs TĐS,
Về phía Trung-quốc dường như không có ai tử thương. Cũng không có chiến hạm nào bị chìm. Về phía VN, thì:
·        1 Chiến hạm Thượng-hải do Trung-quốc viện trợ cho trước đây, bị chìm.
·        1 Tuần dương hạm của VNCH để lại, bị chìm.
·        1 Một hải vận hạm do Nga-sô viện trợ bị chìm.
·        Nhân mạng khoảng trên 300 chết.

Kính thưa Quý-vị, tôi xin trở lại phần điều trần.
3.4 - Về hoàn cảnh Mạc Ðăng Ðung năm 1540
Ta có thể hiểu tại sao giặc Mạc lại làm công việc táng tận lương tâm, ô danh bậc nhất cổ kim trong lịch sử tộc Việt ấy. Vì:
·        Bấy giờ tuy Dung và con cháu đang cai trị Đại-Việt. Nhưng tại Thanh-hóa con cháu nhà Lê đã thiết lập triều đình mới, đang tiến quân về Thăng-long.
 
·        Phía Bắc bị 22 vạn quân Minh dàn ra định tràn xuống đánh. Vì tính mạng bản thân và gia đình, họ hàng bị đe dọa, nên Mạc Đăng-Dung phải đầu hàng Minh triều, rồi cắt đất dâng cho Minh.
3.5 - Về hoàn cảnh đảng Cộng-sản Việt-Nam năm 1958, và chính phủ VNDCCH.
Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản, trong Chính-phủ đều biết rằng:
·        Kể từ năm 1540, sau khi dâng đất cho Trung-quốc, giặc Mạc Đăng-Dung bị lịch sử Việt-Nam kết tội, bị toàn dân nguyền rủa, đến bấy giờ trải 418 năm, chính họ cũng nguyền rủa bọn Mạc.
 
·        Giữa VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH), cả hai bên đều đang lo củng cố xây dựng lại vùng đất của mình sau chiến tranh (1945-1954). Cả hai bên cùng chưa chính thức gây hấn với nhau. VNDCCH không có ngoại thù.
 
·        Trung-quốc không có chiến tranh với VNCDCH. Không có áp lực ngoại xâm.
 
·        Năm 1958, là lúc thịnh thời nhất của Chủ-tịch Hồ Chí Minh, của Đại-tướng Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ này, miền Bắc Việt-Nam vừa trải qua cuộc Cải cách ruộng đất, 246.578 người hầu hết là phú nông, địa chủ, trung nông, các cựu đảng viên không phải của đảng Lao-động (Cộng-sản), dân chúng... bị giết. Nghĩa là toàn miền Bắc dân chúng kinh hoàng, cúi đầu răm rắp tuân lệnh đảng. Không còn kẻ nội thù,
 
·        Nhất là lúc ấy VNDCCH đang kéo cao cờ nghĩa đánh Pháp, chống Mỹ cứu nước. Họ kết tội VNCH là Việt-gian, là Ngụy. Họ phải hết sức giữ gìn để khỏi mất chính nghĩa.
 
·        Thế sao đảng Cộng-sản lại làm cái việc thân bại danh liệt, trở thành tội đồ muôn năm của tộc Việt?
 
·        Bàn về việc ký thỏa ước với nước ngoài, việc nhận đất, nhượng đất phải thông qua Quốc-hội. Bấy giờ VNDCCH cũng có Quốc-hội. Nhưng Quốc-hội không được hỏi đến, không được bàn đến và nhất là không được thông tri. Quốc dân cũng thế. Tất cả thắc mắc này, tôi xin để Qúy-vị suy đoán và trả lời.
3.6 - Một câu hỏi được đặt ra:
Vậy thì vì lý do gì mà đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo Chính-phủ VNDCCH lại nhượng lãnh hải cho Trung-quốc quá dễ dàng? Cho đến nay, tôi cũng không tìm ra lý do thỏa đáng.
Tôi không tìm ra vì:
  • Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam dự buổi hội quyết định nhượng lãnh hải, đều đã từ trần. Các vị trong nội các Phạm Văn-Đồng hồi ấy, không biết nay có ai còn sống hay không? Tôi chỉ biết chắc rằng Đại-tướng Võ Nguyên-Giáp, vừa là Bộ-trưởng bộ Quốc-phòng, vừa là ủy viên Bộ Chính-trị là còn tại thế. Đại-tướng là người có học thức cao nhất bộ Chính-trị, từng là giáo sư Sử-học. Bấy giờ lại là lúc uy tín, quyền hành của Đại-tướng lên tột đỉnh. Vụ ông Phạm Văn-Đồng ký văn kiện này Đại-tướng phải biết. Nay Đại-tướng đang đi vào những ngày cuối cùng của đời người. Nếu sĩ khí, dũng khí của Đại-tướng còn, xin Đại-tướng cho quốc dân biết không? (5)
     
Chú giải, (5)
Sau cuộc cải cách ruộng đất. Thấy dân chúng, cán bộ quá bất mãn. Chủ-tịch Hồ Chí-Minh sợ có biến, vội đưa vụ sửa sai. Nhận thấy bấy giờ duy có Đại-tướng Võ Nguyên Giáp là có uy tín nhất, Bộ Chính-trị tập hợp dân chúng, cán bộ, rồi mời ông ra thay Đảng... xin lỗi.
·        Nếu nói rằng khi ký văn kiện trên, là tự ý Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng thì không thể nào tin được. Vì chính ông Phạm Văn-Đồng từng than rằng: Ông là một Thủ-tướng lâu năm, nhưng không có quyền hành gì, ngay cả việc muốn thay một Bộ-trưởng cũng không được. Vậy thì đời nào ông dám ký văn kiện nhượng đất cho Trung-quốc!
 
·        Ví thử ông Phạm Văn-Đồng tự ý ký văn kiện trên, thì năm 1977 văn kiện ấy lộ ra ngoài. Người Việt hải ngoại từng đem đăng báo, ông Phạm Văn-Đồng hãy còn sống, sao Bộ Chính-trị, Quốc-hội và Chính-phủ không truy tố ông ra tòa về tội phản quốc? Tội này trong hình luật Việt-Nam phải xử tử hình. Thế mà ông ấy vẫn ung dung sống thêm bốn chục năm nữa, đầy quyền hành?
 
·        Liệu những tài liệu, biên bản về buổi họp này có nằm tại văn phòng Bộ Chính-trị, văn phòng bộ Ngoại-giao CHXHCNVN không? Các vị trong Bộ Chính-trị hiện thời có thể công bố cho quốc dân biết không? Nếu quý vị im lặng, thì muôn nghìn năm sau, lịch sử còn ghi: Đảng Cộng-sản bán nước, mà không cầu vinh, cũng chẳng cầu tài; chứ không phân biệt rằng Bộ Chính-trị 1958 bán nước, chứ Bộ Chính-trị 2001 không hề làm việc này.
 
Chúng tôi xin ngừng lời để Quý-vị thắc mắc, trước khi điều trần sang phần thứ nhì.
Không có câu hỏi nào.

Kính thưa Quý-vị,
Bây giờ tôi xin điều trần sang phần thứ nhì, đó là:
4. VỤ NHƯỢNG LÃNH THỔ MỚI ÐÂY.
·        Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999, ký tại Hà-nội giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Mạnh-Cầm với bộ trưởng Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia-Truyền.
 
·        Hiệp định phân định vịnh Bắc-bộ giữa Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000, ký tại Bắc-kinh giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Dy Niên và bộ trưởng Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia Truyền, dưới sự chứng kiến của Chủ-tịch Việt-Nam Trần Đức Lương và Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân.
4.1 - Ai chịu trách nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký trong thời gian 1999-2000. Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
  • Ông Lê Khả-Phiêu làm Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
Ông Trần Ðức-Lương làm Chủ-tịch nhà nước,
Ông Nông Ðức-Mạnh làm Chủ-tịch Quốc-hội,
Ông Phan Văn-Khải làm Thủ-tướng.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trương Ngoại-giao.
Ai chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết, nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Không cần biết người ký là Chủ-tịch Trần Đức-Lương, Thủ-tướng Phan Văn-Khải hay Bộ-trưởng Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm, Nguyễn Dy Niên. Tôi xin khẳng định: Ai ký cũng chỉ là người tuân lệnh Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Những người quyết định là ai?
Ông Phan Văn-Khải, Nguyễn Mạnh-Cầm ư? Hai ông này không có quyền, dù có quyền các ông ấy cũng không dám quyết định. Ông Lê Khả-Phiêu quá yếu, không thể quyết định một mình. Ông Trần Đức-Lương, Nông Đức-Mạnh càng không có quyền gì.
Vì vậy tôi mới quyết đoán rằng vụ này do Bộ Chính-tri đảng Cộng-sản chủ trương. Hiện tất cả các ông trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu vẫn còn sống, rất khỏe mạnh. Khi quyết định nhượng đất, biển cho Trung-quốc các ông ấy đều biết rất rõ rằng:
Tinh thần dân chúng bây giờ không phải như dân chúng hồi 1540. Trình độ dân chủ, phương tiện thông tin của đảng viên, của dân chúng vượt xa hồi 1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê Khả-Phiêu không thể so sánh với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ Chính-trị bây giờ là một mảng, chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi 1958. Các vị trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu điều biết trước rằng: Ký hiệp ước nhượng lãnh thổ trong lúc này không thể bịt miệng, dấu diếm đảng viên cũng như dân chúng. Thế nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì trọng đại lắm. Liệu các ông có thể công bố cho quốc dân biết không?

Đến đây một cử tọa nói bâng quơ, câu hỏi 14
- Không lẽ trong Bộ Chính-trị, mà tìm chẳng ra một người yêu nước ư?
Gs TĐS đáp:
- Tôi tin rằng có rất nhiều người đầy tâm huyết. Song họ không thể bơi ngược dòng thác đổ. Nếu như ở Tây-phương, người nào không đồng ý, có thể từ chức. Nhưng ở các nước Cộng-sản thái độ này bị coi là phản động, tính mệnh khó toàn. Chính những vị này đã tiết lộ tin tức vụ nhượng đất ra ngoài.
Kể từ khi ký, dân chúng, đảng viên không được biết nội dung Hiệp-ước nói gì.
Mãi tới  tháng 2-2001, Thứ-trưởng Ngoại-giao Lê Công-Phụng, người trực tiếp vụ này mới công bố trên Tạp chí Cộng-sản, Quý-vị có thể tìm thấy bài này trên Internet.
Ghi chú (5) của IFA, dành cho bản Việt-Ngữ
Sau khi bài điều trần của chúng tôi bị tiết lộ, báo chí, Internet bình luận sôi sục, thì hai bài này bị xóa bỏ).
 
·        Thời gian ấy (1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át Chủ-tịch Nhà-nước, cũng như Thủ-tướng nhất. Đến nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng chỉ vì nói một câu không mấy lịch sự với người đàn bà có thế lực trong đảng, mà bị bắt giam không lý do, Thủ-tướng không thể can thiệp cho ông ta tại ngoại.
 
·        Quyền gần như nằm trong tay ba ông Cố-vấn là cựu Tổng Bí-thư Đỗ Mười, cựu Chủ-tịch nhà nước Lê Đức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Ba ông này như ba Thái-thượng hoàng thời phong kiến. Tuy mang danh Cố-vấn, nhưng ba ông vẫn còn uy quyền tuyệt đối. Chắc Quý-vị còn nhớ bản điều trần của tôi vào tháng 9-1997, về vụ Tổng-bí thư Đỗ Mười và Thủ-tướng Võ Văn Kiệt mật đàm với Chủ-tịch Giang Trạch Dân. (Xin xem phụ bản 3).
 
·        Cũng trong thời gian ấy, cả thế giới (trừ Trung-quốc) đều có chính sách ngoại giao rất đẹp với Việt-Nam: Hoa-kỳ (Tổng-thống Bill Clinton), Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo đuổi chính sách ngoại giao rất mềm dẻo với Việt-Nam. Nhất là Tổng-thống Clinton ký sắc lệnh bỏ cấm vận Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học Hoa-kỳ, mở cửa cho hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-kỳ. Nói tóm lại thời gian từ nửa năm 1999 cho đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế nguy hiểm nào, đến độ phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được viện trợ vũ khí, để được che chở.
 
·        Cũng thời gian trên, Trung-quốc, Việt-Nam không có tranh chấp lãnh thổ, không có đụng chạm biên giới, không có căng thẳng chính trị, không có chiến tranh.
Vậy vì lý do nào mà các ông ấy cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc?
4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ cắt đất ký ngày 30-12-1999, thì tôi được biết tin chi tiết, do hai ký giả Trung-quốc là bạn với tôi thông báo vào ngày 9-1-2000. Nghĩa là 10 ngày sau. Nhưng mãi đến ngày 14-2-2000, tôi mới có bản hiệp ước bằng cả hai thứ tiếng Việt, Hoa. Theo tinh thần bản hiệp định thì:
  • Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nươc), quan trọng nhất là vùng thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.
  • Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là:
     
    • Nhượng vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên giới.
       
    • Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan. (6)
       
Ghi chú, (6) của IFA.
IFA chúng tôi có nguyên văn hai bản Hiệp-định này bằng Hoa-văn, Việt-văn. Hiện đảng Cộng-sản cũng như nhà nước VN, giữ kín 2 bản văn này, đến nỗi cấp Bộ-trưởng, Đại-sứ, Ủy-viên Trung-ương đảng bộ cũng không có, nhiều vị không biết gì cả. Nhiều người Hoa-Việt gửi thư xin hai bản Hiệp-định này, chúng tôi cũng như Gs. Trần không thể thỏa mãn, vì cho thì vi phạm tác quyền. Chúng tôi không muốn gây hấn với đảng Cộng-sản của Trung-quốc và Việt-Nam. Vậy Quý-vị muốn có, xin hỏi tác giả là bộ Chính-trị đảng CS, bộ Ngoại-giao Trung-quốc cũng như bộ Chính-trị và bộ Ngoại-giao Việt-Nam. 
Đây là cuộc điều trần rất vô tư, Gs Trần giữ đúng ngôn từ ngoại giao, không hề có lời lẽ công kích, hay nhục mạ đối với đảng Cộng-sản và nhà nước Trung-quốc cũng như Việt-Nam. Mục đích của cuộc điều trần chỉ để thính chúng hiểu uyên nguyên sự thực mà thôi. Đường lối ngoại giao của Liên-Âu và của chính phủ Pháp đối, Việt-Nam rất mềm dẻo, chưa từng có hành động hay ý tưởng gây khó khăn cho nước Pháp thoại này. Chúng tôi (IFA), và Gs. Trần cũng phải tuân hành nghiêm chỉnh.
 
Về con số lãnh thổ
Ngày 1-2-2002, Ngài Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại-giao VN, đặc trách vụ việc đàm phán với Trung-quốc có lên tiếng với báo chí qua cuộc phỏng vấn của nữ ký giả xinh đẹp Thu-Uyên (trên Web. Vasc Orient, http://www.Vnn.Vn ) rằng giữa Hoa-Việt có 227 km2 cần giải quyết tranh chấp. Chúng tôi hiểu là Ngài Lê Công-Phụng muốn nói 227 km2 hiện phải thảo luận. Còn những vùng mà Trung-quốc đóng quân, được nhượng dần dần từ 1947 đến giờ thì không tính. Nay hiệp định ký chỉ để hợp thức hóa truyện đã xẩy ra mà thôi. Có lẽ cách tính này của Ngài Lê Công-Phụng cao minh hơn, giản dị hơn chúng tôi. Vì chúng tôi tính theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, cho nên con số của chúng tôi là 789 km2. Sai biệt tới 562  km2. Khi công bố con số này, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã phải tính toán chi li, kiểm đi kiểm lại. Cách tính căn cứ vào ba bản đồ:
·        Ngay khi có bản hiệp định 30-12-1999 Hoa-Việt, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã căn cứ vào bản đồ mới nhất của Trung-quốc đính kèm Hiệp-định. Xin nói thêm là bản đồ của Trung-quốc, Việt-Nam (cs), và các nước Cộng-sản theo hệ thống khác. Chúng tôi phải đổi, thành hệ thống UTMû lệ xích 1/25000.
 
·        Lại so sánh với bản đồ của Sở địa chánh thời Pháp (1900-1955) (service géographique de l'Indohine) đã đổi ra tỷ lệ xích 1/25000 hệ UTM. Tức là bản đồ theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, sau đó được thi hành nghiêm túc suốt thời gian 1987-1955. Bản đồ này rất đúng, bằng cớ là trong chiến tranh Đông-dương, quân đội Pháp và Quốc-gia Việt-Nam đã dùng cho Pháo-binh, Không-quân tác xạ, rất chính xác.
 
·        Trong chiến tranh 1960-1970, VNCH có hẳn một Nha Địa-dư Quốc-gia tại Đà-lạt. Cơ quan này căn cứ vào đường phân ranh của Pháp, rồi  sửa đổi những biến đổi do thời gian, do khí hậu, được vệ tinh Hoa-kỳ chụp không ảnh trao cho để vẽ lại. Hồi trước 1975 quân đội VNCH, Hoa-kỳ, Đại-hàn, Thái-lan, Úc-đại-lợi, Tân-tây-lan; đã dùng cho Pháo-binh tác xạ, Không-quân oanh tạc rất chính xác.
Sau khi đo, chúng tôi tìm thấy có  789 Km2 trước kia thuộc lãnh thổ Việt, nay theo hiệp ước 30-12-1999 thuộc Trung-quốc. Trong khi những bài công kích của đối lập  ở trong nội địa VN gửi ra là 720 km2, sai biệt với con số của chúng tôi là  69 km2. Còn theo Đại-tá Quân-đội CHXHCNVN Bùi Tín thì con số là 900 km2. Phải hiểu rằng Đại-tá Bùi Tín là người từng qua lại biên giới Hoa-Việt nhiều lần, ông lại lớn tuổi, không thể đưa ra con số hàm hồ. Nhưng tại sao lại có sự sai biệt:
·        Con số của Ngài Lê Công-Phụng và Đại-tá Bùi Tín 673 km2 (227-900).
·        Con số của Ngài Lê Công-Phụng và đối lập trong nước 493 km2 (227-720).
·        Của chúng Ngài Lê Công Phụng với chúng tôi (IFA) 562 km2 (227-789).
 
Chúng tôi xin giải đoán:
·        Về con số của đối lập trong nước, hẳn họ căn cứ vào bản đồ hiệp định trên bộ như chúng tôi, rồi so sánh với bản đồ thời Pháp dùng cho học sinh, nhưng họ đo bằng lối ước tính trên giấy, kém chính xác một chút,  bản đồ ấy theo hệ thống UTM, trong khi bản đồ của hiệp định theo hệ thống CS.
 
·        Về con số của Đại-tá Bùi Tín chúng tôi giải đoán: giữa biên giới Hoa-Việt có 5 khu đất 29,300km2, 26,750 km2, 17,400km2, 21,003 km2, 16.547km2, vào thời Nguyễn; Nguyễn-Thanh coi như của chung, để cho hai bên dân chúng trao đổi hàng hóa (như vùng Andora của Pháp-Tây Ban Nha, không thuộc nước nào). Sau hiệp ước 1887 và 1895 tình trạng vẫn không thay đổi. Nhưng trên thực tế, Hoa coi là của Hoa, Việt bảo rằng của Việt. Trong chiến tranh 1945-1954 cac khu này thuộc Trung-quốc, nhưng trên pháp lý vẫn là của chung. Nay đảng Cộng-sản VN nhượng cho  Trung-quốc, nên Đai-tá Bùi coi như VN mất đứt khu này.
 
Về hang Pakbo

Hình chụp cửa hang Pak-bo. Hồi chiến tranh Hoa-Việt (1979) Hồng-quân Trung-quốc đã phá hủy tất cả di vật, cũng như cửa hang này.
Về hang Pak-bó, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đo, kể từ biên giới cũ, đến cửa hang là: 50.035 m. Nay biên giới mới chỉ còn cách cửa hang có 1.511 m. Bản tin của Câu-lạc-bộ sinh viên (http://dungday.tripod.com) công bố ngày 5-2-2002 thì khoảng cách: Cũ là 48.900 m nay là 1.500 m. Hai con số gần với nhau.
Vậy chúng tôi ghi ra đây. Dù sao thì vấn đề này quan trọng đối với người Việt, người Hoa. Còn đối với IFA chúng tôi thì sự việc đã xong. Sổ sách đã khép lại. Chúng tôi (IFA) và Gs Trần Đại-Sỹ không dám có ý tưởng tranh cãi với Ngài Thứ-trưởng Lê Công Phụng. Hơn nữa chúng tôi không cần, không có thời giờ tranh cãi một vụ việc đã qua với bất cứ ai. IFA chúng tôi rất thông cảm nỗi khổ tâm của Ngài Lê Công Phụng, vì ngài tuân lệnh trên mà làm, nếu chống thì e tính mạng khó toàn. Sau khi hai hiệp định ký, Ngài Lê Công-Phụng được trao cho chức vụ đầy uy quyền là Trưởng-ban Biên-giới. Độc giả đừng coi thường từ Trưởng-ban. Chức vụ này rất lớn. Bởi với chức vụ này Ngài Lê ngồi cao hơn các Vụ-trưởng trong bộ Ngoại-giao. Trước kia ban này thuộc phủ Thủ-tướng, mới đây đưa xuống bộ Ngoại-giao. Từ nay Ngài Lê là người phác họa, quyết định đường lối về biên giới Việt-Nam, mà không phải trình lại thượng cấp (Bộ-trưởng) như đã trả lời cuộc phỏng vấn của nữ ký giả Thu-Uyên.
Khi vụ việc nhượng đất-biển bùng nổ, Ngài Lê Công- Phụng còn trẻ, tuổi đảng thấp, cũng chẳng là Ủy-viên Trung-ương; chỉ có công lao, thành tích là đảm trách đàm phán với Trung-quốc, nhượng lãnh hải, lãnh thổ cho Trung-quốc, mà được trao cho chức Trưởng-ban Biên-giới. Không chừng tương lai được lên làm Bộ-trưởng Ngoại-giao nữa.
 
Về thác Bản-giốc


Thác Bản-giốc thuộc tỉnh Cao-bằng. Suốt năm nghìn năm lịch sử, thuộc lãnh thổ Việt. Nay cưa đôi, Trung-quốc, Việt-Nam mỗi nước một nửa.
Thác Bản-giốc, theo Ngài Thứ-trưởng Lê Công Phụng thì trước hiệp định 30-12-1999, địa danh này chỉ nằm về ranh giới VN có 1/3, còn 2/3 thuộc Trung-quốc. Nay thì Trung-quốc, Việt-Nam cưa đôi. Điều này làm chúng tôi hơi ngạc nhiên. Vì suốt thời gian 1887-1955 trong thời Pháp thuộc, thác này nằm khá xa biên giới Hoa-Việt. Năm 1993, 1995, 1997 chúng tôi  có giúp đỡ cho ba công ty nước khoáng châu Âu thăm dò lưu lượng nước, thăm dò thành phần nước để khai thác thương mại. Các chuyên viên xin visa vào Việt-Nam:
·        1993 Kỹ-sư J.P. Renault,
·        1995, Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, kỹ sư F. Puririer,
·        1997 Dược-sĩ Marie Christine Le.
Dưới  hình thức du lịch, rồi tới Bản-giốc. Như vậy rõ ràng  trước 1997 thác này còn nằm trên lãnh thổ Việt-Nam. Chứ nếu nằm trên lãnh thổ Trung-quốc thì phải xin visa vào Quảng-Tây, rồi tới Bản-giốc! Vả địa danh Bản-giốc đã in sâu vào tiềm thức giới trẻ VN vì họ từng đi cắm trại, sinh hoạt tại đây. Một số sách Việt-ngữ dành cho tuổi trẻ đã nói nhiều về thác này. Nay Ngài Thứ-trưởng bảo thác đó nằm trên lãnh thổ Trung-quốc từ thời Pháp-Thanh, chúng tôi e tuổi trẻ nay thành tuổi nhỡ, tuổi già VN, cũng không ai chịu. Chúng tôi theo dõi rất kỹ, từ lâu cuộc đàm phán Hoa-Việt về biên giới, nên rất thông cảm với Ngài Thứ-trưởng.
Chúng tôi cũng xin thưa rằng: sau khi vụ việc ký hai hiệp định nhượng đất, dư luận người Việt trong và ngoài nước sôi sục căm hờn, thì Bộ Chính Trị cũng như Chính-phủ Việt-Nam tuyên dương bộ Ngoại-giao là bộ "Năng động, hữu hiệu toàn diện nhất năm 2001". Như vậy đủ tỏ rằng bộ Chính-trị hiện thời với bộ Chính-trị thời Lê Khả Phiêu nhất trí với nhau trong vấn đề nhượng đất, biển.

Thưa Quý-vị,
4.3 - Ảnh hương vụ cắt đất.
4.3.1 - Mất biểu tượng năm nghìn năm của tộc Việt.
Khu Ải Nam-quan này là vùng đất thiêng, là Thánh-địa trong mấy nghìn năm của người Việt. Bất cứ người Việt nào từ 6 tuổi trở lên đều biết rằng phía Nam Ải Nam-quan là vùng đất tượng trưng biên giới phía Bắc, tượng trưng cho lãnh thổ, cho tinh thần tự chủ, cho niềm niềm tự hào của họ. Đây là vùng đất đi sâu vào  lịch-sử, văn-học và tâm tư toàn thể người Việt.
Trở về quá khứ, trong lần mạn đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch-Đông và Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Chủ-tịch Mao Trạch-Đông đã nói:
"Cái tên Ải Nam-quan, nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm xấu tình hữu nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam-quan. Mục là mắt, coi như nhân dân Trung-quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở phương Nam. Ngược lại coi như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc với tình hữu nghị".
Chủ-tịch Hồ Chí-Minh vui vẻ chấp thuận. Nhưng trên thực tế, chỉ có phía Trung-quốc in trên bản đồ địa danh Mục Nam-quan mà thôi. Còn phía Việt-Nam trên bản đồ hành chính, trên báo chí, văn học, vẫn dùng từ cửa Hữu-nghị.