Friday, November 27, 2015

Nữ Tú-Tài

Tôi dùng quyển "Nữ Tú-Tài" của nhà xuất-bản Tân-Việt (sáng lập năm 1937), tại 20 Amiral Courbet, Sai-gòn (quyển này in khoảng 1952).
Toát-yếu


"Nữ tú tài" là một truyện trong 40 tích truyện "Kim cổ kỳ-quan" (truyện lạ xưa nay), một bộ tiểu-thuyết của người Tàu. Chính nhan truyện là "Nũ tú-tài di hoa tiếp mộc" (Tú-tài gái rời hoa cây nọ chấp cành cây kia). Một tác-giả vô danh Việt-nam diễn ra quốc-âm, thể văn lục bát, gồm có 914 câu, có thể tóm tắt làm 3 hồi:
Hồi thứ nhất
Con-gái nhà võ theo học Văn
Phi Nga, con gái quan Tham-tướng Văn Sác, cỡi ngựa bắn cung giỏi từ thủa nhỏ, giận vì triều nhà Tống trọng văn khinh võ, bèn cải-trang theo nghề nghiên-bút, lấy tên hiệu là Tuấn Khanh, bạn với Đỗ Tử Trung cùng Nguy Soạn Chi rất thân-mật, cùng thi đỗ trong một khoa thi Hương. Trong ba người, Tử Trung và Tuấn Khanh bằng tuổi nhau, Soạn Chi thì hơn 2 tuổi. Một hôm, Tử Trung nói đùa với Tuấn Khanh: "Chúng ta nếu một người là con gái thì nhất định lấy nhau !" Soạn Chi cũng nói đùa "Nếu có thể thì tôi cũng bằng lòng gả!" Kẻ nói vô tình, người nghe hữu ý, Tuấn Khanh định sẽ lấy một trong hai bạn, nhưng chưa biết kén ai. Một hôm thấy chim sẻ đậu vừa tầm, Tuấn Khanh lấy tên bắn để bói. Nàng khấn: "Ai nhặt được tên thì người ấy là rể". Chim bị trúng tên rơi xuống trường học. Tử Trung bắt được, nhưng vội trở về có việc, mới đưa tên cho Soạn Chi. Sau khi nhận thấy chữ ký của Phi Nga và hỏi chuyện Tuấn Khanh, Soạn Chi yên chí Phi Nga là chị Tuấn Khanh, bèn đưa ngọc-trang để đính hôn. Tuấn Khanh cũng yên chí Soạn Chi nhặt được tên, bèn nhận ngọc-trang, hẹn sẽ thành hôn sau khi thi Hội.
Hồi thứ nhì
Nhà họ Văn ngộ biến
Gặp khoa thi Hội, Đỗ, Ngụy hai bạn rủ Tuấn Khanh cùng đi, nhưng Tuấn Khanh theo lời cha, cáo bệnh-ở nhà, vì sợ theo đuổi thi cử, có khi bị lộ chân-tướng. Trong khi ấy thì nhà họ Văn bị kẻ thù vu cáo, Văn Tham-tướng bị bắt giam, gia-tài bị tịch biên, họ hàng đều bị liên lụy. Duy có,Tuấn Khanh là văn-nhân được miễn. Nàng bèn vào ngục thăm cha và mua chuộc lòng ngục tốt, rồi lên kinh dâng sớ kêu oan; có vợ chồng Văn Long theo hầu.
Khi đến Thành-đô vào quán trọ, Cảnh tiểu thư ở gần đấy, trông thấy Tuấn Khanh phong-lưu nho-nhã thì phải lòng, giục ông ngoại sang ngỏ lời xin lấy. Tuấn Khanh từ chối không được, liền đem ngọc trang là vật đính hôn của Soạn Chi gửi cho Phi Nga khi trước mà trao cho Cảnh tiểu-thư để đính ước; hẹn sau khi lên kinh xong việc, sẽ trở về làm lễ nghênh hôn.
Hồi thứ ba
Kếu-quả của cuộc rời hoa chắp cành
Bấy giờ thi Hội vừa xong, Đỗ Tử Trung đỗ Trạng nguyên, Ngụy Soạn Chi đỗ Thám-hoa nhưng đã trở về trước. Tuấn Khanh tìm đến chỗ trọ của Tử Trung để nhờ dâng sớ tâu.Trong khi đi thăm phố, bị Tử Trung tò mò bắt được văn-sớ, biết đích Tuấn Khanh là gái Phi Nga mà lâu nay vẫn giả trai,bèn nhất định làm cho phải lộ chân-tướng. Tuấn Khanh biết không còn thể giấu-diếm, phải thú thựo, nhưng nói đã trót đính hôn với Soạn Chi. Tử Trung phân-trần chính mình bắt được tên mà đưa cho Soạn Chi; đêm ấy ép phải cùng chung chăn gối.
Sau khi hai người đã thành vợ chồng đem nhau về quê, thì Văn Tham-tướng đã được phục chức, Soạn Chi đã đến chực làm lễ thân nghênh Phi Nga. Nhưng khi ngã ngũ là Phi Nga chính Tuấn Khanh và đã bị Tử Trung phỗng tay trên, Soạn Chi căm giận vô cùng.
Tuấn Khanh cùng Tử Trung đến Thành đô nói thực tình với Cảnh tiểu-thư làm mối cho Ngụy Soạn Chi. Rồi cả bốn họ vu qui cùng với vinh qui một đoàn. Khi Soạn Chi đã nhận thấy của tin "Ngọc trang" thì cũng trả lại của tin cho Tử Trung "Tên bắn sẻ."
Đời đời xuân lại thêm xuân.
Dõi truyền Đỗ, Ngụy, Cảnh, Văn bốn nhà.

-
- -

Ba hồi trên này có thể chia làm 32 đoạn:
1.- Mấy lời giới-thiệu Nữ Tú-tài.
2.- Phi Nga cải-trang theo học văn.
3.- Sau khi đỗ Tú-tài.
4.- Kẻ nói vô tình, người nghe hữu ý.
5.- Tuấn Khanh định lấy một trong 2 bạn.
6.- Tuấn Khanh bói tên, Tử Trung bắt được.
7.- Ngụy Soạn Chi đính-hôn với Phi Nga.
8.- Tuấn Khanh yên chí Soạn Chi bắt được tên.
9.- Soạn Chi ký-chú việc đính hôn.
10.-Đỗ, Ngụy cùng đỗ kỳ thi Hội.
11.- Văn Tham-tướng bị vu cáo.
12.- Tuấn Khanh vào ngục thăm cha.
13.- Tuấn Khanh lên kinh, vợ chồng Văn Long theo hầu.
14.- Tuấn Khanh qua Thànt-đô.
15.- Thấy TuấnKhanh, Cảnh tiểu-thư phải lòng
15.- Cảnh tiểu-thư tặng trà,
17.- Cảnh tiểu-thư xin lấy Tuấn Khanh.
18.- Tuấn Khanh từ hôn.
19.- Tuấn Khanh đính hôn.
20.- Tuấn Khanh đến kinh gặp Tử Trung.
21.- Tuấn Khanh bị lộ chân-tướng.
22.-Tuấn Khanh cùng Tử Trung thành thân.
24.- Văn Tham-tướng được phục chức.
25.- Soạn Chi thất vọng khi đến nhà họ Văn.
26.- Tuấn Khanh thú thực tình với Tham-tướng
27.- Soạn Chi phàn-nàn với Tử Trung.
28.- Tử Trung nói thực với Soạn Chi.
29.- Soạn Chi dự lễ nghênh-hôn Tuấn Khanh.
30.- Nữ Tú-tài đem hoa cây nọ chắp cành cây kia.
31.- Đôi bên trả lại của tin ngày trước.
32.- Tổng-kết.

Nữ Tú-Tài
1- Mấy lời giới-thiệu nữ Tú-tài :

Thung-dung nhân thủa thanh-nhàn,
Thấy trong "Kim-cổ kỳ-quan" sách ngoài.
Họ Văn, có nữ tú-tài,
Con quan Tham-tướng tuổi vời xuân-xanh.
Vả thêm quốc sắc khuynh thành,
Đă hay nghề ngựa, lại lành nghề cung
Chân thiếu-nữ, giả anh-hùng,
Trượng-phu, mấy kẻ địch cùng kém xa.
Đặt tên là ả Phi Nga,
Huyên-đường, sớm vắng, c̣n nhà nghiêm-quân,.

2- Phi Nga cải-trang theo học văn

Tống-triều đại chấn tư-văn,
Nho-phong th́ thắm, vũ-thần th́ khinh,.
Phi Nga có chí cậy ḿnh,
Quyết ḷng nấu sử, xôi kinh, theo th́.
Quần chân, áo chít, cài khuy,
Trá h́nh làm đấng nam-nhi, học-hành.
Cải danh hiệu đích Tuấn Khanh,
Lạy cha, thôi mới khởi tŕnh ṭng sư,.
Đêm ngày luyện-tập thi, thư,
Phong-tư chỉnh-chệ ngôn-từ khoan-dung,.
Bạn cùng Ngụy Soạn,Tử Trung,,
Đua nhau trận bút vẫy-vùng ḱnh, côn.

3- Sau khi đỗ Tú-tài.

Một phen cá vượt vũ-môn,
Ba chàng cùng chiếm khôi-nguyên tú-tài.
Tiếng đồn vang động khắp nơi,
Kẻ xin sửa túi, người nài nâng khăn.
Bướm dờn, ong liệng vườn xuân.
Ai hay rằng kẻ văn-nhân, nữ tài.
Ba chàng kinh-sử, dùi-mài,
Mặt ai kết chỉ, mặc ai gieo cầu.

4- Kẻ nói vô t́nh, người nghe hữu ư

Một hôm thanh-vắng thư-lâu
Tử Trung nói cợt tŕnh hầu Tuấn Khanh.
Rằng: "Hai ta tuổi xuân-xanh,
"Đồng niên, đồng cán, khoa-danh cùng đồng.
"Ước ǵ biến-dịch thư, hùng,
"Một trai một gái vợ chồng đẹp đôi !"
Soạn Chi nghe nói mỉm cười,
Rằng: "Âm-dương vốn khí trời bẩm sinh.
"Ví mà biến tướng cải h́nh,
"Lấy nhau, đây cũng thuận t́nh gả cho !"
Tuấn Khanh có ư thẹn-tḥ,
Lệ khi ngồi đứng lơa-lồ h́nh-dong.
Thời ta khôn nẻo đề-pḥng,
Giả rằng qui tỉnh phủ-công ra về.
Nghĩ ḿnh phận gái khôn bề,
Sớm khuya bè-bạn gần kề lửa-hương.
Cùng nhau chung chiếu, chung giường,
Tử Trung, Ngụy Soạn hai chàng xưa nay.
Họa là có kẻ biết hay,
Thời ta xa chạy cao bay nẻo nào ?
Dẫu mà khép nép ra vào,
Nương-long đột-khởi má-đào hây-hây.
Dễ mà ǵn-giữ đêm ngày,
Lửa gần rơm, lỡ sự này biết sao !
Đă hay rằng chẳng thế nào,
Song xem Đỗ Tử ước-ao tính-t́nh.

5--Tuấn Khanh định lấy một trong hai bạn

Tuổi cùng thập-bát xuân-xanh,
Soạn Chi nhị-thập hai anh quốc-tài.
Âu ta phải lấy một người,
Kết làm phu-phụ hợp đôi phỉ nguyền.
Cát đằng nhờ gió đưa duyên,
Song hai gă ấy tài hiền ngang nhau.
Nào đâu đă hẳn hơn đâu,
Dễ mà kết chỉ gieo cầu cho xong.
Đôi tay bưng lấy quả bồng,
Thuyền-quyên th́ một, anh-hùng th́ hai.

Chú thích:
Kim-cổ kỳ-quan: tên một bộ tiểu-thuyết Tàu, nghĩa đen là những truyện lạ xưa nay. Bộ này gồm có 40 truyện, Nữ Tù-tài là một.

nữ tú-tài: Tú-tài con gái, nghĩa đen tú-tài là người có tài tốt. Văn là tên một họ bên Tàu.

Tham-tướng: Tham-tướng hay là tham-nhung, một chức vơ-quan bên Tàu, vị-thứ ngang với chức phó-tướng là một chức tá-nhị quan Tổng-binh và Phó-tổng-binh.

quốc sắc khuynh thành: sắc đẹp nghiêng thành, do câu : Nhất tiếu khuynh nhân thành, tài tiếu khuynh nhân quốc.

Đă hay nghề ngựa, lại lành nghề cung: Cỡi ngựa cũng giỏi, bắn cung cũng tài.

Chân thiếu-nữ, giả anh-hùng: ư nói là con gái thực mà là anh hùng giả, nghĩa là con gái mà chẳng kém ang-hùng ; có bản chép là "gía anh-hùng"

Trượng-phu: con trai 20 tuổi đă làm lễ đội mũ th́ gọi là trượng-phu, vợ gọi chồng cũng là trượng-phu, c̣n có nghĩa là tài năng xuất chúng.

Phi Nga: tên thực của Nữ Tú-tài, vai chính trong truyện này.

Huyên-đường: trỏ về mẹ, huyên là một thứ cỏ đeo mà ḿnh quên hết sự lo, kinh Thi có câu "An đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối" ước ǵ được cỏ huyên để trồng ở trái nhà phía bắc, v́ mẹ hay ở trái nhà phía bắc, nên thường dùng chữ huyên để trỏ về mẹ đă mất rồi.

nghiêm-quân: trỏ về cha, quẻ Gia-nhân trong Kinh Dịch nói : "Gia-nhân hữu nghiêm-quân, phụ mẫu chi vị dă" người nhà có nghiêm-quân là trỏ về cha mẹ, nay chỉ chuyên dùng chữ " nghiêm-quân " để gọi người cha. Đây ư nói chỉ c̣n bố.
Tống-triều đại chấn tư-văn: việc văn-học ở triều nhà Tống đương lúc toàn thịnh. ( V́ Nữ Tú-tài sinh vào đời nhà Tống bên Tàu).

Nho-phong th́ thắm, vũ-thần th́ khinh: ư nói trọng văn khinh vơ.

nấu sử, xôi kinh: Ư nói luyện-tập kinh-sử cho chín nhừ như người nấu xôi kỹ-lưỡng.

Tuấn Khanh: có bản chép : cải danh hiệu Ốc Tuấn Khanh.

khởi tŕnh ṭng sư: Bước lên đường đi theo thầy.

thi, thư: Tên 2 kinh trong 6 kinh.

Phong-tư chỉnh-chệ ngôn-từ khoan-dung: Phong-tư : dáng điệu , ngôn-từ : nói-năng.

Ngụy Soạn, Tử Trung: hai bạn của Tuấn Khanh.

ḱnh, côn: Hai loài cá to ở bể.

vũ-môn: tức Long-môn, một bến sông do vua Hạ-vũ đào trong khi trị thủy, mỗi khi nổi sóng hoa đằo, cá tranh nhau nhẩy lên, con nào nhẩy qua được th́ hóa rồng, không th́ đụng đầu mà rơi xuống. "Tạng-nguyên thi có câu: " Vũ-môn tam-cấp lăng, b́nh địa nhất thanh lôi : ba tầng sóng cửa Vũ, một tiếng sấm đất bằng, là nói về người thi đỗ ; đây cũng ư ấy.
khôi-nguyên: Đỗ đầu - câu này tối nghĩa, có lẽ sai, không lẽ 3 người cùng đỗ đầu, hoặc giả ba người mỗi người thi riêng một trường chăng ?

kết chỉ: bởi tích chỉ đỏ buộc chân trong truyện " Vi-cố".

gieo cầu: bởi tích ném quả cầu để kén rể trong truyện "Tam hợp bảo kiếm".

thư-lâu: lầu đọc sách.

Đồng niên, đồng cán: Ư nói cùng tuổi, cùng nghề-ngiệp, cùng thi đỗ, cái ǵ cũng ngang nhau.

thư, hùng: Trống, mái, tiếng này chỉ riêng về loài có cánh, chim trống là hùng, chim mái là thư. Biến dịch nghĩa là biến hoá thay đổi.Ư nói nếu thay đổi một người hoá ra con gái th́ hay.

Âm-dương: Dịch Hệ-từ : "Nhất âm nhất dương chi vi đạo" , một khí âm một khí dương là đạo thường xưa nay. "Âm" là khí đất âm-thầm ở bên trong, tượng-trưng về nữ giới và các vật thuộc về giống cái ; "Dương" là khí trời phát hiện ra ngoài, tượng-trưng về nam-giới và các vật thuộc về giống đực.

biến tướng cải h́nh: ư nói thay đổi tướng-mạo và h́nh-thể con trai hoá ra con gái.

Lệ: e sợ rằng.

qui tỉnh: Về thăm, cũng như nói tỉnh thần : thăm cha mẹ.
nẻo nào: có bản chép là " mấy nào " nhưng nghe không được sát với câu trên và câu dưới. "Nẻo nào" có ư nói : nếu người ta biết ḿnh là con gái th́ trốn đi đâu ?.

Nương-long đột-khởi: ư nói hai vú phồng cao, tỏ ra con gái đă dậy th́.

Lửa gần rơm: Tục-ngữ có câu " lửa gần rơm thế nào cũng bén" con gái ở chung-đụng với con trai măi, thế nào cũng có khi lỡ.

thập-bát: Tuấn Khanh cùng Đỗ Tử Trung đều 18 tuổi.

nhị-thập: Ngụy Soạn Chi 20 tuổi.

phu-phụ: Vợ chồng.

Cát đằng nhờ gió đưa duyên: Lư Nguyên Anh con vua Đường cao Tổ được phong là Đằng-vương, lúc làm Thứ-sử Hồng-châu, xây một các rất cao gọi là Đằng-vương-các (Nay ở phía tây thành tỉnh Giang-tây bên Tàu) cảnh trí rất đẹp, các triều-đại khác đều có trùng-tu. Năm Cảnh-thái đời Minh sửa lại, có biển đề ngoài cửa :"Giang-tây đệ nhất lâu" : lầu thứ nhất ở Giang-tây. Cổ-thi có câu :"Thời lai phong tống Đằng-vương-các" : Khi nên gió các Đằng-vương, ư nói người ta nói đến dịp may-mắn.

Dễ: Chữ "Dễ" trên đầu câu, có mấy bản chép là "Để" th́ tối nghĩa. Dễ mới phải, v́ không biết ai hơn ai th́ đă dễ mà lấy cho xong được.

Đôi tay: Có bản chép một tay...

Thuyền-quyên: Tiếng trỏ chung cả những màu-sắc ǵ xinh-xắn tươi-đẹp như trăng, hoa, con gái. Theo thế tục phần nhiều dùng trỏ vào nữ-lưu.

anh-hùng: Bậc nhân-tài tột bực.


6 - Tuấn Khanh bói tên Tử Trung bắt được

Chẳng hay duyên-phận bởi trời,
Mượn cơ tạo-hoá thay lời nhân-gian.
Còn đang nghĩ-ngợi lo toan,
Bỗng nghe chim tước kêu ran ngoài lầu.
Càng như khêu giục cơn sầu,
Ngẩn-ngơ mặt ngọc, âu-sầu nét hoa.
Nàng bèn ngước mắt trông ra,
Trên cành, tước đỗ xa-xa vừa tầm.
Lấy tên miệng nhổ tay cầm,
Đề thơ bát tự lâm-râm khấn nguyền.
Đề rằng: "Phát tất ứng huyền."
Bắn con chim tước phải tên rõ-ràng.
Chim bay rơi xuống học-tràng.
Tử Trung thoắt đã vội-vàng ra xem.
Thấy tên cắm ở đầu chim,
Nhổ ra chàng mới nhận xem chữ đề.
Vô tình ai biết việc chi,
Trông sau bỗng có tuỳ-nhi lại thì...
Cầm tên giao lại Soạn Chi,
Rằng: "Tay diệu thủ, tài kỳ xuyên dương.

7- Ngụy Soạn Chi đính-hôn với Phi Nga

Tử Trung từ-tạ bản trường,
Theo hề hồi tỉnh lưỡng đường xuân huyên.
Soạn Chi thấy chữ đề tên,
Rằng: "Tay này hẳn quả-nhiên đại tài !
"Song hiềm một nỗi sự người,
"Phi Nga chưa rõ gái, trai nhường nào ?"
Một mình nghĩ-ngợi thấp cao,
Tuấn Khanh thoắt đã trở vào cải-trang.
Lại y nam-tử đường đường,
Xăm-xăm bước tới học đường mà lo.
Thấy Soạn Chi mặt ngẩn-ngơ,
Cầm tên mà ngắm câu thơ chữ đề.
Tuấn Khanh mới hỏi: "Rằng thì,
"Tên này bắt được chữ gì mà coi ?"
Soạn Chi rằng: "Lúc vừa rồi,
"Thấy tên bắn tước có đôi thơ đề.
"Đã hay rằng của dị-kỳ,
"Phi Nga tự ký thực thì nữ-nhân.
"Song còn nghĩ ngợi phân-vân,
"Đàn-bà chưa dễ mấy thân lành nghề !"
Tuấn Khanh rằng: "Dám giấu gì,
"Phi Nga tên ấy thực thì chị tôi.
"Phải khi dạo cảnh hiên mai,
"Bắn con chim tước bay rơi bên này.
"Sự tình trình để anh hay,
"Thực tay thiếu-nữ, cũng tay anh-hùng !"
Soạn Chi rằng: "Mới lạ lùng !
"Nữ-nhân tài kể đầu dòng thủ-khoa.
"Hỏi thăm chị ả Phi Nga,
"Xuân xanh độ mấy ? Mặt hoa nhường nào ?
"Đã tìm nơi sánh anh-hào ?
"Hay còn cung cấm, lầu cao đợi thì ?"
Tuấn Khanh rằng hỏi làm gì ?
"Tôi thì mười tám, chị thì đôi mươi !
"Hình-dung thể-dáng con người,
"Chị tôi thì cũng như tôi khác nào !
"Ngọc lành còn đợi giá cao,
"Hôn-nhân chưa định nơi nào kết nghi.
"Phép nhà chẳng dám phi-vi,
"Nhìn làm chi, hỏi làm chi, hỡi chàng ?"
Soạn Chi nghe nói tỏ tường,
Khác nào Lưu, Nguyễn gặp nàng tiên-nhân.
Rằng: "Em muốn kết Châu, Trần,
"Cậy anh gánh-vác, đỡ-đần cho nên.
"May mà hương lửa bén duyên,
"Cũng vì mấy chữ trúc tiên thơ đề."
Tuấn Khanh rằng chẳng nệ gì,
"Vâng lời, em sẽ thử về hỏi xem,
"Liệu lời mà nói cho êm,
"May ra chị lại nghe em chờ thì.
"Dù mà nên chữ vu-qui,
"Thời anh phải lấy vật gì đưa sang."
Soạn Chi mở tráp lấy vàng,
Đưa ngay một chiếc ngọc-trang báu kỳ.
Lại đề tiểu luật một thi,
Rằng: "Đưa vi-vật làm ghi tấm lòng.
"Phiền anh đưa đến tướng-công,
"Xin cho chị Ả lầu trong xem tường.
Gọi là ghi tấm lòng vương,
"Hễ xem thấy của thời thương đến người,"
Tuấn Khanh xem của chịu lời,
Tạ từ thôi mới tái hồi bản gia.

8- Tuấn Khanh yên chí Soạn Chi bắt được tên.

Mặt hoa luống thẹn đường hoa,
Than rằng: "Sự bởi trăng già trêu ngươi,
"Lòng ta rắp lấy một người,
"Bói tên thời lại lạc-loài khác tên."
Nàng buồn, than-thở sự duyên,
Rằng: "Lòng chẳng rắp mà nên lạ-lùng.
"Tiếc thay chàng Đỗ Tử Trung,
"Đồng niên vả lại oai-dung đức-tài.
"Lòng ta muốn kết duyên hài,
"Song tên thì lại ở nơi tay người !"

9- Soạn Chi ký-chú việc đính-hôn

Soạn Chi chắc hẳn mười mươi,
Sự mình chẳng lộ cho ai biết tình.
Đêm ngày tơ-tưởng một mình.
Tuấn Khanh lại đến tập-tành làm văn.
Soạn Chi sẽ hỏi sự nhân,
Tuấn Khanh rằng: "Sự mười phân đã đành.
"Thơ tiên em đã đệ trình,
"Chị rằng: "Hội thí danh thành sẽ hay.
"Ngọc-trang chị đã cầm tay,
"Vâng lời em mới sang đây tức thì.
Xin anh chớ nệ điều chi,
"Vu-qui cùng với vinh-qui cũng mầu !"
Soạn Chi rằng: "Chẳng bao lâu,
"Nguyện xin như ý sở cầu cho cam.
"Xin đừng ra dạ bắc nam,
"Mà chê lươn ngắn, lại tham trạch dài !"
Tuấn Khanh nghe nói mỉm cười,
Trình rằng: "Đã có đôi nơi cao-dày.
"Có tiên thì hậu mới hay,
"Đã trồng cây đức, ắt dày nền nhân,
"Mấy lời gắn-bó ân-cần,
"Đành rằng thiên địa, quỉ thần chứng ta !"

10-Tuấn Khanh cáo bệnh không đi thi hội

Còn đương trò-chuyện lân-la,
Bỗng nghe chiếu-chỉ Khai khoa cầu hiền.
Soạn Chi thoắt thấy tin truyền,
Rủ hai anh bạn cùng lên kinh-kỳ.
Tuấn Khanh cố ý trở về,
Trình quan Tham-tướng xin thi kịp người.
Dạy rằng: "Phận gái nữ-hài,
"Thi Hương đã đỗ tú-tài thì thôi.
"Thôi đừng thi-cử theo người,
"Nữa người ta biết nữ-hài thì sao ?
"Âu là cáo bệnh mới cao,
"Anh em ai biết sự nào mà nghi !"
Thoắt thôi Đỗ Tử, Soạn Chi,
Hai anh đều đến rủ đi vào trường.
Tuấn Khanh vâng cứ nghiêm-đường,
Giả rằng bị bệnh phi thường, cáo thi.

Chú thích:

tạo-hoá: Thợ trời, cũng như hoá-công hay tạo-vật.

nhân-gian: Người thế-gian, người đời

tước: chim sẻ, một thứ chim nhỏ, hay ăn sâu bọ, thường hay ở quanh gần chỗ có người. Có bản chép "Chim thước".

bát tự: Tám chữ, Tuấn Khanh đề vào cái tên 8 chữ rằng : "Thỉ bất vọng phát, phát tất ứng huyền" nghĩa là tên chẳng bắn bậy, bắn ra tất phải trúng theo với dây cung.

học-tràng: Nhà học, trường học.

tuỳ-nhi: trẻ theo hầu.

diệu thủ, tài kỳ xuyên dương: Diệu thủ : tay khéo, tay giỏi. Tài kỳ : Tài lạ, tài đặc-biệt , Xuyên dương : Thủng suốt lá dương. Tích này lấy ở Chiến-quốc-sách : Dưỡng Do Cơ nước Sở là một tay thiện-xạ (bắn giỏi), thương đứng ở ngoài trăm bộ bắn trúng lá cây dương-liễu, trăm phát không sai một phát nào. Câu này có mấy bản chép là " Tài kỳ văn-chương".

bản trường: Trường học của mình.

hề: tức hề-đồng : trẻ trai theo hầu.

xuân huyên: Xuân hay thung, một thứ cây lấy 800 tuổi làm mùa xuân, 800 tuổi làm mùa thu, thứ cổ thụ sống rất lâu, người ta mượn để tượng-trưng điểm thọ. Tục mong cho cha được trường thọ, nên gọi cha là xuân-đường hay thung-đường. Huyên tức Huyên-đường, xem chú thích ở trên.

nam-tử đường đường: Con trai ngồn-ngộn, ý nói người tuấn-tú đáng bậc tài trai.

dị-kỳ: Lạ-lùng.

nữ-nhân: Người con gái.

thủ-khoa: Đỗ đầu khoa thi.

anh-hào: Anh : Anh-hùng , hào : hào-kiệt, anh-hùng,hào-kiệt, trỏ về bậc con trai tài giỏi hơn người,

Ngọc lành còn đợi giá cao: Câu này bởi chữ mỹ-ngọc đãi giá trong sách Luận-ngữ. Thầy Tử Cống hỏi đức Khổng-tử : Nay có viên ngọc quí, bỏ vào hòm mà cất đi hay là cầu gía đắt mà bán ? Đức Khổng nói : Bán lắm chứ ! Bán lắm chứ. Nhưng ta còn đợi gía ! Đây nói về con gái còn kén chồng !

kết nghi: vừa có nghĩa là kết hợp theo lễ nghi, vừa có nghĩa là kết-hợp hoà-thuận theo như câu " Nhi kỳ gia thất".

Lưu, Nguyễn: Lưu : Lưu Thần, Nguyễn : Nguyễn Triệu hai người cùng đi hái thuốc núi Thiên-thai trong ngày mồng 5 tháng 5, gặp hai nàng tiên, kết duyên với nhau trong nửa năm, sau nhớ nhà đòi về, thì đã đến đời cháu thứ 7.

Châu, Trần: Tên một thôn ở Từ-châu bên Tàu, trong thôn chỉ có hai họ là Châu và Trần, đời đời thông hôn-nhân với nhau. Bạch Cư Dị thi nhân đời nhà Đường đã có thơ rằng : "Từ-châu Cổ-phong huyện, hữu thôn viết Châu, Trần, nhất thôn duy lưỡng tính, thế thế vi hôn nhân". Nên tục quen dùng tiếng Châu Trần để trỏ về sự thông-gia.

hương lửa: bởi chữ hương hoả.

trúc tiên: tên bằng trúc, tức cái tên của Tuấn Khanh bắn chim sẻ rơi sang nhàhọc mà có đề thơ.

vu-qui: do câu "Chi tử vu qui, nghi kỳ gia nhân" Người ấy về nhà chồng sẽ thuận hòa với mọi người nhà. Chữ vu-qui đây chỉ về con gái đi lấy chồng.

ngọc-trang: Đồ trang-sức bằng ngọc.

tiểu luật: Thơ 4 câu, tứ tuyệt. Bài thơ ấy của Soạn Chi đề như vầy:
"Trộm nghe danh-giá động lòng thơ,
"Cung quế hương đưa trải mấy thư,
"Toà ngọc ra tay buông đạn sẻ,
"Sông Ngân nhờ dịp bắc cầu Ô."

vi-vật: Vật mọn. Có bản chép :" vưu-vật ".

tướng-công: Tiếng gọi tôn, đây trỏ về quan Tham-tướng, thân-phụ Tuấn Khanh.

thấy của thời thương đến người: Câu này do chữ "đổ vật tư nhân".

tái hồi bản gia: Trở lại nhà mình.

Bói tên thời lại lạc-loài khác tên: Bói tên là bắn tên để bói xem trúng ai. Khác tên là người bắt được tên bắn lại khác, không phải tên người mình đã để ý.

Tiếc thay chàng Đỗ Tử Trung: Tuấn Khanh không biết là Tử Trung nhặt được tên trước rồi mới đưa Soạn Chi, cứ tưởng Soạn Chi nhặt được đầu tiên.

duyên hài: nghĩa là nhân-duyên hòa-thuận. Tục thường nói "phu-phụ duyên hài" vợ chồng thuận duyên.

Soạn Chi chắc hẳn mười mươi: Soạn Chi yên chí Phi Nga là chị gái Tuấn Khanh chứ không biết Tuấn Khanh và Phi Nga chỉ là một.

Thơ tiên: Tờ giấy có đề thơ.

Hội thí danh thành: Thi hội thành danh, đỗ thi hội.

vinh-qui: Đem sự vẻ vang mà về, tức người thi đỗ vinh-qui bái tổ tục ta thường nói.

như ý sở cầu: do câu "Sở cầu như ý" : Cầu sao được vậy.

cao-dày: Trỏ vào trời đất : thiên cao địa hậu : trời cao đất dày.

Có tiên thì hậu mới hay: Tiên : trước, hậu : sau, ý nói trước có hay thì sau mới hay.

cây đức: do chữ "đức thụ" , nền nhân do chữ " nhân-cơ ", ý nói đã biết trồng cây đức là giống cây quí thì tất phải đắp cái nền nhân cho dày dặn. Có bản chép " đã trồng cây đức ắt ngày nên nhân ".

thiên địa, quỉ thần: thiên địa : trời đất . Quỉ thần : quỉ (ma) và thần, đều là những bậc thiêng liêng. Ý nói những lời ta gắn bó với nhau, đã có trời đất và những bậc thiêng-liêng chứng-giám cho ta.

chiếu-chỉ Khai khoa cầu hiền: Nhà vua hạ chiếu-chỉ, mở khoa thi để cầu lấy hiền-tài ra giúp việc.

nữ-hài: Gái trẻ.

Thi Hương: Thi lấy Tú-tài và Cử-nhân, có đỗ Hương mới được thi Hội.

nghiêm-đường: Cũng như nghiêm-quân

phi thường: Khác thường, chẳng phải thường, ý nói bệnh nặng, cũng có nghĩa là bất thình lình mắc bệnh.


11- Đỗ, Ngụy cùng đỗ Hội

Hai người khi ấy ra đi,
Tới nơi nộp quyển vào thi đua tài.
Công-danh ai dễ nhường ai,
Hai chàng cùng chiếm tam khôi bảng vàng.
Tiếc thay tài Tuấn Khanh chàng,
Có thi thì cũng bảng vàng tam khôi.
Soạn Chi xem bảng xuân rồi,
Đinh ninh bèn nhớ đến lời đinh hôn.

12- Văn Tham-tướng bị vu-cáo

Về nhà Tham-tướng họ Văn
Nào hay thời-vận gian-truân quở người.
Phải thằng Binh Đạo vô loài,
Cùng quan Tham-tướng bất hài đã lâu.
Nó làm một bản vọng tâu,
Vua đòi Tham-tướng về chầu khám-tra.
Biên-phong điền-sản cửa nhà,
Cùng là thân-thích chẳng tha một người.
Nhưng cho có một tú-tài,
Vì rằng công-tử là người văn-nhân.

13- Tuấn Khanh vào ngục thăm cha

Tuấn Khanh bèn cũng theo chân,
Theo vào trong ngục ân-cần trình cha.
Mấy lời sau trước thưa qua,
Mưa tuôn giọt ngọc, lệ sa nên doành.
Rằng: "Xưa có gái Đề Oanh,
"Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.
"Tôi nay cũng phận nữ-hài,
"Xin soi gương trước, báo nơi đạo thường.
Nói thôi mở túi lấy vàng,
Chia cho những kẻ ngục-trường làm ăn :
"Đã hay : quan pháp vô thân" ,
"Song lẽ giữ lấy chữ "nhân" làm đầu.
"Khoan cho lão-tướng giải sầu,
"Đôi ơn lượng cả các hầu ngục-quan."
Ngục-trường mấy kẻ cũng ngoan,
Nghe lời bèn để lão quan ở ngoài.
Tướng-công sẽ bảo tú-tài,
Rằng: "Con là phận nữ-hài ngây-thơ.
"Tiến kinh vạn lý trình-đồ,
"Lệ khi ấm-lạnh lõa-lồ thì sao ?"
Nàng rằng: "Ngựa cỡi, cũng đeo,
"Rừng hoang, núi ngát, hiểm-nghèo quản ru !
"Miễn là khỏi được oan-vu,
"Một đoàn phụ-tử thiên thu yên-lành.
"Lạy cha con kíp khởi-trình,"
Về nhà khi ấy một mình lo toan.

14- Vợ chồng Văn Long theo hầu

Gọi Văn Long đến thở-than,
Rằng: "Bây giờ lúc gian-nan hiểm-nghèo.
"Ta là thân gái bọt-bèo,
"Vì cha nên phải quyết liều mình đi.
"Quan-san nghìn dặm quản chi,
"Song hiềm thiếu kẻ nữ-nhi theo đòi.
"Phiền ngươi kiếm lấy một người,
"Trá hình nam-tử với ngươi theo cùng !"
Long rằng: "Xin cả vợ chồng,
"Quẩy bầu, giắt ngựa, mang cung theo hầu."
Vợ chồng Long mới bảo nhau,
Rằng: "Trong nghĩa nặng ân sâu chưa đền.
"Bây gìờ người mắc oan khiên,
"Không dưng ai có cần phiền đến ai.
"Con người quốc-sắc nữ-tài,
"Còn liều chẳng nghĩ dặm dài xông-pha.
"Huống chi thân kẻ chúng ta,
"Mình đừng e-lệ đường xa nỗi gần !
"Hễ lòng ta ở có nhân,
"Ắt là thiên-địa đền ân sau này."
Vợ Long người cũng ngoan thay,
Nghe lời chồng bảo bước ngay vào nhà.
Đổi thay quần-áo đàn-bà,
Mặc đồ nam-tử bước ra tức thì.
Vợ chồng khi ấy cùng đi,
Tuấn Khanh được kẻ nữ-nhi theo hầu.

15- Tuấn Khanh qua Thành-đô

Đêm ngày mưa nắng giãi dầu,
Một cung một ngựa, một hầu lân-la.
Chẳng nề muôn dặm đường xa,
Chân đi miệng niệm Di-Đà độ thân.
Khấn rằng:"Thái-thượng lão-quân,
Cỡi trâu hóa phép phong vân chớ chầy.
Kìa trời cao nọ đất dày,
Xét soi kíp giải oan này mới xong.
Bèn làm văn sớ một phong,
Khẩn cầu thiên-địa, Thổ-công linh-thần.
Cẩn phong một sớ vân vân,
Ngày đi tối lại nương thân khẩn cầu
Mưa tran nắng nấu giãi dầu,
Thành-đô phủ ấy, đã hầu tới nơi.
Lầu Tần, quán Sở thảnh-thơi,
Tạm vào trú-ngụ ở nơi nhà hàng.

Chú thích:

tam khôi: Ba lần đỗ đầu, câu này cũng tối nghĩa như câu " Ba chàng cùng chiếm khôi nguyên tú-tài " ở trên.

bảng xuân: bởi chữ Xuân bảng : Bảng yết những người đỗ hội, vì thi hội về mùa Xuân, cũng như thu bảng yết, những người đỗ hương.

đính hôn: Đính ước việc hôn-nhân.

Tham-tướng họ Văn: Tức Văn Sác, thân-phụ Tuấn Khanh.

Binh Đạo: tên kẻ vu cáo Văn Tham-tướng.

bất hài: Chẳng hoà-thuận, không bằng lòng nhau.

vọng tâu: do chữ vọng-tấu : Tâu bậy, vu-cáo.

Biên-phong: Biên : Tịch-biên ghi vào sổ. Phong : niêm phong dán giấy làm dấu phong-tỏa không cho mở.

điền-sản: Vườn ruộng, của-cải.

thân-thích: Họ-hàng,

công-tử: Con nhà quan gọi là Công-tử ; còn là tiếng gọi tôn chung cho tất cả hạng con trai trẻ tuổi tuấn-tú.

văn-nhân: Người theo đòi văn-học.

doành: hay duềnh là vụng bể, ý nói nước mắt sa thành vụng nước, có bản chép "...lệ sa nên ghềnh " thì hối nghĩa.

Đề Oanh: là con gái út Thuần-vu Ý đời nhà Hán, Ý không con trai, chỉ có 5 đứa con-gái, chẳng may phạm tội sắp bị chết chém. Ý than vì không có con trai nên lúc hoãn-cấp chẳng trông cậy được vào đâu. Đề Oanh lấy làm thương cảm, theo cha lên kinh dâng thư lên Hán-văn Đế, xin vào cung làm tỳ-thiếp để chuộc tội cho cha. Lời-lẽ thảm-thiết, Văn Đế thương tình tha cho Thuần-vu Ý khỏi chết và hạ chiếu bỏ ngục-hình là thứ hình phạt xử-tử những người có tội nặng.

đạo thường: cũng như đạo hằng, đạo phải trên đời ai cũng nên theo.

ngục-trường: Nơi giam cầm người có tội, nơi nhà ngục. Những ngục trường làm ăn là những phu dịch của nhà ngục.

quan pháp vô thân: Phép công không có tư-vị thân tình ai.

nhân: lòng bất nhẫn biết thương người. Nhân tâm.

lão-tướng: Ông quan gìa, trỏ vào Văn Tham-tướng.

ngục-quan: Quan coi ngục, Quan Đề-lao.

Tiến kinh vạn lý trình-đồ: Đường lên kinh xa-xôi hàng muôn dặm.

Lệ khi ấm-lạnh lõa-lồ thì sao: Có bản chép " Lệ khi ấm lạnh lõa-lồ ai theo ".

phụ-tử thiên thu: Phụ-tử : Cha con ; thiên thu : nghìn năm.

khởi-trình: Lên đường, khởi hành, ra đi.

Văn Long: Tên một người đầy-tớ nhà họ Văn.

Quan-san nghìn dặm: Quan: quan-ải, nơi biên-giới, san: núi. Quan san ngàn dặm, ý nói đường-sá xa-xôi hiểm-trở.

Trá hình nam-tử: ăn-vận giả làm con trai.

quốc-sắc nữ-tài: Quốc sắc: Sắc nước ; nữ tài: con gái có tài, trỏ vào Tuấn Khanh (Phi Nga).

Di-Đà: Danh-hiệu đức Phật, một giáo-chủ của thế-giới cực-lạc. A-di-đà Phật là tiếng Phạn, có nghĩa là vô lượng, không biết đâu mà lường. Kinh Phật nói rằng : A-di-đà Phật có 13 hiệu như vô lượng quang phật, vân vân...

độ thân: Tuấn Khanh niệm Phật tế-độ cho mình hay là tế-độ cho phụ-thân. Nhưng có lẽ cho phụ-thân thì hợp hơn, vì Tuấn Khanh đương vào lúc quên mình để cứu cho cha thoát tội.

Thái-thượng lão-quân,: họ Lý tên Nhĩ, thụy là Đam, tự là Bá Dương, mới sinh ra đã bạc đầu nên gọi là Lão-tử. Các nhà tu đạo đều thờ làm Thủy-tỏ.

Cỡi trâu: Cuối đời nhà Chu, Lão-tử cỡi con trâu xanh ra cửa Hàm-cốc, trao kinh Đạo-đức cho quan Lệnh-doãn ở Hàm-cốc gồm 500 câu.

phong vân: Gió mây, nói về sự biến-hóa pháp-thuật của thần tiên.

Thổ-công linh-thần: Thần thiêng ở địa-phương, tức các vị Thành-hoàng bản thổ.

một sớ: bài văn sớ ấy đại-ý như sau:
" Tin-nữ tôi nguyên là văn-nhân, tên là Phi- Nga, ở xã Cẩm-trúc, phủ Thành-đô, xin cầu cho cha là Văn sác, vì bị đứa khinh bạc, hiềm thù từ lâu, nó cố ý vu-cáo, để cha tôi bị bắt. Xin trời đất giáng phúc, chóng giải được nỗi oan, để được bình yên, trở về dinh. Và xin phù-hộ cho tôi được hài duyên theo lời ước bói tên. Tôi cầu lạy Phật trời và các vị thần linh cho cầu được như ý, nguyện được như lòng, kính dâng một phong sớ, xin chứng giám tấc lòng cho tôi".

Thành-đô: Tên một phủ thuộc tỉnh Tứ-xuyên bên Tàu, bây giờ là huyện.

Lầu Tần, quán Sở: Tần Sở : Tên hai nước chư-hầu về đời Chu bên Tàu, Tần tức huyện Thiên-thủy tỉnh Cam-túc và Sở tức huyện Tỷ-qui, tỉnh Hồ-bắc bên Tầu bây giờ. Lầu Tần, quán Sở đây chỉ là nói quán kia đông-đức, chứ không có ý gì khác.


16- Thấy Tuấn Khanh, Cảnh tiểu-thư phải lòng

Nào ngờ cách bức hòe tường,
Trông sang thấy có một nàng tiểu-thư.
Nhìn xem vẻ mặt nhân từ,
Long-lanh mắt phương, nõn nà vóc mai.
Vén mành-mành liếc trông ra,
Thấy chàng, len-lét gót hoa đứng rình.
Người quốc sắc, vẻ khuynh thành,
Khoé tường ghé mắt, bậc rành phong-tư.
Ngẫm rằng thực khách thi thư,
Dung-nghi chỉnh-chện, ngôn-từ khoan-thai.
Hẳn người danh-sĩ cao tài,
Đi đâu đồ-đệ lạc loài đến đây ?
Hay là ông Nguyệt xe giây,
Giẩy-giun chàng đến chốn này cùng ta ?
Mặt hoa ẩn bóng tường hoa,
Liếc xem thử ý người ta thế nào ?
Càng nhìn càng nổi trận rào,
Nương-long thổn-thức, áo bào chứa-chan.
Biết ai mà đặng thở-than,
Ước gì đây đấy giao hoan một phòng.
Thuyền-quyên đã rõ anh-hùng,
Sao anh-hùng chẳng rõ lòng thuyền-quyên ?
Ruột tằm bối rối nào yên,
Bồi-hồi chưa định kinh quyền làm sao.
Tuấn Khanh lập chí làm cao,
Gọi hề lấy rượu đưa vào bình-phong.
Chàng cùng đồ-đệ thung-dung,
Tạm bày tiệc ngọc chén chung sa-đà.

17- Cảnh tiểu-thư tặng trà

Bỗng đâu thấy một mụ già,
Tay bưng tiểu níp đồ trà, cam, lê.
Trình rằng: "Lấy tấm lòng quê,
"Nhà nàng tôi ở gần kề lân-la.
"Trộm nghe công-tử đường xa,
"Trà thang sẵn có của nhà đưa sang.
"Vật tuy bé nhỏ lạ thường,
"Song le nghĩa ví nghìn vàng trọng thay !"
Tuấn Khanh đương lúc giở say,
Rằng: "Lòng cho khách, khách rày đội ơn !
"Từ ra, sợ bảo rằng hờn,
"Lấy ra, chưa kể căn-nguyên nhường nào ?
"Đã hay vay mận trả đào,
"Song ơn này để biết bao giờ đền ?
"Vả bấy nay chưa từng quen,
"Nào ai biết họ tường tên bao giờ ?"
Mụ rằng: "Nàng Cảnh tiểu-thư,
"Con quan Tướng-quốc khi xưa, kén chồng.
Ở cùng ông ngoại tướng-công,
"Thấy chàng tướng-mạo uy-dung khác thường.
"Nay chàng muôn dặm đường trường,
"Qua đây là chốn phố-phường hôi tanh
"Sẵn đây có của ngon lành,
"Gọi là vật mọn, vi thành sai đưa.
"Để mà ghi tấm lòng thơ,
"Họa may kim cải duyên ưa cùng người !"
Tuấn Khanh bèn chịu mỉm cười,
Mới ngâm tiểu luật thử chơi xem lòng.
Bút hoa tay thảo cẩn phong,
Gửi lời mụ lão tạ lòng
ân-nhân.
Lĩnh lời mụ mới ra sân,
Gọi hầu bèn hỏi vân vân mọi lời.
Văn Long mách bảo một hai ;
Rằng: "Chàng Công-tử tú-tài họ Văn.
Chưa đâu xứng kết hôn-nhân,
"Cớ sao mụ hỏi ân-cần làm chi ?"
Nghe lời mụ lão trở về,
Mấy lời bộc-bạch dâng thơ cho nàng.
Nàng từ tiếp được thơ chàng,
Đã say tướng-mạo lại tường họ tên.
Bỗng đâu như chất lửa phiền,
Bèn đề một bức thư tiên họa vần.
Giục già đem đến Văn-quân,
Cứ lời thưa-thốt ân-cần cho thông.

18- Cảnh tiểu-thư xin lấy Tuấn Khanh

Nàng bèn vào gửi Phú-ông,
Rằng: "Tôi thấy gã con dòng họ Văn.
"Thực là tài-tử giai-nhân
"Hình-dung, tướng mạo mười phân chỉnh-tề.
"Trọ bên tửu-điếm gần kề,
"Lòng tôi cũng muốn kết nghì hợp duyên.
"Đã tra tường họ tường tên,
"Dám trình ông dạy có nên chăng là ?"
Phú-ông tính khí thực-thà,
Rằng: "Xưa con nguyện, ông đà nhớ đây !
"Bây gìờ đã đẹp duyên này,
"Gọi hề lấy áo ông nay ra mừng."
Tuấn Khanh đương tiệc tưng-bừng,
Đã nghe tin nhạn bay chừng tới nơi.
Mụ già len-lén trình lời,
Rằng: "Thơ này của cô tôi trong lầu.
"Dạy tôi đem đến thưa hầu,
"Nguyện xin quân-tử hảo cầu kết duyên."
Chàng bèn mở bức vân tiên,
Đọc xong, mình cũng ngợi khen rằng tài.
Tiếc thay nàng cũng một loài,
Trượng-phu mà kết duyên hài, đẹp đôi !
Lặng ra, sợ bảo rằng tồi ,
Chê ra lại sợ người cười hẹp dong !

19- Tuấn Khanh từ hôn

Phải tìm quỉ kế mới xong,
Rằng: "Ta đã đội ơn lòng biết bao.
"May chân bước tới vườn đào,
"Giáng Hương, Từ Thức lẽ nào gặp tiên !
"Lửa gần hương muốn bén duyên,
"Anh-hùng nỡ phụ thuyền-quyên rẫy-ruồng,
"Sợ rằng đã có tao-khang,
"Mới hay bất khả hạ đường biết sao ?
Mụ rằng: "Thục-nữ anh hào,
"Làm chi e-lệ thấp cao rẫy-ruồng !
"Nguyên xưa nàng đã tỏ-tường,
"Mới đem duyên kết cùng chàng, không đâu !
"Nỡ nào ruồng-rẫy, tủi nhau,
"Nỡ nào khẩn-nguyện nơi cầu, nơi vong !"
Mụ còn năn-nỉ chưa xong,
Trông ra đã thấy Phú-ông bước gần
Tuổi vừa thất-thập ngoại tuần,
Phơ-phơ tóc bạc, xoăn-xoăn râu rồng.
Đến chào chàng: "Tiểu tướng-công !
"Mừng rằng hạnh ngộ tương-phùng đến đây.
"Già còn cháu gái thơ-ngây,
"Là con Cảnh Tướng-quốc nay ở cùng.
"Bồ-côi, vả giữ con dòng,
"Theo đôi kim chỉ nữ-công kịp người.
"Chưa nơi nào đẹp duyên hài,
"Bằng lòng lấy, nó chọn người hợp duyên.
"Thấy chàng công-tử sĩ hiền,
"Dám xin hạ cố tòng quyền nên chăng ?
Tuấn Khanh bèn mới thưa rằng:
"Đội ơn quốc lão xem bằng Thái-san.
"Đoái thương đến kẻ sĩ-hàn
"Chẳng so hơn thiệt, chẳng màng trọng khinh.
"Song nàng dòng-dõi tướng-khanh,
"Đã khuynh quốc-sắc, lại danh nữ-tài.
"Tôi là vũ-tướng nhi-hài,
"Hổ thân ít chữ phải mài cung-đao.
"Dám đâu đọ khách lầu cao,
"Bao giờ đai bạc cẩm-bào mới hay.
"Vả còn nghiêm-phụ khi nay,
"Mắc oan còn phải đợi ngày giải oan.
"Dám xin lạy đấng tôn-nhan
"Xót tình cho kẻ sĩ hàn đội ơn!"
Lão-ông nghe nói căn-nguyên,
Khen rằng: "Thực kẻ sĩ hiền hiếu-trung.
"Dỗ người, người chẳng nghe cùng,
"Về không thì sợ mất lòng cháu ta.
"Âu là già dụng mưu già,
"Tìm lời phương-tiện ắt là phải nghe."
Nhủ rằng: "Ngọc-diệp kim-chi
"Lứa đôi xem cũng phải thì lứa đôi.
"Nghe già chàng hãy chịu lời,
"Gửi qua nghiêm-phụ để người được hay.
"Việc rồi chàng trở về đây,
"Lễ nghênh hôn ấy, già nay xin giùm."

20- Tuấn Khanh đính hôn

Thấy lời lão-trượng gạn-gùng,
Chàng liền xảy nhớ Tử Trung bạn hiền.
Hiện còn chưa định nhân-duyên,
Bèn toan một bước tạm quyền giả danh.
Rằng: "Ơn lão-trượng hậu tình
"Đoái thương đến kẻ lữ-hành, tha hương.
"Dạy lời phương-tiện đôi đường,
"Vâng lời kẻo bận lòng vàng nặng thương."
Trong mình cởi lấy ngọc-trang,
Tay dâng, rằng: "Chút vật thường làm tin.
"Gọi là tiểu lễ tòng quyền,
"Trao người đành dạ, tôi xin khởi trình.
"Nguyện cho vạn sự giai thành.
"Thì tôi sẽ biện vấn danh lễ thường."
Phú-ông lĩnh lấy ngọc-trang,
Đưa về lại phó cho nàng tiểu-thư.
Nàng vâng lĩnh lấy bấy giờ,
Như khơi bể ái, như khua cơn sầu.
Lão-ông bèn trở về lầu,
Truyền làm tiệc rượu mừng hầu tân-lang.
Gọi là lễ tiễn lên đường,
Phó kinh, thành sự thì chàng hồi qui.

Chú thích:

tiểu-thư: Tiếng gọi những con gái chưa có chồng. Tục quen dùng để gọi con gái các danh-gia.

Nhìn xem vẻ mặt nhân từ: Có bản chép : " Mặt hoa ra ý ngẩn-ngơ ", hoặc " vẻ-vang mặt mũi lừ-đừ ".

bậc rành phong-tư: Ý nói ghé mắt nhìn rõ ra người vào bậc có vẻ lịch-sự.

danh-sĩ cao tài: Người văn-sĩ có tiếng và tài cao.

đồ-đệ: Thầy trò.

ông Nguyệt xe giây: do tích Nguyệt hạ lão nhân : Ngày xưa Vy Cố đi cầu hôn, thấy một ông già tựa túi vải dưới bóng trăng xem sách, hỏi thì bảo là hôn thư, lại hỏi trong túi có vật gì thì bảo là dây đỏ để buộc chân những vợ chồng nào đã có duyên số lấy nhau, dù sao cũng không tránh khỏi. Bởi thế người ta cho hôn-nhân đều do nguyệt-lão xe duyên.

trận rào: trận mưa rào.

Nương-long thổn-thức, áo bào chứa-chan: ý nói trống ngực thổn-thức và nước mắt chứa chan thấm cả áo. Có bản chép : " Cõi lòng thổn-thức ".

Ruột tằm bối rối nào yên: Câu này có bản chép : " Ruột tằm gan vượn hoà yên."

chưa định kinh quyền: Chưa biết chấp kinh. Giữ lẽ thường hay là tòng quyền : quyền biến cho được việc.

bình-phong: Một bức tường gỉa bằng gỗ hay the lụa căng khung để chắn gió và ngăn đôi nhà cho trong ngoài cách biệt.

sa-đà: Say-sưa chếnh-choáng.

tiểu níp: Hộp nhỏ. Có bản chép : " tay bưng một quả ".

vay mận trả đào: Bởi câu " đầu đào báo lý ".

Cảnh tiểu-thư: Cô ả họ Cảnh.

Tướng-quốc: Một chức quan to bằng Tể-tướng

tướng-mạo uy-dung: Nét mặt có vẻ uy-nghi đẹp-đẽ.

Gọi là vật mọn, vi thành sai đưa: Có bản chép : " Gọi là vật mọn sai hàng tôi đưa " .

kim cải: Là cái kim khâu, để gần đá nam-châm thì dính vào, cải là hạt cải, để gần Hổ-phách thì hút vào: sách Bách vật chí nói rằng: Hổ-phách thập giới, từ thạch dẫn châm, các dĩ loại cảm :Hổ-phách hút hạt cải, đá nam-châm bắt kim, đều tùy theo loài mà cảm nhau.

Mới ngâm tiểu luật thử chơi xem lòng: Thơ của Tuấn Khanh:
Có lòng hậu đãi khách xa đàng, mừng mặt nay xem trọng mấy vàng, hiềm chút lạ lùng lòng chưa tỏ, lấy gì làm của giả ơn nàng?

ân-nhân: Người chịu ơn

bộc-bạch: Giãi-tỏ

bức thư tiên họa vần: Thơ của tiểu-thư họa lại: "Trộm nghe công-tử dạo qua đàng, mừng mặt nay xem trọng ngỡ vàng, vậy có chút lòng đưa lễ mọn, xin thương đừng tiếng: giả ơn nàng!"

tài-tử giai-nhân: Trai tài gái sắc

tửu-điếm: Quán rượu, câu này có bản chép: "Trọ bên tửu-điếm tạm thì"

Xưa con nguyện: Nghĩa là khi xưa Cảnh tiểu-thư đã phát-nguyện rằng bao giờ tìm được người vừa ý mới gá nghĩa trăm năm, ông vẫn còn nhớ, Có bản chép "con nguyệt", có bản chép "nguyệt-lão", đều không có ý-nghĩa

tin nhạn: Nghĩa là tin tức đưa từ ngoài đến do chim nhạn, bởi tích chim nhạn đưa thư của Chiêu-quân ở Nhạn-môn-quan về cho vua Hán trong tiểu-thuyết "Song phượng kỳ duyên"

quân-tử hảo cầu: Vua Văn-vương nhà Chu lấy bà Hậu Phi, người đời có thơ khen rằng: "Yểu-điệu thục-nữ, quân-tử hảo cầu" : Cô gái lành dịu-dàng, tốt đôi với người quân tử--Thơ Quan-thư trong Kinh Thư

vân tiên: Giấy đề thơ, bức thư

quỉ kế: Mưu giả-dối. Mẹo lừa

Từ Thức: Đời Trần làm tri-huyện Tiên-du (Bắc-ninh), đi xem hội mẫu-đơn ở chùa Phật-tích gặp người con-gái cũng đi xem hội, vịn gãy cành hoa mẫu-đơn, bị nhà chùa bắt giữ lại, Từ Thức thương tình cởi áo chuộc cho ả đi. Sau cáo quan về Tống-sơn (Thanh-hóa) đi chơi lạc vào động tiên, gặp tiên-cô là Giáng Hương chính cô ả vịn gãy cành hoa khi trước, cùng nhau kết nghĩa vợ chồng. Được một năm, Từ nhớ nhà đòi về, thì đã cách hơn 80 năm, đã có cháu ba đời.

bất khả hạ đường: Tích Quang Võ nhà Hán có người chị góa là Hồ-nương, muốn đem gả cho Tống Hoằng, mà Hoằng đã có vợ. Vua hỏi ý. Hoằng thưa rằng: Tao-khang chì thê bát khả hạ dương (người vợ lấy lúc cùng ăn bổng, cám, không thể để dưới. Nhà vua mới thôi.

nơi cầu, nơi vong: là câu tục-ngữ, ý nói chỗ thì cầu không được, chỗ được lại không cầu. Cớ bản chép: "Sở cầu lại vong"

thất-thập ngoại tuần: Ngoài bảy-mươi tuổi

Tiểu tướng-công: Tiếng gọi tôn những con trai còn trẻ

hạnh ngộ tương-phùng: May mà gặp, Gặp-gỡ nhau

nữ-công: Sự khéo-léo chân tay của người con-gái, một điều trong tứ đức

hạ cố<: Trên đoái xuống

tòng quyền: Tạm quyền nghi cho xong việc

quốc lão: Người già trong nước, tiến gọi tôn những bậc có tuổi

Thái-san: Tên một quả núi thuộc tỉnh Sơn-đông bên Tàu, núi rất cao, các đế-vương dùng làm nơi tế phong thiện, đây là nói về sự cao xa

sĩ-hàn: Học-trò nghèo-hèn

tướng-khanh: Bậc quan to

khuynh quốc-sắc, lại danh nữ-tài: Sắc đẹp nghiêng nước

vũ-tướng nhi-hài: Con nhà quan võ

cẩm-bào: Áo gấm, đai bạc, cẩm-bào trỏ người đỗ-đạt làm quan, có phẩm phục

nghiêm-phụ: Trỏ người cha, cũng như nghiêm-quân, nghiêm-đường

tôn-nhan: Trước mặt ngài, tiếng gọi là tôn

phương-tiện: Phương-pháp thuận-tiện, nghĩa là tuy tiện làm cho xong việc, cũng như quyền nghi, tiện nghi

Ngọc-diệp kim-chi: Lá ngọc cành vàng, trỏ con nhà quí-phái

nghênh hôn: Rước dâu

lão-trượng: Tiếng tôn xưng bậc có tuổi

hậu tình: Tình hậu-hĩ

lữ-hành, tha hương: Khách đi đường, Làng khác, quê người. Có bản chép "lỡ-làng tha hương" thì không có vần

ngọc-trang: Tức thư ngọc-trang mà Soạn Chi trao cho Tuấn Khanh để đính hôn với Phi Nga

tiểu lễ: Lễ mọn

vạn sự giai thành: Muôn việc đều nên

vấn danh: Lễ ăn hỏi

tân-lang: Chàng rể mới

Phó kinh, thành sự: Đến kinh nên việc

hồi qui: Trở về


21- Văn Tuấn Khanh lên kinh

Tiệc rồi từ-tạ ra đi,
Buộc yên, cột ngựa, hai hề theo sau.
Thảnh-thơi thơ túi, rượu bầu
Thẳng dong dặm liễu, vó câu bước dồn.
Gập-ghềnh cách trở quan-san,
Kìa non Thúy-lĩnh, nọ ngàn Tương-dương.
Xa-xôi muôn dặm đường trường,
Tuấn Khanh thoắt đã tới phương kinh-kỳ.
Tìm anh Đỗ Tử, Soạn Chi,
Trước mừng, sau nữa hoan-hùy giải oan.
Tử Trung thoắt thấy ngọc-nhan,
Chân hài giở gót miệng khoan khoan chào.
Rằng: "Xin quí-hữu tạm vào,
Tha hương ngộ cố biết bao là mừng.
Hai người trò-chuyện tưng-bừng,
Kẻ vui cố hữu người mừng tân-quan.
Cùng nhau đồng tịch đồng bàn,
Tuấn Khanh hỏi: "Ngụy tôn-nhan đâu rày ?"
Tử Trung bèn mới kể bày,
Rằng: "Anh Ngụy Soạn từ ngày thấy tên.
"Bảng vàng chiếm được khôi-nguyên,
"Thẳng dong xe ngựa về miền bên anh."
Tuấn Khanh nghe rõ chân tình,
Làm thinh kẻo sợ sự mình hở-hang,
Rằng: "Tôi muôn dặm đường trường,
"Thành-đô chẳng gặp, Ngụy chàng vinh-qui.
"May còn quí hữu đây thì,
"Thương em xin nặng lòng vì phụ-thân."
Tuấn Khanh kể hết vân vân,
Tử Trung nghe rõ ân-cần duyên do.
Hỏi rằng: "Phải kẻ oán thù,
"Cho tôn-bá phải oan tù gian-truân.
"Anh thì làm một bản văn,
"Để tôi tâu với thánh-quân cửu-trùng.
"Thiên-triều khi ngự thung-dung,
"Xin soi chẳng để oan vòng kẻ ngay.
"Tôi xin gánh sức việc này,
"Gọi là kẻ mỏng, người dày giúp nhau !"
Tuấn Khanh mới giải mạch sầu,
Bèn làm sớ tấu đệ hầu quan-nhân.
Tử Trung xem hết phân vân,
Cân đai áo mũ rời chân tức thì.
22- Tuấn Khanh bị lộ chân-tướng

Tuấn Khanh mới bảo tùy-nhi,
Đi chơi cho biết kinh-kỳ tẻ vui.
Mảng còn xem ngắm mọi nơi,
Lâu rồi, Trung đã gót rời chủ-gia.
Nhác trông bên gốc chiếu hoa,
Tiểu-hàm bỏ ngỏ, người đà vắng tanh.
Đến liền xem của Tuấn Khanh,
Giở ra thấy sớ tính-danh nữ-hài.
Khen rằng thực đáng nữ-tài,
Bấy nay ai biết rằng ai là gì ?
Trung bèn lấy sớ cất đi,
Tiểu-hàm lại để như y bao giờ.
Nực cười tơ-tưởng ngồi chờ,
Tuấn Khanh đâu đã ngẩn-ngơ trở về.
Tử Trung rằng hội giai-kỳ,
Giắt tay cười mãi ngồi kề với nhau.
Rằng: "Anh em đã bấy lâu,
"Bây giờ đã phỉ sở cầu từ đây !"
Tuấn Khanh biết ý nào hay,
Gẫm mình, mình lại ngại thay sự mình !
Nghĩ khi cử-động, ngôn, hành,
Thôi ta giữ chẳng lộ hình khi nao !
Họa chăng một chút má đào,
Nương-long song đã cao cao vừa tày.
Ví mà chàng có biết hay,
Lả-lơi thì đã đến đây làm gì.
Vậy nên phải nói lảng đi,
Việc chi quí hữu cười, chê, dạy cùng"
Tử Trung rằng: "Buổi tương-phùng,
"Ai ngờ công-tử là chàng nữ-nhân.
"Khi xưa đã thấy sự chân,
"Ước gì biến dịch Châu, Trần một khi.
"Mới hay nhân nguyện thiên tùy,
"Lọ là đòi hỏi làm chi nữa mà !"
Tuấn Khanh đã tỏ bệnh ra,
Phải thầy diệu-thủy Pháp-loa khôn đành.
Nhưng mình phải biết sự mình,
Hãy còn khép-nép dạng-hình như không.
Sớ trong tay áo Tử Trung,
Giở ra hỏi: "Chữ cẩn-phong ai đề.
"Của này dấu-tích còn ghi,
Há không dấu-tích mà phi bạn này."
Tuấn Khanh đỏ mặt, tía mày
Nương-long giộn-giật, giở bài rời chân.
Hình như phi điểu thất quần,
Lạ-lùng khôn nẻo ẩn thân, náu hình.
Nghĩ mình tủi xót phận mình,
Dám xin bày thực chân tình biết sao ?
"Thương hoa xin chớ ngại nào,
Hãy khoan-khoan để má đào gửi thân.
"Ngửa trông bể ái nguồn ân,
"Song thời đã trót định thân cùng người.

"Lòng tôi ái sắc tham tài,
"Hai anh cốt lấy một người kết duyên.
"Ngựa nào gác được hai yên,
"Cho nên tôi phải gửi nguyền bói tên.
"Bắn chim vừa thủa ứng huyền,
"Ai mà bắt được thì nên vợ chồng,
"Phải tay Ngụy Soạn anh-hùng,
"Được tên lại viết thư phong, ngọc lành.
"Chữ rằng: tòng nhất bất canh,
"Chẳng thì dám tiếc tiện-hình này đâu !"
Trung rằng: "Báo ứng nhiệm mầu,
"Lặng nghe ta kể trước sau cho tường.
"Nguyên xưa ở chốn học-đường,
"Nhổ tên đầu tước, thực chàng Tử Trung.
"Mới hay thiên dịa chí công,
"Bây giờ lại tỏ hình-dung rõ-ràng.
"Giũ tên hạ thủ vi cường,
"Ngọc này sẵn đợi ngọc-trang chăng là ?
"Việc xưa phảng-phất gần xa,
"Nghĩ lâu thì lại nhớ ra rõ-ràng.
"Đề thơ chim tước bay sang,
"Phát tất ứng huyền, chữ ký Phi-Nga !"
Tuấn Khanh rằng: "Mới dị kỳ,
"Thế mà anh Ngụy Soạn Chi nhận càn."
Chàng rằng: "Thiên vận tuần hoàn,
"Kẻo kêu rằng chịu, kẻo van rằng đừng.
"Giục lòng hương-lửa tưng-bừng,
Khen thay nguyệt-lão xích-thằng xe dây."
Trăng trăng, gió gió, mây mây,
Kẻ yêu quốc-sắc, người say văn-tài.
Duyên sâu sánh với tình dài,
Bõ công đăng-hỏa, dùi mài xưa nay.
Bỗng đâu giong-ruổi đến đây,
Tưởng rằng cố hữu, ai hay duyên hài.
Trượng-phu thiện kính anh-tài,
Thuyền-quyên dẫu đấng vạn loài chẳng tha !
Vén cành âu hẳn hái hoa,
Khỏi lầu mới gọi nàng Ba bước vào.

23- Tuấn Khanh với Tử Trung thành thân

Chàng liền cởi áo cẩm-bào,
Thuyền-quyên sánh với anh-hào Trướng loan nghiêng-ngửa gối loan
Thắm duyên Thần-nữ, phỉ nguyền Tương quân.
Vui-vầy bể ái nguồn ân,
Mưa trên đỉnh Sở, mây vần ngàn Tương.
Khắc giờ hơn nợ nghìn vàng,
Say-sưa vẻ nguyệt, mơ-màng giấc mai.
Cùng nhau đã phỉ duyên hài,
Nàng bèn năn-nỉ trình lời vân vân:

24- Tuấn Khanh thuật chuyện gặp Cảnh tiểu-thư

"Thiếp nay là phận nữ-nhân,
"Một thân đã phó lang-quân cầm quyền.
"Lòng còn nghĩ-ngợi chưa yên,
"Soạn Chi đã trót nhận tên phải lầm.
"Ta nay đã hợp sắt cầm,
"Ắt chàng Ngụy Soạn tủi thầm không đâu.
"Tôi xin đoan một chước mầu,
"Tích xưa dĩ mã dịch ngưu hay là.
"Nguyên tôi ngày trước đi qua,
"Nghỉ Thành-đô phủ, gần nhà Phú-ông,
"Thấy nàng thục-nữ hình-dung,
"Trầm ngư lạc nhạn tuyệt vòng trần-gian.
"Con Cảnh Tướng-quốc ở quan,
"Thấy tôi muốn kết phượng-loan duyên lành.
"Tôi đà làm chước từ hành,
"Song nàng chỉ quyết một tình khăng-khăng.
"Vậy tôi phải lấy ngọc-trang,
"Mượn đồ chàng Ngụy đưa sang tức thì.
"Gọi là lễ mọn xá chi,
"Rắp-ranh để kết duyên nghì đủ đôi.
"Kẻo tôi đã trót chịu lời,
"Bói tên thấy ở tay người biết sao ?
"Ai ngờ thiên võng nan đào,
"Giẩy-giun thiếp bỗng tìm vào tới đây.
"Ơn chàng thương đến hậu thay,
"Muốn đem nàng ấy vào tay Ngụy chàng.
"Khác nào vàng lại đổi vàng,
"Kẻ về bên ấy, người sang bên này !

25- Tuấn Khanh thuật chuyện gặp Cảnh tiểu-thư

"Tử Trung nghe nói mừng thay,
"Rằng: "Thi diệu-kế ta nay bằng lòng.
"Còn đi xem việc Tham-công,
"Hôm qua đã tấu Cửu-trùng ngự coi.
"Phán-quan Lại-bộ tra rồi,
"Ta đi xem thử lượng tài làm sao ?"
Tử Trung lên tới lầu cao,
Gặp quan Lại-bộ vừa vào tấu tri.
Lượng tâu Tham-tướng lão kỳ.
Lại ra trọng trấn biên-thùy an dân.
Thằng Binh Đạo ở bất nhân,
Mưu-mô phản kẻ trung-thần oan-khiên.
Tội thằng Binh Đạo đương nhiên,
Đem đày Đông-hải mười niên sẽ về.
Họ Văn phủ-nội vật gì,
Phó hoàn Tham-tướng lĩnh về phủ-trung.
Lại sai trọng trấn đổng-nhung,
Truyền Công-án viện cứ công phụng-hành.
Tử Trung nghe rõ phân minh,
Vợ chồng sắm-sửa khởi trình vinh qui.

Chú thích:

Thúy-lĩnh: Núi biếc hay là núi Thuý bình lĩnh ở tỉnh Cam-túc bên Tàu,

Tương-dương: Phải chăng tên một huyện thuộc tỉnh Hồ-bắc bên Tàu; có lẽ những cảnh núi non này là lối từ Thành-đô lên Biện-kinh phải đi qua ? hay chỉ là mượn để trỏ về cảnh rừng núí ?

kinh-kỳ: Kinh-đô nhà vua - Đời Bắc Tống đóng đô ở Biện-kinh, tức huyện Khai-phong thuộc tỉnh Hà-nam bên Tàu bây giờ.

ngọc-nhan: Mặt ngọc, tiếng gọi tôn, gọi lịch-sự.

Chân hài giở gót: Do chữ đảo lý xuất nghênh : Đi ngược giày ra đón, vì gặp bạn mừng quýnh.

Tha hương ngộ cố: bởi câu " tha hương ngộ cố tri " : Đất khách gặp bạn cũ.

cố hữu: Bạn cũ, trỏ Tuấn Khanh.

tân-quan: Quan mới, trỏ Tử Trung mới đỗ.

tôn-bá: Bác, tiếng gọi bậc ngang-hàng với cha bác.

gian-truân: Chữ gian-truân có bản chép là gian-nan thì lạc vần.

cửu-trùng: Chín lần. Đời quân chủ, phẩm cấp triều-đình có 9 bậc tứ đến9, bên trên 9 bậc ấy là đức Chí-tôn tức là vua. Nên quen gọi vua là Cửu-trùng.

Thiên-triều: Thiên-tử ngự triều, vua ngự ra coi triều cho các quan tâu việc.

tùy-nhi: Trẻ đi theo, tức đầy-tớ.

Tiểu-hàm: Hòm con.

tính-danh nữ-hài: Họ tên người con gái.

giai-kỳ: Thời kỳ tốt. Hẹn hay.

sở cầu từ đây: Điều mình cầu ước. Câu này Tử Trung nhắc lại câu " ước gì biến-dịch thư hùng " khi trước.

sự chân: Sự thật.

nhân nguyện thiên tùy: Người ước ao trời cũng chiều theo.

Pháp-loa: Một vị cao tăng đời Trần.

phi điểu thất quần: Chim bay lạc đàn, ý nói bị lộ chân-tướng thành ra lúng-túng như chim lạc đàn không biết tựa vào đâu.

định thân: Định việc vợ chồng.

tòng nhất bất canh: Theo một chẳng đổi, ý nói người đàn-bà một chồng không bao giờ thay lòng đổi dạ.

tiện-hình: Tấm thân hèn mọn.

thiên dịa chí công: Trời đất rất công-bằng.

Thiên vận tuần hoàn: Vận trời quanh-quẩn vần xoay.

hương-lửa: do chữ hương-hỏa, lòng nồng-nàn.

Duyên sâu sánh với tình dài: Có bả chép " duyên sâu sánh với trời già " thì vô nghĩa lại lạc vận.

đăng-hỏa: Đèn lửa, công học-tập.

cẩm-bào<: Áo gấm.

giao-hoan: Vui với nhau.

Trướng loan: Loan là loài chi phượng-hoàng, chi trống là phượng, mái là hoàng, chim non là loan. Trướng loan bởi chữ : màn thêu chim loan, tượng-trưng sự trẻ trung tươi dẹp như loài loan phụng.

gối loan: Gối vẽ hình chim loan.

Thần-nữ: tức Dương đài thần-nữ. Trương-quân tức Sở Tương-vương " Tống ngọc Cao đường phú " : Sở Tương-vương chơi chằm Vâ Mộng (thuộc Hồ-bắc bây giờ), mộng cùng một mỹ-nữ chung gối, mỹ-nữ nói : " thiếp là thần-nữ ở dưới Dương-đài, sớm làm mây, chiều làm mưa". Nhân thế người ta dùng " mây mưa " và tích thần-nữ với Tương-vương để nói về cuộc hội ngộ của nam nữ. Thơ Lý Bạch :"vân vũ vu-sơn uổng đoạn trường", và của Trần Đoàn :" Xử sỹ bất tri vu giáp mộng, không giao thần-nữ há dương-đài" đều lấy tích ấy.

Mưa trên đỉnh Sở, mây vần ngàn Tương: Đỉnh Sở, ngàn Tương đây chỉ là tả cảnh hai nơi núi non nào, cũng như bãi Sở sông Ngô chẳng hạn.

Khắc giờ hơn nợ nghìn vàng: Câu này bởi câu thơ " xuân tiêu nhất khắc tự thiên kim.

Say-sưa vẻ nguyệt, mơ-màng giấc mai: Nguyệt mai đây chỉ là tả cảnh nguyệt hoa hoa nguyệt.

lang-quân: Đức anh chàng, tiếng đàn-bà gọi chồng.

sắt cầm: bởi câu "thê tử hảo hợp, như cổ sắt cầm"

dĩ mã dịch ngưu<: đem ngựa đổi trâu.

Trầm ngư lạc nhạn: nhạn sa cá lặn chỉ về sắc đẹp khiến cá cũng phải lặn chim cũng phải sa.

phượng-loan: loài chim phượng, chỉ về lứa đôi xứng đáng nhau.

từ hành: chối từ ra đi.

thiên võng nan đào: Lưới trời khó tránh.

Thi diệu-kế: Thi-hành mẹo giỏi.

Lại-bộ: Một bộ coi việc tuyến-bố, đứng đầu 6 bộ.

lượng tài: Cân nhắc, xét xử.

tấu tri: Tâu lên cho vua biết.

lão kỳ: Bậc lão thành kỳ-cựu, người già cả.

trọng trấn biên-thùy an dân: Nghĩa là ra trông coi nơi biên-giới trọng yếu để giữ gìn cho dân được yên hay là cho dân yên lòng.

đương nhiên: Đáng thế.

Đông-hải: Bể đông.

phủ-nội: Trong phủ, trong dinh.

Phó hoàn: Giao trả.

phủ-trung: Cũng như phủ-nội.

trọng trấn đổng-nhung<: Coi việc binh nơi trọng trấn.

Công-án viện: Nơi thi-hành luật-pháp.

phụng-hành: Phụng mệnh-lệnh trên mà thi-hành.

vinh qui: Đem sự vinh-dự mà về quê, tức như những người thi đỗ.


26- Soạn Chi thất vọng khi đến nhà họ Văn

Nhà quan Tham-tướng đã về,
Ngoài dinh, Ngụy Soạn chực kề đợi tin.
Tưởng rằng về đến thì nên,
Chẳng ngờ đã phõng tay trên nực cười.
Tổ tôm kia mới bất tài,
Thập thành ngồi đợi một hai lấy tiền.
Tuấn Khanh việc rõ tòng quyền,
Đổi thay quần áo như in mọi ngày.
Đến mừng Ngụy Soạn trình-bày,
Rằng: "Em cam chịu lỗi này biết sao.
"Nghe tin anh đỗ bảng cao,
"Vội mừng kể đã biết bao là mừng.
"Cho cam lặn suối qua rừng,
"Thần-kinh chỉ nẻo tách chừng thăm tin.
"Đành hay có chí thì nên,
"Khôi-nguyên mừng mới, nhân-duyên phải thì.
"Chữ rằng: "Thiên tải nhất thì,
"Lọ gieo lá thắm, lọ xe chỉ hồng.
"Nay mừng gặp hội kỳ phùng,
"Dám xin tạm trú thong-dong mấy ngày.
"Em về minh-bạch trình-bày,
"Gửi qua nghiêm-phụ người hay sự lòng."

27- Tuấn Khanh thú thực tình với Tham-tướng

Nàng bèn vào lạy Tướng-công,
Nỗi-niềm gia sự thỉ-chung trần tình.
Rằng: "Con nhân việc lai kinh,
"Một mình mình biết, một mình mình hay.
"Bởi chưng văn-sớ cầm tay,
"Tiện khi cầu-khấn đêm ngày cho cha.
"Bỗng quên bỏ ngỏ hòm ra,
Tử Trung xem thấy biết là nữ-nhân.
"Lộ tình và nặng niềm ân,
"Cho nên chàng ép hôn-nhân đã thành.
"Lạy cha xin thú thực tình,
"Chẳng tham hoa-nguyệt mà khinh phép nhà."
Tướng-công mừng rỡ thay là,
"Rằng: "Khen gái trả ân cha mới tài.
"Mừng con đã đẹp duyên hài,
"Việc gì bởi phận, tại trời xui ra.
"Có sao thấy gã tân-khoa,
"Ngựa xe đến chực bên nhà đã lâu ?
"Ngày xưa có thấy vào hầu,
"Hỏi-han xem ý ra màu rắp-ranh.
"Cha thì giả cách vô tình,
"Khách thì vốn dạ đinh-ninh một lòng.
"Vắng con cha chẳng nói cùng,
"Bây giờ đã vậy khách mong nỗi gì ?"
Nàng bèn thưa-thớt vân-vi :
"Bói tên chàng Ngụy toan khi lộn sòng.
"Được tên là Đỗ Tử Trung,
"Con đà tra thực thỉ-chung rõ-ràng.
"Trình qua nghiêm-phụ được tường."

28- Soạn Chi phàn-nàn với Tử Trung

Soạn Chi đến quán chào chàng Tử Trung.
Rằng: "Tôi thấy sự lạ-lùng,
"Cho nên tôi đến trình cùng quí-huynh.
"Nguyên tôi giao với Tuấn Khanh,
"Chị chàng tôi đã rắp-ranh Tấn Tần
"Giao rằng chiếm được bảng xuân,
"Trở về rồi sẽ hôn-nhân kết nguyền.
"Nay tôi đã chiếm khôi-nguyên,
"Cứ lời giao-ước cho nên tới hầu.
"Ngỡ là y ước sở cầu,
"Ai ngờ biến cải ra màu bạc đen.
"Nỡ nào ở thế cho nên,
"Nhẹ bên đai ấn, nặng bên má hồng.
"Thuyền-quyên nỡ phụ anh-hùng,
"Để anh-hùng luống chốc mòng thuyền-quyên.
"Phiền anh gắng sức một phen,
"Gửi qua Tham-tướng có nên chăng tường."

29- Đỗ Tử Trung nói thực với Soạn Chi.

Thấy lời chân-thực khá thương,
Tử Trung mới bảo rõ-ràng cho hay :
Rằng: "Trang tình-nghĩa xưa nay,
"Há rằng mới có một nay ru mà !
"Lần lần năm đã kể ba,
"Tuy hình nam-tử, thực là nữ-nhân.
"Bởi chưng để lộ sớ văn,
"Cho tôi mới biết ân-cần hỏi tra.
"Nàng bèn sự thực nói ra,
"Cùng tôi lời đã giao-hòa kết duyên.
"Mới hay thành sự tại thiên,
"Một lời nói cợt mà nên vợ chồng !
"Nàng thì đã vẹn chữ tòng,
"Chị thì chẳng có, anh hòng làm chi ?
"Rõ-ràng còn có giấu gì ?
"Anh em là nghĩa lan-chi bạn vàng "
Soạn Chi nghe nói bàng-hoàng,
Giục hề sắm-sửa lên đường hồi gia.
Giận rằng sa kế đàn-bà,
Soạn Chi nghĩ lại tưởng mà hổ ngươi.
Tìm lời chữa thẹn đỡ thời,
Một ngày mắc tiếng, muôn đời tạc bia,
Thế-gian họa hổ họa bì,
Tri nhân, tri diện, ai thì tri tâm.
Sự nay ta đã trót lầm,
Vậy bèn kể-lể nghĩ thầm xưa sau:
"Sắc tài ai kém ai đâu,
"Rủi may là phận, ai hầu biết sao ?
"Sắt cầm duyên những ước-ao,
"Lượng công-trình kể biết bao công-trình.
"Vô tình thay, khách vô tình,
"Nỡ đem lòng bạc mà khinh nghĩa vàng !

30- Soạn Chi dự lễ nghênh hôn

Thấy lời than-thở cũng thương,
Tử Trung mới bảo Ngụy chàng cho hay :
"Đã nên may khéo là may,
"Lễ nghênh hôn đã đặt bày vừa xong,
"Phiền anh vào gửi tướng-công,
"Cho vào làm lễ cúc cung từ-đường.
"Tiệc rồi em lẻn lên đường,
"Thì anh sắm-sửa vinh hương cũng vừa."
"Sọan Chi mặt-mũi ngẩn-ngơ,
"Đười-ươi giữ ống hẫng-hờ tính sao ?
Chẳng đi ra ý làm cao,
Đi thời còn mặt mũi nào mà đi !
Thôi thôi ở cũng mà chi,
Lời rằng chữ vị là vì quản-bao !
Gọi hề sắm-sửa cho tao,
Văn cân đai cước, cẩm bào nghiêm-trang.
Bèn vào Văn-tướng từ-đường,
Cứ trong hôn lễ phần hương khấn-cầu.
Nguyện xin báo ứng nhiệm-mầu,
Họ Văn, họ Đỗ cùng nhau thọ tràng.
Tướng-công mở tiệc giữ-giàng,
Khuyên mời tân khách họ-hàng no say.
Đương khi tiệc-yến vui-vầy,
Tráp trầu nàng mở sắp bày đưa ra.
Lễ mừng hai họ gần xa,
Rồi nàng lại trở gót hoa về phòng.
Vợ chồng vào lạy tướng-công,
Tạ cùng Ngụy Soạn, giải lòng vân vi ;
"Nàng ba là nghĩa lan-chi,
"Phiền anh tạm trú đợi thì sẽ hay.
"Để tôi tuyển-trạch được ngày,
"Cùng nhau ta sẽ vui-vầy vinh hương."
Sọan Chi ngồi lặng tư-lường
Ra chiều có ý bẽ-bàng lắm thay !
Giờ lâu Soạn mới thưa bày,
Trình rằng: "Đợi một vài ngày thì vâng !"

Chú thích:

Thập thành: Đánh tổ tôm đã thập thành: mười phần thành cả mười, sắp hạ ù lấy tiền, thì bị người ù tay trên, thế là bất tài : Thấp hay là dông.

Thần-kinh: Kinh nhà vua.

Thiên tải nhất thì: Nghìn năm mới có một lúc.

kỳ phùng: Gặp gỡ lạ-lùng.

tân-khoa: Người mới đỗ.

Tấn Tần: Hai nước Chư-hầu đời Xuân-thu đờo đời kết-hôn với nhau, người ta mượn để chỉ việc kết hôn hay thông-gia.

thành sự tại thiên: Nên việc ở trời.

tòng: là tòng phu, do chữ xuất giá tòng phu : lấy chồng theo chồng.

lan-chi: Thứ cây hoa thơm, người ta quen mượn ví với bạn hiền, bởi câu " giữ thiện nhân giao như nhập chi-lan chi thất" Làm bạn với người tốt như vào nhà có chi-lan.

bàng-hoàng<: Hốt-hoảng, sợ-hãi.

hồi gia: Về nhà.

sa kế đàn-bà: là mắc mưu đàn-bà, có bản chép : "Dặn rằng xa kẻ đàn-bà"

họa hổ họa bì: Vẽ cọp chỉ vẽ được da.

Tri nhân, tri diện<: biết người biết mặt. Tri tâm : biết lòng.

nghênh hôn: Đón dâu.

cúc cung: Cúi mình làm lễ. Từ đường : nhà thờ.

Đười-ươi giữ ống: một loài vật như loài khỉ, ở trong rừng hay khét mắt người, hễ bắt được người thì giữ lấy cổ tay, rồi ngửa mặt lên trời mà cười, khi mặt trời lặn mới ngó xuống. Người đi hái củi thường xỏ tay vào ống nứa, lỡ gặp đười ươi bắt thì đưa tay có ống nứa cho nó giữ, rồi thừa lúc nó ngửa mặt lên trời thì rút tay ra mà trốn đi, người ta mượn câu ấy để ví nhữ việc là không đâu.

Văn cân: khăn quan văn, khăn nhà nho.

phần hương: đốt hương.

tuyển-trạch: kén chọn.

vinh hương: Vinh qui nơi cố-hương.

tư-lường: Nghĩ ngợi.


31- Nữ tú-tài đem hoa nọ tiếp cây kia

Vợ chồng Đỗ-thị vào phòng,
Sắm-sanh đồ-đệTử Trung lên đường.
Vó câu khoan bước dặm trường,
Trỏ thành-đô phủ chốn hàng ngày xưa.
Mong sao gặp mặt tiểu-thư,
Nạp nghênh hôn lễ mà đưa nàng về.
Gả cho anh Nguỵ Soạn Chi,
Cùng nhau ta sẽ lưỡng qui nhất đoàn.
Những mong than-thở sự duyên,
Thành-đô phủ ấy gần miền tới nơi.
Bỗng nghe tiếng nhạc vang trời,
Giục lòng thiếu-nữ viễn hoài nhớ mong.
Vội mừng ngỡ tiểu tướng-công,
Nào ngờ Đỗ Tử vào trong sảnh-đường.
Phú-ông sắm-sửa vội-vàng,
Ra hầu quí-khách chưa tường duyên-do:
"Tôi là già lão hèn-ngu,
"Việc gì xin chỉ-giáo cho mừng lòng ?"
Bấy giờ chàng Đỗ Tử Trung,
Khuyên mời quan lão tướng-công cùng ngồi:
"Tôi xin trình gửi vài lời,
"Có tin hỉ sự vầy-vui đó mà!
"Rằng anh Ngụy Soạn Thám-hoa,
"Đồng song vả lại đồng khoa bảng vàng.
"Ngày xưa có gửi ngọc-trang,
"Vốn đem duyên kết cùng nàng tiểu-thư.
"Lễ nghênh hôn cậy tôi đưa,
"Trình quan lão-tướng chọn giờ lên xe."
Mấy lời lão-tướng ngồi nghe,
Rằng: "Tôi tuổi-tác hàn-vi bất tài.
"Có con cháu gái nữ-hài,
"Nguyên xưa đã kết Tú-tài họ Văn.
"Chàng còn dở việc nghiêm-quân,
"Cho nên chưa định hôn-nhân đưa về
"Gửi trình lời thực lòng quê
"Còn không lão dám tiếc chi nói càn."
Tử Trung rằng vốn ngọc-trang,
"Tuấn Khanh đã đổi cho chàng Soạn Chi.
"Họ Văn đã hẹn vu-qui,
"Lại làm một bức thư đưa rõ-ràng.
"Phiền người đưa đến cho nàng,
"Nhận xem tự dạng mới tường sự duyên.
"Nàng nhìn trong bức thư tiên,
Thì bài thơ họa quả-nhiên của mình.
Song hiềm một nỗi Tuấn Khanh,
Bấy lâu vắng bóng phong thanh cá nhàn
Ước-ao thấy mặt tiểu quan
Cho cam công khách hồng-nhan đợi chờ.
Quải người thay, bấy ông tơ,
Xe duyên chểnh-mảng, thẫn-thờ niềm đơn.
Ước gì rõ được căn-nguyên,
Thắm phai cho biết, bạc đen cho tường.
Nhân sao chiếm nhận ngọc-trang,
Xưa nay ai biết Ngụy chàng là ai.
Rày chi những sự trái tai,
Thiên duyên chẳng lọ vật-nài ép duyên !
Ví mà ỷ thế cậy quyền,
Thì đành
bình thủy, hoàng tuyền thấy ai ?
Phiền ông ra gửi lại người,
Phú-ông lại cứ như lời trình qua.
Tử Trung thấy nói thực-thà,
Sai quân về đón hầu bà tới nơi.
Dẫn cho rõ nỗi-niềm tây,
Trước sau minh-bạch chuyện này mới xong.
Nàng vâng lĩnh mệnh thẳng dong,
Lên xe bèn tới Phú-ông thảo-đường.
Nực cười thay Cảnh thư-nương,
Nhác trông xa ngỡ em chàng Tuấn Khanh.
Ghé nom trong bức mành-mành,
Nhìn xem nhan-sắc dáng hình như in.
Nghĩ rằng nàng tới đem tin,
Ắt là ta hẳn phỉ nguyền từ đây,
Vội-vàng bèn trở gót giày,
Mời rằng nương-tử vào ngay trong phòng.
Ong mừng bướm, bướm mừng ong,
Kẻ mong tin nhạn, người mong thư truyền,
Hỏi thăm công-tử bình-yên,
Đến đây nương-tử hàn-huyên việc gì ?
Tuấn Khanh rằng phận nữ-nhi,
"Chấp kinh-quyền cũng phải tùy mới thông.
"Tôi đà phận đẹp cỡi rồng,
"Muốn cho nàng cũng chữ đồng vinh-hoa.
"Thực là ngày trước đi qua,
"Trá hình nam-tử nay ta rõ-ràng.
"Bởi chưng có việc nghiêm-đường.
"Cải tang cho tiện đường trường xông-pha.
"Nay tôi đã vẹn thất-gia,
"Phu-quân là Trạng tân-khoa nhà ngoài.
"Còn chàng Ngụy Sọan quốc tài,
"Chưa nơi nào đẹp duyên hài xứng cân.
"Thấy nàng đáng giá phu-nhân,
"Cho nên tâm-sự ân cần đem sang.
"Vốn ngày xưa chiếc ngọc-trang,
"Thực là của Ngụy Soạn chàng vấn danh.
"Bởi tôi ngày trước trá hình,
"Nên bây giờ phải thân-hành thưa qua.
"Nàng nên sắm-sửa bước ra,
"Chào quan Hoàng-bảng tân-khoa lấy lòng.
"Trở vào lạy tạ Phú-ông,
"Chị em ta cũng đều cùng vinh-qui."
Mấy lời nàng Cảnh ngồi nghe,
Nghĩ rằng chưa tỏ Soạn Chi dạng-hình.
Nhưng mà khoa-mục tướng-khanh,
Có hình thì mới có danh ắt là.
Nàng bèn minh-bạch trình qua,
Phú-ông nghe nói lòng hòa mừng thay.
Truyền làm yến-tiệc vui-vầy,
Lễ nghênh hôn cũng đặt-bày nghiêm-trang.
Nàng vào bái tạ từ-đường,
Lạy ông thôi mới mời chàng Tử Trung,
Tiệc rồi thầy tớ thung-dung,
Xe xe, ngựa ngựa, thẳng dong lên đường.
Vui chân chẳng ngại dặm trường,
Đến nơi gia-tướng Ngụy-chàng văn-nhân.
Nhìn xem quốc-sắc mười phân,
Nghĩ rằng khách cũng là xuân càng mầu.
Mừng lòng đã thỏa sự cầu,
Người xe chỉ thắm, ta xâu hạt vàng,
Song song anh, yến, phượng, hoàng,
Cùng nhau mở tiệc lên đàng vinh qui.
Tiệc bày hồng nhạn tứ vi,
Họ-hàng thân-thích, hả-hê vui-vầy.
Xướng ca đàn hát ba ngày,
Tiệc rồi ai nấy chia tay ra về.

32- Đôi bên trả lại của tin ngày trước

Tử Trung mới hỏi Soạn Chi:
"Ngọc-trang đã hợp, nào thì trúc tiên ?
"Giao hoàn cho phỉ sở nguyền,
"Các tuỳ kỳ tiện mới yên dạ này."
Trúc-tiên Soạn đã cầm tay,
Vâng lời bèn mới gửi ngay trả chàng.
Giao rằng bốn họ vinh xương,
Có người khoa-mục, có nàng thục-nhân.
Đời đời xuân lại gặp xuân,
Dõi truyền Đỗ, Ngụy, Cảnh, Văn bốn nhà.

Tổng kết:

Truyện này dù thực dù ngoa,
Cứ trong tiểu-thuyết diễn mà chép chơi.
Miễn là lầm-lỗi theo lời,
Chẳng ca Bạch-tuyết, chẳng tài Thanh-liên.
Ít nhiều chắp-chảnh một thiên,
Ai chê mặc ý, ai khen mặc lòng.
Dõi truyền phúc, lộc, thọ chung,
Kiêm toàn bách phúc, huởng đồng thiên xuân.

= HET=

Chú thích:

lưỡng qui nhất đoàn: Hai đám vinh-qui nhập làm một đoàn.

viễn hoài: Nhớ người xa.

sảnh-đường: Nhà khách.

hỉ sự: Việc vui mừng.

Đồng song: Bạn cùng học một trường.

tự dạng: Nét chữ, lối chữ.

phong thanh: phong thanh cá nhàn là nói về tăm-hơi tin-tức do tiếng gió và cá nhạn đưa đến.

tiểu quan: Quan trẻ, đây trỏ Tuấn Khanh.

Quải người: cũng như ghẹo người.

Thiên duyên chẳng lọ vật-nài ép duyên: Thiên duyên : duyên trời.

bình thủy, hoàng tuyền: Bình thủy : Bèo nước , Hoàng tuyền : suối vàng, ý nói đàng rằng trôi-giạt hay chết xuống suối vàng.

hầu bà: đây trỏ vào vợ Tử Trung tức Phi Nga tức Tuấn Khanh.

thảo-đường: Nhà tranh, nói nhún nhà xoàng. Tiếng Thảo-đường đây có lẽ không ổn.

Vội-vàng bèn trở gót giày: Thái Ung đương tiếp khách, nghe Vương Sán đến, vội vàng ra đón đến nỗi đi ngược cả giày.

nương-tử: Cô nàng, tiếng gọi tôn bạn gái.

hàn-huyên: Hàn :rét, huyên : ấm . thời tiết thay đổi khi rét khi ấm, cũng như đời người lúc thế này lúc thế khác. Tiếng hàn huyên dùng để hỏi thăm nhau lâu nay thế nào ?

cỡi rồng: Ngụy Hoàng-Thượng cùng Lý Ưng cùng làm quan Tư-đồ cùng lấy con gái quan Thái-úy Hoàng nguyên Thúc người ta khen 2 cô gái họ Hoàn đều cỡi rồng. Thơ Đỗ Thủ Môn vi đa hỉ sắc, nữ-tử khoái thừa long

chữ đồng: Là chữ đồng tâm

thất-gia: Nhà cửa, vợ chồng

phu-nhân: Là bậc tối-cao, vợ các quan nhất, nhị phẩm mới được như: Nhất phẩm phu-nhân, nhị phẩm phu-nhân

Hoàng-bảng tân-khoa: Người mời đỗ bảng vàng

khoa-mục tướng-khanh: Người thi đỗ làm quan to

gia-tướng: Trong câu này rất hối nghĩa, có bản chép "ra tướng" thì cũng không hơn gì, xin kính chất cùng độc-giả

anh, yến, phượng, hoàng: 4 giống chim cùng đôi lứa với nhau

hồng nhạn: Loài chim có thứ tự trên dưới trước sau, ví như anh em

Ngọc-trang: Là vật Tuấn Khanh lấy của Ngụy Soạn Chi trao làm tin cho Cảnh tiểu-thư. Trúc-tiên tức cái tên Tuấn Khạnh bắn chi sẻ để bói việc hôn-nhân, đã lọt tay Đỗ Tử Trung mà Đỗ lại trao cho Ngụy, nay lại trả về Đỗ

Giao hoàn: Giao trả lại

Các tuỳ kỳ tiện: Ai nấy đều được tùy theo sự phương-tiện riêng của mình, cũng như nói "đâu về đấy"

Đỗ, Ngụy, Cảnh, Văn: Đỗ Tử Trung, Ngụy Soạn Chi, Cảnh tiểu-thư, Văn Phi Nga tức Nữ tú-tài

Bạch-tuyết: Một khúc hát cổ nhạc-phủ, do một nhạc-công có tiêng đời xưa là Sư Khoàng chế ra. Khúc hát tuyệt-điệu, không mấy người họa nổi. Tống Ngọc thưa với vua Sở: Khách có kẻ hát ở kinh-đô sính bằng khúc Dương-xuân Bạch-tuyết họa lại chẳng qua chỉ được vài mươi người, vì khúc hát càng cao, thì họa lại càng ít.

Thanh-liên: Biệt hiệu của Lý Thái Bạch, một bậc thi-bà đại tài đời nhà Đường

bách phúc, huởng đồng thiên xuân: Trăm phúc, Ngàn Xuân, cũng như nói thiên thu, ý nói hưởng thụ lâu dài