Monday, September 30, 2019


Cậu bé bán thuốc lá dạo ở VN trở thành nhà khoa học tài giỏi ở Mỹ

Cậu bé bán thuốc lá dạo ở VN trở thành nhà khoa học tài giỏi ở Mỹ
Chi tiết
Chuyên mục: Truyện hay
 Được đăng: 02 Tháng 5 2016
Cậu bé bán thuốc lá dạo ở VN trở thành nhà khoa học tài giỏi ở Mỹ

 Một nhà khoa học thành danh ở Mỹ với nhiều công trình nghiên cứu và hằng trăm bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế xuất thân từ một cậu bé bán thuốc lá dạo ở chợ Gò Vấp, Sài Gòn. Câu chuyện của Giáo sư-Tiến sĩ Hóa học Trương Nguyện Thành hiện đang giảng dạy tại trường đại học Utah, Hoa Kỳ, là niềm hãnh diện của người Việt trên trường quốc tế và là tấm gương đáng khâm phục để giới trẻ Việt Nam noi theo.


Năm 11 tuổi, cậu bé Thành đã bắt đầu bươn chải, dãi dầu mưa nắng để kiếm tiền phụ mẹ nuôi 9 anh chị em sau khi cha mình bị liệt bán thân. Ngày ngày, sau giờ tan trường từ giữa trưa đến tận 9, 10 giờ đêm, cậu bé rong ruổi với thùng thuốc lá trên vai đi bán dạo quanh bến xe lam chợ Gò Vấp. Năm 1976, khi Việt Nam mở chiến dịch đưa cư dân ra các vùng kinh tế mới xa xôi, hẻo lánh, gia đình Thành chuyển xuống Lái Thiêu xoay sở tậu được một miếng ruộng nhỏ và một cặp trâu. Ở tuổi 15, Thành bỏ nghề bán thuốc lá dạo để chuyển sang đi cày thuê cuốc mướn. Việc học của cậu bé bị cản trở và chi phối rất nhiều bởi công cuộc mưu sinh vất vả hằng ngày, nhưng ý chí quyết tâm theo đuổi con đường học vấn để đổi đời đã vun đúc trong lòng cậu bé từ rất sớm.




Hình minh họa

Tiến sĩ Thành chia sẻ:

“Tôi có tư duy thích học, những lúc rảnh rỗi, tôi thường lấy sách đọc. Chỉ có môn toán là tôi học được vì không đòi hỏi tập trung nhiều. Cứ rảnh là tôi ngó qua một cái rồi để cái đầu tôi làm việc. Tôi được sự dạy dỗ của ông nội và ba tôi. Họ thường khuyên rằng học vấn là con đường ngắn nhất để đưa một người không có gì tới thành công.”

Tới năm học lớp 12, con đường học vấn của cậu bé nghèo, lam lũ bắt đầu rẽ bước ngoặt, xuất phát từ một đáp án dí dỏm của Thành trước câu hỏi của thầy đố các học sinh giỏi. Ấn tượng trước sự thông minh của Thành, người thầy đã soạn đưa cho cậu bé một số sách để tham khảo.

 Giáo sư Trương Nguyện Thành kể lại:

“Năm 1979, Việt Nam lần đầu tiên tổ chức kỳ thi toán toàn quốc. Thầy tôi có đem mười mấy cuốn sách cho tôi mượn, bảo tôi đọc cho biết rồi tới dự lớp thầy dạy cho các học sinh giỏi dự thi toán. Tôi rất cảm động trước nghĩa cử này. Mỗi tối sau giờ làm ruộng, tôi đốt đèn dầu đọc sách từ 9 giờ tới 12 giờ đêm. Thời điểm đó, ở Việt Nam, lý lịch là vấn đề khá quan trọng. Lý lịch tôi tương đối xấu nên cô hiệu trưởng không cho tôi đi thi học sinh giỏi toán. Ông thầy lén đưa tôi đi theo đội tuyển, may quá tôi thi đậu. Tỉnh Bình Dương lúc đó chọn khoảng 30-40 em học sinh giỏi toán lên trên tỉnh học chuyên toán trong 3 tháng. Sau 3 tháng, họ tuyển lại lấy 5 em. Tôi cũng may mắn lọt vào trong 5 em đó. Cũng vì thế, ba tôi nhận ra rằng tôi có tiềm năng. Từ lúc đó, ông khuyên tôi nên nghỉ đừng đi cày thêm mà tập trung học. Và từ đó, ông tìm cách cho tôi ra nước ngoài.”

 19 tuổi, sau khi thi đậu vào đại học Bách Khoa, chàng thanh niên Trương Nguyện Thành vượt biên sang Mỹ. Sau 1 năm ở trung học với những khó khăn bước đầu về ngôn ngữ, anh từ giã gia đình bảo trợ người Mỹ để bắt đầu cuộc sống tự lập ngay từ năm thứ nhất đại học. Để trang trải sinh hoạt phí trong thời đèn sách, phần đông các bạn trẻ ở đây thường phụ việc ở nhà hàng, tiệm giặt ủi, hay đi giao báo. Riêng trường hợp của Thành, anh tìm đến một người thầy và xin được theo chân làm việc trong phòng thí nghiệm để bắt đầu công việc nghiên cứu ngay từ năm đầu đại học, một công việc thường bắt đầu ở bậc cao học. Số tiền kiếm được đủ trang trải các khoản chi phí hết sức tiết kiệm hằng ngày. Còn học phí của anh chủ yếu nhờ các khoản vay từ nguồn quỹ dành cho sinh viên và các phần học bổng của chính phủ. Sau 4 năm đại học, anh ra trường với bằng cử nhân hóa học cùng với 4 văn bằng phụ về lý, toán, công nghệ thông tin, và thống kê.

Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ. Trong thời gian nghiên cứu hậu tiến sĩ, anh dành được học bổng của Qũy Khoa học Quốc gia dành cho các tiến sĩ trẻ có tiềm năng vì lúc tốt nghiệp tiến sĩ, anh đã có 16 bài nghiên cứu trong khi trung bình một tiến sĩ khi ra trường xuất bản chừng 4-5 bài nghiên cứu. Năm 1992, anh về làm Giáo sư hóa cho trường đại học Utah. Một năm sau, anh được chọn là 1 trong những nhà khoa học trẻ nhiều triển vọng của Hoa Kỳ, với giải thưởng 500 ngàn đô la cho công tác nghiên cứu. Năm 2002, anh được cấp bằng Giáo sư Cao cấp, tức bậc cao nhất trong 3 cấp Giáo sư của Mỹ.

Những yếu tố nào giúp một cậu bé lam lũ, nghèo khó từng bán thuốc lá dạo, cày thuê cuốc mướn ở đáy xã hội Việt Nam lột xác, đổi đời thành một nhà khoa học danh tiếng tại Mỹ?

Giáo sư-Tiến sĩ Trương Nguyện Thành cho biết:

“Thứ nhất, người đó có tiềm năng trời phú. Thứ hai, có môi trường giúp họ phát triển. Thứ ba, người đó có nhận thức được rằng mình có cơ hội đó hay không.

Tiềm năng chỉ là khả năng, muốn đạt được thành công đòi hỏi phải có môi trường để phát triển. Môi trường không cho phép người đó phát triển, thì cũng không làm được. Điển hình là người Việt ở Mỹ hay ở nước ngoài thành công rất cao, thế nhưng tại sao ngay tại Việt Nam không có những ngôi sao như vậy?

Khi tôi bước chân vào trung học ở Mỹ, có một cậu vượt biên cũng giống trường hợp như tôi, đi một mình, được một gia đình Mỹ bảo lãnh. Cậu ta cũng ở gần nhà tôi. Khi tới Mỹ, tôi và cậu ấy có cùng một cơ hội như nhau. Tôi cố gắng hơn, tôi vào đại học. Còn cậu ta làm việc cho một hãng gà Tây, kiếm tiền liền. Một năm sau, tôi về lại làng thăm ba mẹ nuôi và ghé thăm thằng bạn. Công việc nó làm chỉ đứng móc ruột gà Tây thôi, chờ con gà chạy qua, đưa tay vào móc ruột gà ra. Nó khoe với tôi nó có được chiếc xe hơi. Còn tôi lúc đó vẫn chưa có gì. Sau 4 năm đại học, tôi trở về, anh bạn vẫn còn móc ruột gà Tây. Anh đã có được một căn hộ, có TV lớn, dàn máy xịn, xe hơi sports. Còn tôi vẫn chỉ một thùng sách quèn. Sau 5, 6 năm sau, tôi trở về, cậu bạn vẫn còn làm chỗ cũ nhưng cho biết phải đổi nghề vì đau nhức xương khớp tay do làm việc ở phòng lạnh. Lúc đó, tôi sắp ra tiến sĩ. Đó là cái điều kiện thứ 3 mà tôi muốn nói: người có tiềm năng, có môi trường, mà không nhận thức được cơ hội của mình và quyết tâm đạt được cơ hội đó. Thật sự, tôi không có xe hơi, không có bạn gái, không có tình phí, ở nội trú, ăn mì gói. Cho nên, chi phí tôi rất ít. Tôi làm việc trong phòng nghiên cứu chỉ đủ sống. Tôi ra đại học trong túi chỉ có 200 đô la, nợ nhà nước khoảng 15 ngàn đô la (mỗi năm khoảng 3-4 ngàn tiền học phí cộng với tiền phụ thêm để sống), cùng một thùng sách và một giỏ quần áo cũ.”

 Thành công ở xứ người, Giáo sư Thành trở lại Việt Nam, giúp thành lập Viện Khoa học Công nghệ Tính toán TP.HCM bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2009. Vừa tiếp tục giảng dạy tại trường đại học Utah ở Mỹ, vừa giúp điều hành Viện nghiên cứu tại Việt Nam, Viện trưởng Trương Nguyện Thành nói về công việc của mình:

“Điều khiển một viện nghiên cứu từ xa rất khó. Cho nên, có một viện trưởng tại Việt Nam chuyên lo các vấn đề hằng ngày như làm việc với chính phủ, hợp đồng, hay mướn người. Còn tôi phụ trách chiến lược phát triển về khoa học, kêu gọi những người khác về giúp phát triển.”

Ngoài ra, cá nhân ông còn nhận bảo trợ cho các sinh viên giỏi từ Việt Nam sang Mỹ du học bằng chính nguồn quỹ nghiên cứu của ông. Đích thân Giáo sư Thành đứng ra phỏng vấn tuyển chọn người tài, và từ năm 2001 tới nay, ông đã tài trợ cho trên dưới 20 sinh viên Việt Nam sang Mỹ học tập, nghiên cứu. Trong số này có nhiều người đã trở về giúp ông phát triển Viện nghiên cứu tại Việt Nam.

Tiến sĩ Trương Nguyện Thành tâm sự:

“Thời còn đi cày mướn, lời nguyền của tôi là nếu tôi thành công, tôi sẽ đem cơ hội đó cho lại những người khác. Đó là tâm nguyện của tôi lúc còn ở đáy xã hội Việt Nam. Tôi thường nói chuyện với học trò của tôi khi họ tới cảm ơn tôi đã cho họ cơ hội. Tôi bảo họ không cần cảm ơn tôi. Điều họ có thể trả ơn tôi là đem cơ hội đó cho một vài người khác. Chính vì vậy, một số đệ tử của tôi về lại Việt Nam, giúp tôi lập Viện. Tôi gieo những hạt giống và từ đó sẽ nhân thành những hạt giống khác. Một con én không làm nên nổi mùa xuân. Tôi chỉ là người mở đường. Những người khác bước chân theo, làm cho con đường rộng ra, nhẵn thêm, dễ đi hơn.”

Giáo sư Thành nói ai cũng mơ ước thành công, nhưng chỉ có những người chịu khó nỗ lực mới tới được đích đến:

“Tôi chỉ có một lời nhắn nhủ với các sinh viên ở Việt Nam rằng trên đời cái gì cũng có giá phải trả. Nếu muốn thành công, phải chấp nhận trả cái giá đó. Thành công là một con đường đi chứ không phải là một điểm đích. Tôi không nói tôi đã thành đạt điều gì, chỉ là một con đường mà khi quay lại tôi thấy tôi đã đi được rất xa rồi.”


Con đường thành công của Giáo sư -Tiến sĩ Trương Nguyện Thành trải qua bao nhiêu năm gian nan, thử thách. Cậu bé bần cùng, lam lũ ở Việt Nam qua đến Mỹ cũng đã nếm trải bao nhiêu những thiếu thốn, khó nhọc để có được vị trí đáng nể như ngày hôm nay. Đó là nhờ sự quyết tâm vượt khó vươn lên, sẵn sàng trả giá cho con đường đã chọn.

Sunday, September 29, 2019


Nhân tài Việt Nam đây

jeudi 11 février 2016
Nhân tài Việt Nam đây, và rất đang khâm phục như chị Nguyễn Thục Quyên.
Phải tự hào về những khoa học gia người Việt, vì một số người đã vượt bao nhiêu khó khăn trở ngại  về vật chất để mang công sức ra học hành và đã thành đạt.
Nếu đất nước ta là một nước không bao giờ có chiến tranh, một nước giàu có, và họ, những người Việt Nam này sinh ra trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất thì có thể là chuyện rất tự nhiên.
Riêng chị Nguyễn Thục Quyên là một bằng chứng đáng ghi nhớ để giúp cho những ai thấy khó mà không nên sờn lòng.

Caroline Thanh Hương



Nhà khoa học nữ gốc Việt trong top ảnh hưởng nhất thế giới

Tuổi thơ theo mẹ đi khắp nơi để kiếm sống, sang Mỹ thì bị bạn bè chê cười vì không biết tiếng Anh, nhưng Nguyễn Thục Quyên đã vượt qua tất cả và trở thành một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới.
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên sinh ra ở Buôn Ma Thuật (Đắk Lắk) trong một gia đình thượng lưu gồm 5 anh chị em. Sau năm 1975, cha đi cải tạo, mẹ chị - một cô giáo dạy toán cấp 2, dẫn dắt đàn con đến các vùng kinh tế mới như Phước Lâm, Long Điền, Đất Đỏ, Phước Tỉnh và Vũng Tàu để sinh nhai.
Lúc 5-6 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước... Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đình mở tiệm phở ở Bến Đá - Vũng Tàu, Quyên mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hãn.

Nhọc nhằn nơi xứ người
Tháng 7/1991, chị cùng bố mẹ và 5 anh chị đến Mỹ định cư. Hai năm đầu, các anh chị em của chị Quyên cứ đòi về Việt Nam vì không biết tiếng Anh và phong tục tập quán Mỹ. Nhưng chị thấy ổn vì được làm điều mình thích mà không sợ người khác dị nghị.
"Khi còn ở Việt Nam, gia đình đã vất vả rồi, nên khi sang Mỹ tôi phải cố gắng hơn rất nhiều để có được cuộc sống tốt hơn", chị Quyên chia sẻ. Để tự khẳng định bản thân nơi đất khách quê người, chị đã quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách đăng ký ở ba trường trung học tại ba thành phố. Ở Mỹ, tiếng Anh được học miễn phí.
Vất vả với bao tủi nhục khi bị nhiều người coi thường càng khiến chị có thêm động lực vươn lên. "Có giáo viên chế nhạo tôi trước cả lớp vì khả năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ còn nói thẳng với tôi hãy về nước của cô đi", 
chị nhớ lại và cho biết ở Mỹ vẫn còn một số người phân biệt kỳ thị như vậy. 
"Thậm chí có đồng nghiệp lúc ở trường không bao giờ nói chuyện với tôi mặc dù tôi đã cố gắng để nói chuyện với anh ta vài lần", nữ giáo sư nói.
Tháng 9/1993, người cô họ cho chị ở cùng nhà, nhưng chị phải dọn dẹp, nấu nướng, đi chợ và chạy việc vặt cho cô. 
Thời gian này, chị xin học ở Đại học Santa Monica nhưng không được nhận vì tiếng Anh kém. Chị đã năn nỉ nhà trường cho học thử một kỳ và hứa nếu không học được sẽ trở về trường trung học để học thêm tiếng Anh. Ban ngày đi học, ban đêm chị tìm lớp học thêm ở trung tâm dạy tiếng Anh miễn phí. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học.
Thấy bố mẹ vất vả làm trong nhà hàng và ở hãng may, chị không cho phép bản thân thất bại mà cố gắng gấp đôi, gấp ba so với những bạn cùng trang lứa. 
Để có tiền học, chị xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến 22h mỗi ngày, nhưng vẫn không đủ nên phải vay thêm tiền của Chính phủ.
Tháng 9/1995, chị xin chuyển lên Đại học Califonia, Los Angeles và làm thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. 
Chị xin làm nghiên cứu nhưng không có phòng thí nghiệm nào nhận. Sau khi tốt nghiệp bằng đại học Hóa năm 1997, chị nộp đơn học cao học. Chỉ trong một năm chị đã có bằng thạc sĩ ngành Lý - Hóa và quyết định học tiếp tiến sĩ. Thật bất ngờ, cuối năm của chương trình này chị là một 7 nghiên cứu sinh xuất sắc của Đại học Califonia, Los Angeles được trao học bổng.
Tháng 6/2001, chị nhận bằng tiến sĩ và ra trường trước cả những sinh viên chị từng rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ trước đây. Ra trường chị đạt giải thưởng xuất sắc ngành Lý - Hóa. Tháng 9/2001, được giải thưởng của liên bang đi tu nghiệp ở phòng thí nghiệm quốc gia nhưng chị từ chối và đến làm ở Đại học Columbia, New York.
Ba năm sau chị bắt đầu làm việc ở Đại học California, Santa Barbara và mất hơn hai năm xây dựng hai phòng thí nghiệm riêng. Sau 11 năm, chị đã có 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Chị còn xin hơn 10 triệu USD cho những dự án nghiên cứu, được mời tới hơn 200 địa điểm trên thế giới để thuyết trình cũng như nhận nhiều giải thưởng lớn cho công trình nghiên cứu.
"Bạn bè tôi ở Việt Nam vẫn thường bảo hồi ở quê học dốt thế mà sao qua Mỹ học giỏi ghê thế. Tôi trả lời rằng ngày xưa làm gì có thời gian để học vì còn phải phụ giúp gia đình", vị giáo sư nói.


Pin năng lượng mặt trời làm từ chất nhựa dẫn điện Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của giáo sư Nguyễn Thục Quyên. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Những vất vả của phụ nữ khi làm khoa học
Giáo sư Quyên tâm sự, có được ngày hôm nay là nhờ sự dìu dắt của mẹ và người cậu ruột khi hướng cho chị đi theo con đường tốt nhất có thể. Trong khi bố cho rằng, con gái thì nên lấy chồng, không cần học, thì mẹ ngược lại. Chị còn nhớ ngày học xong lớp 12, chị đã xác định sẽ ở nhà và tính chuyện lấy chồng, nhưng mẹ vẫn đưa chị lên Sài Gòn để thi đại học. 
"Mẹ đưa tôi lên Sài Gòn ở nhà bà ngoại để thi đại học, nhưng tôi không muốn. Lớn lên và học ở trường làng tôi thấy ở tuổi 18 người ta đã lấy chồng và có con rồi", chị nói.
Người cậu đã gọi chị đến nói chuyện hơn hai giờ, với mục đích khuyên chị đi thi và cố gắng vào đại học. 
"Tại sao có cơ hội như vậy mà cháu lại từ chối. Học đại học sau này cháu sẽ có công ăn việc làm ổn định, có sự nghiệp, nếu lấy được người tốt thì không sao...", chị kể lại lời ông cậu.
Lớn lên, người chị hâm mộ đó là bà Marie Curie, bởi thời đó khoa học gia là nữ rất ít. Bà chính là tấm gương vượt khó để chị tiếp tục cố gắng cho nghiên cứu khoa học.
Hơn 11 năm làm việc ở Đại học California, Santa Barbara, chị làm khoảng thời gian 15 tiếng mỗi ngày. Bên cạnh việc giảng dạy, chị còn làm nhiều công việc khác như biên tập báo khoa học, tổ chức hội nghị khoa học quốc tế, xin tiền dự án nghiên cứu trả lương, học phí, và bảo hiểm y tế cho sinh viên (mỗi nghiên cứu sinh tốn khoảng 100.000 đôla mỗi năm), hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu, giúp sinh viên viết bài đăng báo, làm trong ban xét lên lương và lên chức cho tất cả giáo sư trong trường, ban tuyển dụng giáo sư...
Chị chia sẻ, làm khoa học đã khó nhưng phụ nữ trong lĩnh vực này càng vất vả hơn, bởi ngoài sự nghiệp, họ còn phải lo cho gia đình. Ngay bản thân chị, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đôi khi vẫn không nhận được sự tôn trọng của đồng nghiệp nam giới. 
"Cũng may tôi có người chồng tâm lý và thông cảm, anh dạy hóa hữu cơ cùng trường, luôn hỗ trợ nên tôi có thêm động lực để giảng dạy và nghiên cứu", nữ giáo sư nói.
"Phần đông mọi người nghĩ con gái thì nên lo cho chồng con, dọn dẹp nhà cửa và không nên có sự nghiệp riêng. Tôi muốn cho những người phụ nữ khác biết là họ có thể làm cả hai. Tôi muốn làm những điều hữu ích cho xã hội", chị nói.
Chị vẫn còn nhớ như in thời điểm bắt đầu vào học trong trường. Lúc đó chị xin vào phòng thí nghiệm nhưng không được vì nhiều người nghĩ chị không thể làm được điều gì và khuyên rằng 
“nghiên cứu không dễ dàng và không phải ai cũng làm được. Bạn nên tập trung để học tiếng Anh đi”. 
Mãi sau này, có vị giáo sư thấy chị có những câu hỏi hay trong lớp nên khuyến khích theo đường nghiên cứu. Biết được tin này chị rất vui vì từ bé đã thích tìm tòi những điều mới.
Đầu năm 2004, chị đi phỏng vấn ngành hóa ở một số trường đại học. Chị cũng rất sợ vì những trường này ngành hóa rất ít hoặc không có nữ giáo sư. 
"Con đường đi đến thành công ở Mỹ không phải dễ dàng vì quốc gia này thường thu hút nhà khoa học hàng đầu trên thế giới nhưng bản chất người Việt Nam thông minh và chăm chỉ", vị giáo sư nói và cho rằng có công mài sắt có ngày nên kim.

Thích về Việt Nam

"Tôi nhớ Việt Nam lắm. Nếu có thời gian là tôi về ngay, bởi hiện nay anh em họ hàng, nhất là ông cậu - người đặt viên gạch đầu tiên trong cuộc đời khoa học của tôi vẫn ở quê hương", nữ giáo sư tâm sự.
Lần đầu tiên chị và mẹ về Việt Nam là năm 1999 để thăm bà ngoại trong 3 tuần. 9 lần về nước ngoài dự hội nghị khoa học, chị dành thời gian để thăm gia đình.

Chị cho biết, thời gian 21 năm sống ở Việt Nam, chị nhớ món ăn thuần túy Việt Nam và các bài hát Việt, nên lần nào về nước chị cũng nhờ cậu mợ dẫn đi xem ca nhạc. 
"Tôi thích nhạc dân ca như bài Quê hương, Ai đưa con sáo sang sông", chị nói.
Khi hỏi ý định về Việt Nam sinh sống, chị nói:
"Có lẽ khi nào về hưu tôi mới về nước, vì quê hương vẫn chưa có đủ cơ sở vật chất điều kiện tốt để tôi có thể nghiên cứu", chị nói và cho biết 7 phòng thí nghiệm riêng của chị trị giá khoảng 4 triệu đôla.
Bên cạnh giải thưởng là một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới ngành khoa học vật liệu, chị còn nhận nhiều giải thưởng khác như:
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Alexander von Humboldt-Foundation của Đức năm 2015; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ 2010,
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Alfred P. Sloan Foundation 2009;
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Camille Dreyfus Foundation 2008;
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Harold J. Plous Memorial Award and Lectureship 2007.
Phạm Hương

học đường
4 người Việt nằm trong top 3.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

Vntinnhanh.vn – Hãng thông tấn Reuters đã công bố danh sách 3.126 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trên thế giới năm 2015, dựa vào số trích dẫn bài viết của họ được thống kê chính thức trên Reuters.


Giáo sư Nguyễn Sơn Bình. (Ảnh: packard)
Hơn 3.000 nhà khoa học nằm trong danh sách này được chọn từ 1% số nhà khoa học có trích dẫn cao nhất nằm trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên môn của họ. 4 nhà khoa học Việt Nam được vinh danh là Giáo sư Nguyễn Sơn Bình, Giáo sư Nguyễn Thục Quyên, Giáo sư Võ Văn Ánh và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng.

Giáo sư Nguyễn Sơn Bình là Giáo sư khoa Hóa trường Đại học Northwestern (Mỹ), thành viên cấp cao tại Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne. Tại Đại học Northwestern, ông Nguyễn Sơn Bình giữ chức vụ giảng viên cao cấp hai chương trình nghiên cứu Dow và McCormick, đồng thời là Giám đốc chương trình khoa học tích hợp.
Các nghiên cứu hiện nay của Giáo sư Nguyễn Sơn Bình chủ yếu xoay quanh thiết kế vật liệu mềm để ứng dụng sản xuất chất xúc tác, dược phẩm, và khoa học vật liệu. Phòng thí nghiệm của giáo sư Nguyễn Sơn Bình hiện điều chế, tổng hợp và ứng dụng sản xuất nhiều loại vật liệu mềm hữu cơ, bao gồm lai ghép các cấu trúc ADN hữu cơ, cấu trúc lipô, vật liệu xốp và nanocomposite hiện đại hàng đầu thế giới như graphene, graphene oxide. Hiện Giáo sư Nguyễn Sơn Bình có 397 công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí quốc tế.



PGS Nguyễn Xuân Hùng (áo trắng, thứ ba từ trái qua). (Ảnh: HUTECH)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng hiện là giảng viên Đại học Công nghệ TP Hồ Chí Minh (HUTECH), Đại học Đông Y Đài Loan. Sinh năm 1976, PGS Nguyễn Xuân Hùng tốt nghiệp cử nhân trường Đại học Khoa học tự nhiên – ĐHQG TP Hồ Chí Minh. Sau đó PGS Hùng theo học thạc sĩ ngành cơ học môi trường liên tục, sau đó bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngành khoa học máy tính tại Đại học Liège (Bỉ).
Ông hoàn tất chương trình đào tạo sau tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Singapore, nghiên cứu tại Đại học Cincinnati (Mỹ) và hợp tác nghiên cứu tại nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đến tháng 7 năm nay, PGS Nguyễn Xuân Hùng có hơn 80 bài báo quốc tế được đăng trên các tạp chí uy tín về ngành khoa học máy tính, công cụ tính toán composite, toán thực hành và công nghệ sao chép tại Mỹ, Đức, Hà Lan, Singapore… Mới đây, PGS Nguyễn Xuân Hùng đã nhận giải thưởng danh giá Nghiên cứu Georg Forster của Quỹ tài trợ Alexander von Humboldt (Đức).



Giáo sư Nguyễn Thục Quyên. (Ảnh: Đại học California, Santa Barbara)
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên hiện là Giáo sư chuyên ngành khoa học vật liệu tại Đại học Santa Barbara, ĐH California (Mỹ), chuyên về Hóa – Sinh. Giáo sư Nguyễn Thục Quyên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Hóa – Lý tại Đại học California năm 2001. Bà trở thành Giáo sư chính thức chuyên ngành Hóa và Hóa sinh từ năm 2011. Hiện Giáo sư Nguyễn Thục Quyên có 161 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín.


Giáo sư Võ Văn Ánh hiện là giảng viên Đại học Công nghệ Queensland, chuyên ngành Toán học. Hiện ông có 41 công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí nước ngoài.
Theo vntinnhanh.vn
Publié par Caroline Thanh Huong à jeudi, février 11, 2016
Envoyer par e-mail
BlogThis!

Phụ Lục:
Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh:
Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh phát biểu tại Houston, Texas, USA ngày 7 tháng 4 năm 2019


1 commentaire:

Nữ nhạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Diễm12 février 2016 à 17:48
Hay quá, người VN có tài trong thế giới quanh ta. Tôi quý nhất là GS Quyên, vì cô đã qua nhiều chông gai chứ có dễ dàng đi tới ngon lành như nhiều nhân tài khác thì có gì mà nói. Tk Caro !

Répondre

Saturday, September 28, 2019


THỬ GIẢI THÍCH MỘT BÀI THƠ ĐÁNG CHÚ Ý VỀ VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC


17 March 2014
THỬ GIẢI THÍCH MỘT BÀI THƠ ĐÁNG CHÚ Ý VỀ VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC
Trần Từ Mai

Nhân một số biến cố đáng lưu tâm xảy ra trên thế giới trong ít hôm gần đây (lực lượng an ninh tại thủ đô Ukraine quỳ xin lỗi dân chúng vì đã theo lệnh vị Tổng thống độc tài và tham nhũng bắn vào cuộc biểu tình của dân Ukraine ít hôm trước đó; Nga viện cớ “bảo vệ kiều dân” để can thiệp vừa quân sự vừa chính trị vào bán đảo Crimea, tìm cách tách Crimea ra khỏi Ukraine hầu sáp nhập vào Nga…), một vài thân hữu nhắc người viết những dòng này nhớ lại một bài thơ có vẻ như báo trước vận nước được xuất hiện từ đầu thế kỷ trước, với những câu như:
--Thất phu mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy hoàng
(Bao giờ những người thô tục, lỗ mãng lạy những người học trò
Thì những người muốn đất nước tốt đẹp hơn thắng những người cầm quyền độc tài) 
--Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tàn mà lại toan đường sang xe.
 (Đáng cười cho bọn đứng nhìn từ một bên,
Ván cờ đã tàn [sự thua được đã rõ] còn muốn đem [quân] xe sang sông),
(cố can thiệp một cách vô ích, không đổi được tình thế).

Đó là những câu gần cuối trong một bài thơ ý nghĩa thâm thúy, dùng khá nhiều điển cố với lời văn rất đẹp, cho thấy tác giả là một nhà thơ có tài, ở trình độ kiến thức cao. Bài thơ này xuất hiện từ đầu thế kỷ trước, được truyền tụng ở nhiều nơi trước 1945 và trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946-1954), được in ra ở Hà Nội trong khoảng 1950-1954, ở Sàigòn năm 1964, được phổ biến ở hải ngoại trong khoảng năm 1980-1981, và trên Internet trong những năm gần đây. Chúng tôi muốn nói bài thơ được biết đến như lời “giáng bút” của Liễu Hạnh công chúa khi vua Thành Thái muốn hỏi về vận nước năm Nhâm Dần 1902. Toàn bài như sau:
1.    Hoành sơn lấp lối ra vào
2.    Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương
3.    Cung mây đã sẵn trời giương
4.    Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu
5.    Tên trao ba mũi phục thù
6.    Nào hay Khắc Dụng bày trò cho con
7.    Ngọn cờ lấp ló đầu non
8.    Thạch thành mèo nọ bon bon chạy về
9.    Dặm trường lai láng máu dê
10.    Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn
11.    Trời Nam lại trổi đế vương
12.    Chân nhân đâu phải là phường thày tăng
13.    Đồng dao ta có câu rằng
14.    Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
15.    Bao giờ trổ ngọn thử ly
16.    Ai ơi nhớ lấy sấm ky kẻo lầm
17.    Đang khi sấm gió ầm ầm
18.    Ấy là khí vận để găm trị bình
19.    Thất phu mà lạy thư sinh
20.    Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy hoàng
21.    Nực cười cho lũ bàng quan
22.    Cờ tàn mà lại toan đường sang xe
23.    Thôi thôi mặc lũ người hề
24.    Gió mây ta lại đi về gió mây.
Những chữ in nghiêng có dị bản như sau:
Câu  1:  rấp
Câu 4 :  rắp
Câu  5 : treo
Câu 7 :  nhô nhấp
Câu 11: Cõi, dựng
Câu 12: không
Câu 14: cũng
Câu 15: bẻ
Câu 16: Xin ai
Câu 17: Rồi đây
Câu 18: khí số, chăm
Câu 19: Vũ phu, lại
Câu 20: Sông ô
Câu 22: thí, đấm
Bài thơ này thuộc loại “không dễ hiểu” vì:
--Những từ nói một cách ẩn dụ, ngụ ý: “cáo” gào giả vương, “mèo” bon bon chạy về …
--Những từ đòi hỏi chút kiến thức về lịch sử, văn hóa Trung Hoa: “Khắc Dụng bày trò,” “ngọn thử ly,” “vân lôi” …
Trên cương vị một người muốn được góp phần vào việc làm rõ ý nghĩa một bài thơ diễn đạt một cách quá kín đáo, chúng tôi xin trình bày cách hiểu của mình tới các bậc thức giả cùng những vị quan tâm đến vận mệnh đất nước. Việc định giá trị cho bài thơ (có thực bài này mang ý nghĩa tiên đoán hay không, và nếu có thì giá trị của sự tiên đoán ấy đạt tới mức nào), xin được nhường lại những bậc có kiến thức cao hơn.

Lai lịch bài thơ:
Tương truyền bài này do vua Thành Thái (vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, sinh năm 1879, mất năm 1954, ở ngôi từ 1889 đến 1907, có tư tưởng chống Pháp, bị họ đưa đi đầy ở đảo Réunion), được Liễu Hạnh công chúa (một trong bốn vị thánh “tứ bất tử” của tín ngưỡng Việt Nam) “giáng bút” tặng khi nhà vua muốn hỏi về vận nước. Cũng theo lời tương truyền, chuyện ấy xảy ra vào năm Nhâm Dần 1902, trước khi nhà vua ra Hà Nội dự lễ khánh thành cầu Long Biên (tên thời Pháp là “cầu Doumer,” theo danh hiệu Toàn quyền Paul Doumer thời ấy). Có thuyết cho rằng vị vua được Liễu Hạnh công chúa tặng bài thơ là vua Tự Đức (vua thứ 4 của nhà Nguyễn, ở ngôi từ 1847 đến 1883). Cho tới nay, chưa thấy xuất hiện một bản viết nào của bài thơ này ở dạng chữ nôm (tất cả các bản hiện có đều ở dạng chữ quốc ngữ), chúng tôi thấy giả thuyết “vua Thành Thái” hợp lý hơn, vì nếu để vua Tự Đức có thể đọc, ắt cần một bản bằng chữ nôm. (Khi ngài còn làm vua, chữ quốc ngữ chưa được thông dụng).

Trong khoảng năm 1944, đầu 1945 (trước khi Việt Minh cướp được chính quyền), người viết những dòng này được nghe lần đầu tiên một vài câu ở dạng truyền khẩu: Hoành sơn lấp lối ra vào, Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương …Khi ấy các bậc trưởng thượng trong gia đình cùng những vị khách tới thảo luận băn khoăn không rõ “cáo gào giả vương” muốn nói điều gì. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, những câu “Dặm trường lai láng máu dê, Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn,” và “Chân nhân đâu phải là phường thầy tăng”… rất được truyền tụng. (Nhiều thân hữu sống ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An … trong thời gian kháng chiến chống Pháp cũng được nghe những câu ấy). Mãi đến mùa Hè năm 1954, sau biến cố Điện Biên Phủ, khi đang ở Bạch Mai (vùng ngoại ô phía Nam của Hà Nội), chúng tôi mới có dịp được nghe và trông thấy toàn bài.

Bản in đầu tiên đã tìm được là do cụ Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập, và do nhà xuất bản Hương Sơn (6 Đại lộ Gia Long, Hà Nội) phát hành trong những năm 1950-1954. Bài này ở sau phần “Sấm Trạng Trình,” in ở cuối một tập sách về các phép bấm độn Lục Nhâm, Thái Ất. Ở Sàigòn năm 1964, nhà xuất bản Đông Nam Á phát hành một tập Sấm Trạng Trình khác do Hoàng Hoa Lệ chú giải. Bài này cũng được in ở sau phần sấm ký Trạng Trình. Cả hai tài liệu trên đều đã được đưa lên Internet, qua các trang mạng vnthuquan.net, tientri.net, thegioivohinh.com … Một dị bản của bài thơ (nhưng không khác nhiều lắm) được phổ biến qua các trang mạng halongvandan.worldpress.com và giahoithutrang.blogspot.com … Bài này cũng được tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong (Arlington, Virginia) in lại với lời chú giải trong khoảng năm 1980-1981. Chúng tôi rất tiếc đã không giữ được tập báo này, nhưng được biết một số thư viện ở Hoa Kỳ vẫn còn giữ một sưu tập Văn Nghệ Tiền Phong. Văn bản của các bản được phổ biến có một vài chỗ khác nhau như trên đã thấy.

Tuy được truyền khẩu từ trên 100 năm nay và được in ra từ hơn 60 năm, có lẽ do một số điển cố và từ chuyên môn khá khúc mắc, cho tới nay chưa thấy xuất hiện một bản giải thích đầy đủ và tương đối rõ cho bài thơ này. Những hàng sau đây chỉ là chút đóng góp khiêm nhượng của một người yêu thơ và văn học Việt Nam, người cố gắng giải thích chưa dám chắc là mình đã nghĩ đúng. Kính mong các bậc thức giả chỉ cho những chỗ thiếu sót hay sai lầm.

Thử giải thích những chữ khó:

Hoành sơn lấp lối ra vào:
Hoành sơn là rặng núi từ Trường sơn chạy ra biển, giữa ranh giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, chắn ngang đường giao thông từ Bắc vào Nam. Theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúa Nguyễn Hoàng từng vượt qua núi này trên đường vào Nam dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Nay “Hoành sơn bị ngăn lấp, không đi được nữa.” Với một vị vua nhà Nguyễn, câu thơ mở đầu đã gây một chấn động mạnh (điều xấu sắp xảy tới cho một địa điểm liên quan tới việc dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn). Câu này như cũng báo trước chuyện đất nước chia đôi, vì khi Việt Nam bị tách làm hai sau hiệp định Genève 1954, ranh giới Bến Hải không quá xa Hoành sơn.

Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương:
Điều xấu được nhắc đến trong câu thơ trên là “nhà Nguyễn chấm dứt.” “Vọng đế” là một biệt hiệu của vua nước Thục, tên thật là Đỗ Vũ. Theo sách Hoàn Vũ Ký của Trung Hoa, sau khi mất nước, hồn vị vua ấy không tiêu tan, hóa thành chim đỗ quyên (chim quốc quốc). “Tiếng quốc kêu, đó là vị vua mất nước. Cáo gào thét, đó là một vua giả” (không phải vua nhưng quyền hành như vua). Câu này cũng cho biết khi nhà Nguyễn mất ngôi, sẽ có “một con cáo” (hay một người khôn ngoan, quỷ quyệt như cáo) gào lên đòi có quyền giống như vua. 
Đầu năm 1945, các bậc trưởng thượng của người viết những dòng này không biết tiếng “cáo” ấy để chỉ ai. Cho tới nay, thiết nghĩ tất cả người Việt chúng ta đều đã biết. 

Cung mây đã sẵn trời giương:
Khi những chuyện ấy xảy ra (nhà Nguyễn mất ngôi, cáo làm vua giả), thì hay hay dở cho đất nước? Câu này mách cho ta biết: “Cung đã được giương ra trên trời” (mây trên trời có hình cung tên), dấu hiệu của một thời ly loạn. 

Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu:
“Xuân Thu” là một thời đại trong lịch sử Trung Hoa, từ năm 722 đến năm 481 trước công nguyên. Ở giai đoạn này, thiên tử nhà Chu suy yếu, không còn khả năng lãnh đạo nên các chư hầu tranh giành, thôn tính lẫn nhau. Nói chung, “thời Xuân Thu” có nghĩa như một thời đại loạn.
Tên trao ba mũi phục thù
Nào hay Khắc Dụng bày trò cho con:
Lý Khắc Dụng (李克用--Li Keyong) nguyên thuc h Chu Tà (朱邪Zhuye), sinh năm 856, mất năm 908, là thủ lãnh của bộ tộc Sa Đà (Shatuo), một sắc tộc thiểu số ở phía Bắc Trung Hoa, thuộc giống Tây Đột Quyết (Western Turkic), xuất xứ từ miền Trung Á. Khi nhà Đường gần sụp đổ vì loạn Hoàng Sào (vua Đường phải bỏ kinh đô trốn vào đất Thục), ông đem quân khôi phục kinh đô Tràng An, phá tan quân giặc khiến Hoàng Sào phải tự tử. Với công lớn, ông được phong tước vương, ban “quốc tính” (dùng họ Lý của vua Đường).  Ít lâu sau Chu Ôn, một tướng cũ của Hoàng Sào nhưng đã hàng nhà Đường, được vua Đường quá tin cậy (đổi tên thành Chu Toàn Trung và cho thêm quyền hành) giết vua Đường để cướp ngôi. Nhiều người khuyên Lý Khắc Dụng tự lập làm vua nhưng ông từ chối. Không công nhận ngôi vua của Chu Ôn, ông tiếp tục giữ niên hiệu vua Đường trong phần đất ông trực tiếp cai trị để tỏ lòng trung với nhà Đường. Theo truyền thuyết, trước khi mất, ông giao cho con là Lý Tồn Úc (李存勖Li Cunxu) ba mũi tên để “giết ba kẻ đại thù,” một trong ba kẻ ấy là Chu Ôn, người đã giết vua để tiếm ngôi. Sau Lý Tồn Úc thành công, lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Đường, tuyên bố “phục hưng lại nhà Đường” tuy không hề có liên hệ huyết thống.        
Nhiều người cho rằng Lý Khắc Dụng khéo che dấu tham vọng chứ thật ra không trung với nhà Đường. Ông góp phần vào việc tạo hoàn cảnh khiến Chu Ôn có thể giết vua cùng tôn thất nhà Đường, để sau này con ông lên ngôi vua dễ hơn. “Tên trao ba mũi phục thù” chỉ là chút thủ đoạn nhỏ Lý Khắc Dụng bày ra, nhằm giúp Lý Tồn Úc có danh nghĩa mạnh thêm trong việc tranh thắng với Chu Ôn, hầu thay nhà Đường làm chủ nước Trung Hoa. Cũng vì mối nghi kỵ ấy nhà Hậu Đường không bền, chỉ được 13 năm (923-936) trước khi bị nhà Hậu Tấn diệt.
Nhưng đó mới chỉ là vai trò của Lý Khắc Dụng trong lịch sử Trung Hoa. Người viết những dòng này thật tình chưa hiểu rõ ý nghĩa hai câu trên khi đưa vào hoàn cảnh Việt Nam sau khi nhà Nguyễn mất ngôi năm 1945. Phải chăng tác giả muốn nói: Đất nước hóa “một trường Xuân Thu” vì có nhiều kẻ quỷ quyệt, xảo trá, giả nhân nghĩa để đánh lừa mọi người, chứ thật ra không nhân nghĩa chút nào? Hay tác giả muốn nói: Non sông Việt vào tình trạng Xuân Thu vì dân Việt quá khờ khạo, cả tin: thấy Lý Khắc Dụng trao tên, dặn con báo thù cho nhà Đường đã vội cho là trung nghĩa, “nào hay” đó chỉ là “bày trò”? Xin được thỉnh giáo các bậc cao kiến.
Ngọn cờ lấp ló đầu non
Thạch thành mèo nọ bon bon chạy về:
“Ngọn cờ khi ẩn khi hiện trên núi” có vẻ như “chiến khu lập trên núi.” “Thạch Thành” theo nghĩa đen là một địa danh, tên một huyện ở Tây bắc tỉnh Thanh Hóa, theo nghĩa bóng (bức thành bằng đá) có thể chỉ hang núi. Cắm cờ, lập chiến khu trên núi, khi vận nhà Nguyễn hết, “một con mèo” từ bức thành bằng đá (hay từ huyện Thạch Thành, Thanh Hóa?) bon bon chạy về nắm quyền (ngụ ý nắm được quyền một cách dễ dàng). Lãnh tụ CS Hồ Chí Minh có rất nhiều lý lịch với nhiều năm sinh khác nhau (1888, 1889, 1890, 1892, 1894) nhưng hầu như ai cũng biết rằng ngày sinh được tuyên bố “chính thức” (19 tháng 5 năm 1890) không phải ngày sinh thật. Theo nhiều vị bô lão ở Nam Đàn, Nghệ An, “người con trai thứ hai của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (tức ông Nguyễn Sinh Côn, hay Cung, sau đổi tên ra Nguyễn Tất Thành), sinh năm Tân Mão.” Trong cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên (trang 316), nhà biên khảo Vân Đằng Thái Thứ Lang cung cấp lá số của một người sinh năm Tân Mão 1889, và cho biết đó là “một lá số gian hùng,” cùng đến năm Bính Thân 1956  người ấy “đã có sự nghiệp lớn” nhưng “hại dân hại nước.” Vân Đằng Thái Thứ Lang có một ông bác ruột, một vị Phó Bảng danh tiếng, một học giả uyên bác, kẹt trong vùng kháng chiến từ 1946 và được HCM nể trọng. Sự kiện ông biết tuổi thật của ông HCM không phải là điều đáng ngạc nhiên.
Dặm trường lai láng máu dê
Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn:
Câu thơ trên cho biết sau khi ông HCM nắm được quyền, chiến tranh xảy ra và người Pháp chết rất nhiều. Nghĩa chữ Hán của con dê là “dương,”đồng âm với chữ “dương” là biển, đưa tới từ “dương nhân” để chỉ người ngoại quốc. Câu thơ sau muốn nói: Khi cuộc chiến kết thúc, người Pháp sẽ thua (con quay bị ngã có màu trắng), sau đó, cờ ba gạch của phe Quốc gia không xuất hiện ở miền Bắc nữa.
Trời/Cõi Nam lại trổi/dựng đế vương
Chân nhân đâu/không phải là phường thày tăng
Đồng dao ta có câu rằng
Non xanh mà mọc trắng răng mới/cũng kỳ:
Tuy cờ của phe Quốc gia không còn ở miền Bắc nhưng một quốc gia được lập nên ở miền Nam. Quốc gia này có nhiều nhược điểm. Một số tăng sĩ Phật giáo tưởng mình là “chân nhân,” có khả năng cứu đời (trong khi thực ra mình không có). Nhiều người “trắng răng” dắt nhau lên “non xanh.” Khi bài thơ này được đưa ra ở đầu thể kỷ trước (1902) đa số dân Việt, nhất là ở nông thôn, còn để răng đen. Mấy tiếng “bọn trắng răng” đồng nghĩa với “người thành thị.” Trong quốc gia mới thành lập ở miền Nam ấy, lạ thay, một số người thành thị lại dắt nhau vào non xanh! Không rõ câu này có dùng để ám chỉ một số khá đông thanh niên trí thức nhiều đô thị miền Nam đã – vì nhiều lý do khác nhau -- “ra bưng” hay “nhảy núi,” giúp CS chống phá chính thể miền Nam? “Đồng dao” là lời hát của trẻ con. Với hai câu 13-14, “trẻ con cũng biết như thế là kỳ lạ,”
tác giả tỏ ý chê bai và khiển trách.
Bao giờ trổ/bẻ ngọn thử ly
Ai ơi/Xin ai nhớ lấy sấm ky kẻo lầm:
Vì có nhiều mâu thuẫn nội bộ giữa lúc phải đối phó với một lực lượng mạnh hơn đang nhất quyết tìm cách tiêu diệt mình, quốc gia mới thành lập ở miền Nam ấy không tồn tại được lâu.  Hai câu 15-16 khuyên: bao giờ thấy “ngọn thử ly” mọc lên (hay khi bẻ ngọn ấy), hãy nhớ lấy lời sấm. Lời sấm ra sao, tác giả không nói rõ. Then chốt của hai câu này nằm trong ba tiếng “ngọn thử ly.”

“Thử ly” 黍離 là tên mt bài thơ trong Kinh Thi, bài thứ 65 của toàn tập, bài thứ nhất trong phần “Vương phong,” phần các thơ của nhà Chu sau khi kinh đô đã dời về phương Đông. (Trong cuốn Thi Kinh Tập Truyện do cụ Tạ Quang Phát dịch sang tiếng Việt, Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục xuất bản ở  Sàigòn năm 1969, bài này ở tập I, các trang 315-321). “Thử” ở đây là một loại lúa nếp, thân cao. “Ly ly” là xum xuê, rườm rà. Sau khi nhà Chu đã dời về phương Đông (và suy đi rất nhiều), những người đi qua kinh đô hoang phế ở phương Tây thấy lúa đã mọc trên nền cung miếu cũ mà ngậm ngùi, thương cho một triều đại không còn. “Bao giờ có một triều đại mất rồi nhưng được người ta nhớ tiếc, hãy nhớ lấy lời sấm.” Vì câu này nối sau những câu về một quốc gia dựng nên ở miền Nam, triều đại “mất rồi mới được nhớ tiếc” ấy phải chăng là Việt Nam Cộng Hòa?  Bốn câu đầu của bài thơ đã cho biết bao giờ nhà Nguyễn mất và cáo làm vua giả, đất nước sẽ thành “một trường Xuân Thu.” Vậy năm 1975, Việt Nam thống nhất làm một, đã hết “Xuân Thu” chưa? Theo bài thơ này thì chưa. Chế độ xua quân chiếm miền Nam là chế độ do “cáo” lập nên. Chiến dịch đánh tới Sàigòn là một chiến dịch mang tên “cáo.” Vậy “Xuân Thu” chưa hết. Những người hăm hở nhảy ra lập công, “nối vòng tay lớn” (như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngày 30-4-1975) là đã “lầm.”
Đang khi/Rồi đây sấm gió ầm ầm
Ấy là khí vận/số để găm/chăm trị bình:
“Xuân Thu” sẽ chấm dứt sau một cơn “sấm gió ầm ầm.” Nói cách khác, lúc “sấm gió ầm ầm” chính là lúc khí vận/khí số của đất nước chuyển từ “Xuân Thu” sang thái bình, thịnh trị. Người viết những dòng này tự thấy chưa đủ khả năng giải thích mấy từ này, chỉ xin tạm đưa ra giả thuyết:
“Sấm gió ầm ầm” có thể được hiểu theo nghĩa đen: thiên tai, động đất, giông bão lớn, đưa tới nạn lụt, sóng thần…, gây hại tới hoa lợi, mùa màng. Có thể được hiểu theo nghĩa bóng: lòng dân sôi sục, phẫn uất tới cao độ. Có thể được hiểu theo nghĩa rộng: biến cố chính trị, xáo trộn lớn ở một quốc gia gần và có ảnh hưởng đáng kể tới Việt Nam. Có khi ba yếu tố trên cùng xảy tới một lúc, hỗ trợ lẫn cho nhau. Hai câu trên có thể cũng ngụ ý: Với những người có lòng với đất nước, khi thấy “sấm gió ầm ầm” chớ nên sợ hãi. Đó là lúc vận khí của sông núi chuyển từ “Xuân Thu” sang bình trị. Xin được thỉnh giáo các bậc cao kiến.
Thất phu/Vũ phu mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy hoàng:
“Thất phu” nguyên nghĩa là một người tầm thường, không có địa vị, chức vụ gì, nhưng đôi khi được hiểu như một người thô tục, lỗ mãng. Vũ phu là loại người thô bạo, dùng sức mạnh để lấn hiếp người khác. Thư sinh là người đọc sách, thường được gán cho đặc tính “trói gà không chặt.” Thất phu, nhất là vũ phu, thường chỉ lấn hiếp thư sinh. Họ chịu “lạy” thư sinh là chuyện bất bình thường. Nhưng khi chuyện ấy xảy ra thì những người “vân lôi” sẽ thắng “mấy anh Thủy hoàng” (phe nhóm cai trị một cách độc đoán, tàn bạo như Tần Thủy hoàng). Then chốt của hai câu này (cũng như của toàn thể bài thơ) nằm trong hai chữ “vân lôi.”

“Vân lôi” 雲雷 là tiếng trong văn chương để chỉ quẻ Truân , qu th ba trong Kinh Dch, sau qu Càn (Kin) để chỉ trời và quẻ Khôn để chỉ đất. Sau khi có trời đất, muôn vật sinh sôi nảy nở, nhưng buổi đầu thường gian nan, khó khăn, nên quẻ Truân tượng trưng sự gian nan, khó khăn trong buổi đầu. Trong các bản Kinh Dịch chuyển sang tiếng Anh, các học giả Tây phương (như Richard Wilhelm, Raymond Van Over …) diễn ý quẻ này là “Sprouting” (việc nảy mầm) hay “Initial difficulty”(khó khăn trong buổi đầu). Theo lời “Thoán” của Văn vương, quẻ Truân nói đến người có tài, có hoài bão giúp đời, nhưng gặp lúc hỗn loạn, khó khăn, không nên hấp tấp. Khi gặp quẻ Truân, nên “giữ vững điều chính” (trau giồi đức độ, khả năng). Quẻ cũng cho biết: “lợi kiến hầu” (“kiến” ở đây là kiến tạo, “cử những người giỏi lên tước hầu”) nghĩa bóng là tìm những người tài giỏi, chung lý tưởng, hoài bão … để có thể chung lo với mình. Khi chuyển Kinh Dịch sang quốc văn, tới phần về quẻ Truân, cụ Phan Bội Châu bàn thêm như sau:
“Một người có tài đức mà gặp buổi thiên hạ đương truân, không lẽ chẳng ra cứu đời. Nhưng muốn cứu đời không lẽ một sức mình mà làm xong, tất phải tìm nhiều bạn hiền giúp đỡ” (Phan Bội Châu. Chu Dịch. Sàigòn : Khai Trí, 1969. Cuốn I, trang 134).

Quẻ Truân
được viết với quẻ Khảm (là nước) ở trên, quẻ Chấn  (là sấm) ở dưới, nên có danh hiệu đầy đủ là  “Thủy Lôi Truân.” Sấm động mạnh, nước sẽ hóa ra mây. Cụ Phan Bội Châu dịch đoạn này như sau: “Mây có rồi, sấm có rồi, thế nào cũng đến ngày mưa tới” (sách đã dẫn, trang 137). Nhưng quẻ Truân khuyên không nên vội (chưa biết mưa tới lúc nào) mà phải chuẩn bị cho thật chu đáo, “đúng thời” hãy hành động. Lời “Đại tượng” (biểu tượng tổng quát) của quẻ này nói: “Vân lôi truân, quân tử dĩ kinh luân 雲雷屯君子以經綸 (Gp qu Truân, người quân tử đem tài sức ra giúp đời, đưa mọi vật từ hỗn loạn trở về trật tự).
Trong Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, giáo sư Dương Quảng Hàm trích giảng một bài thơ khuyết danh, “Nhân nguyệt vấn đáp” (Người và trăng hỏi đáp nhau). Hai câu 43-44 của bài ấy là:
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử
Buổi vân lôi hai chữ kinh luân.
Nho sĩ, trí thức thời xưa rất thông thạo Kinh Dịch. Chỉ cần nghe hai tiếng “vân lôi,” người ta lập tức nghĩ đến ngay cả câu: “Vân lôi truân, quân tử dĩ kinh luân.”

Cho nên hai câu thơ:
Thất phu (hay Vũ phu) mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy hoàng
chỉ có thể có nghĩa: “khi nào mấy anh thất phu (hay vũ phu) … phải quỳ lạy những học sinh, sinh viên (vì họ quá đông, vì khí thế của họ mạnh mẽ, chẳng hạn như ở thủ đô Kiev của Ukraine cuối tháng 2-2014 vừa qua), thì những người có hoài bão làm cho đất nước tốt đẹp hơn sẽ thắng những kẻ cầm quyền độc tài.”

Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tàn mà lại toan đường sang (đấm/thí) xe:
“Lũ bàng quan” là những người đứng nhìn từ bên cạnh (người ngoài). Tuy ván cờ đã tàn, sự được thua đã rõ, họ còn cố can thiệp để mong đem lại kết quả theo ý họ, hoặc bằng áp lực quân sự trực tiếp (sang xe, đấm xe), hoặc bằng cách mua chuộc, đưa quyền lợi ra nhử những người ham lợi nhỏ để tránh cho khỏi bị thua (thí xe). Theo bài thơ, họ sẽ chỉ làm trò nực cười, vì khi cờ đã tàn, không cách gì có thể cứu vãn được nữa.

Thôi thôi mặc lũ người hề
Gió mây ta lại đi về gió mây:
Tác giả bài thơ (Liễu Hạnh công chúa?) không bận tâm với “lũ người hề” ấy, lại thảnh thơi vui với gió mây.

Tóm nghĩa bài thơ ra văn xuôi:

Sau khi giải xong những điển cố và từ ngữ khúc mắc, ta thấy nghĩa bài thơ hiện ra rất rõ:
“Hoành sơn bị ngăn lấp. Nhà Nguyễn sắp mất. Một con cáo gào lên để có quyền như vua mà không phải là vua. Mây trên trời thành hình cung tên. Đất nước sắp chịu cảnh hỗn loạn, chiến tranh. Có những kẻ giảo quyệt, giả bộ nhân nghĩa chứ thực ra không phải như thế (Lý Khắc Dụng bày trò).
Sau khi cắm cờ, lập chiến khu trên núi, một con mèo từ hang đá chạy về nắm quyền một cách dễ dàng. Chiến tranh xảy ra, người ngoại quốc chết nhiều. Người Pháp sẽ thua (con quay ngã trắng), cờ ba gạch thất thế.
Một quốc gia lập nên ở miền Nam. Có những tu sĩ tưởng lầm mình là chân nhân. Nhiều trí thức thành thị làm một chuyện kỳ lạ là dắt nhau vào núi.
Bao giờ một chế độ phải đợi sau khi mất mới được nhớ tiếc không còn hiện hữu nữa (“ngọn thử ly”), hãy nhớ lấy lời sấm. (Đất nước rơi vào tình trạng “Xuân Thu” khi “cáo” lên ngôi. Với biến cố 1975, đất nước chưa thoát khỏi “Xuân Thu” vì chế độ của “cáo” vẫn còn đó). Xuân Thu sẽ chuyển sang bình trị khi “sấm gió ầm ầm” nổi lên. Khi những anh thất phu (hay vũ phu) lạy những người học trò, những người muốn đất nước tốt đẹp hơn (vân lôi) sẽ thắng kẻ cầm quyền độc tài. Ván cờ đã tàn, đáng cười cho những kẻ còn muốn can thiệp một cách vô ích. Không bận tâm đến “lũ người hề,” ta lại vui với gió mây.
Theo tinh thần 6 câu cuối của bài “giáng bút” này, chế độ do “cáo” dựng nên chắc chắn sẽ sụp đổ sau một cơn “sấm gió ầm ầm.” “Lũ bàng quan” chỉ làm trò “nực cười” khi tìm cách ngăn cản. Liễu Hạnh công chúa không bận tâm tới “lũ người hề” ấy.

Nhận xét:

1)    Nên có thái độ dè dặt:
Tuy có để tâm đến sấm ký như một phần của văn học dân gian, và cho rằng chúng ta nên đọc, nên biết qua những câu sấm liên quan đến lịch sử, người viết những dòng này vẫn nghĩ nên có thái độ dè dặt khi bàn tới ý nghĩa những tác phẩm thuộc loại này. Việc thảo luận chỉ nên ở phạm vi “trà dư tửu hậu.” Ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa trước kia, sấm ký thường được sáng tác với mục đích chính trị, nhất là khi người đặt ra có ý muốn thay đổi triều đại. 
Câu thơ chiết tự “Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành” 禾刀木落, 十八子成 (ghép li thành lê” rng, lý” thành) đã do những người ủng hộ Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn đặt ra để vận động cho việc đưa ông lên làm vua thay nhà Tiền Lê. 
Những chữ “Lê Lợi vi quân …” trên lá cây đã do chính Nguyễn Trãi dùng bút viết bằng mỡ cho kiến đục. 
Khi khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đưa ra câu sấm “Tây sơn Biện Nhạc vi vương.” 
Khi nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tuy Phan Bá Vành cho loan truyền câu ca dao “Trên trời có sao tua rua, Ở dưới hạ giới có vua Ba Vành,” “vua” vẫn bị bắt và bị chém. 
Nhiều đoạn thơ gọi là “sấm Trạng Trình” không đáng được tin vì ở thể song thất lục bát, một thể thơ đến thế kỷ 17-18 mới thông dụng ở Việt Nam, trong khi Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mất từ thế kỷ thứ 16. 
Nhiều phe nhóm, đoàn thể chính trị đã “chế tác” ra sấm để vận động, lôi kéo quần chúng. Bài viết này chủ yếu là một cố gắng trong phạm vi văn học, cốt để làm rõ nghĩa một số từ khúc mắc trong một bài thơ hay và đáng được chú ý, đang phổ biến rộng rãi trên Net.
Tuy nhiên, khi thử đặt câu hỏi, “Nếu đây không đích thực là một bài giáng bút từ Liễu Hạnh công chúa, thì ai đã mạo danh bà đưa ra bài thơ này?” người viết thấy cần phải suy nghĩ thêm.

2)    Bài thơ “giáng bút” có phải là một trường hợp mạo danh?
Những người bị nghi đầu tiên là những người Cộng sản. Trong bài có nhiều câu hữu ích cho họ: nhà Nguyễn sẽ mất ngôi, người Pháp sẽ thua (con quay bị ngã có màu trắng), phe Quốc gia thất bại (“ba que cuộc tàn”), khiến ta có cảm tưởng rất có thể họ  đứng sau bài thơ này. Nhưng nếu quả thực bài thơ này do họ đặt ra, sẽ không có chuyện gọi người cầm đầu của họ là “cáo” (vốn mang nghĩa xấu), sẽ không có câu: khi cáo làm vua giả, non sông hóa “một trường Xuân Thu” (không tốt đẹp gì). Và trong bài thơ này, phổ biến trễ nhất trước 1945, không có lý do để họ loan báo sẽ có một quốc gia dựng nên ở miền Nam sau khi họ đã thắng người Pháp. Những câu 17-20 bất lợi cho họ rõ ràng. Thiết nghĩ những người Cộng sản nên được “trắng án” trước mối hoài nghi này.

Dễ bị ngờ thứ hai là các đảng phái quốc gia, phe Quốc gia chống Cộng. Nhưng nếu  tạo dựng ra bài này, không lẽ các vị lại tự miệt thị, tự gây hại cho mình qua mấy tiếng “ba que cuộc tàn”? Một khi đã nhận thấy họa Cộng sản còn tai hại hơn người Pháp, tại sao lại có những câu báo trước người Pháp sẽ thua? Đưa thêm 14 câu (từ câu 11 trở đi) với mục đích gì? Cho phổ biến bài này trước 1945, các tổ chức, đoàn thể quốc gia không có lợi chút nào.

Câu “Chân nhân đâu phải là phường thầy tăng” với giọng khinh miệt và chê trách cho thấy tác giả bài này cũng không phải một tăng sĩ hay một tổ chức, đoàn thể Phật giáo. Ta khó tìm được lý do tại sao một tăng sĩ hay một đoàn thể Phật giáo lại mạo danh Liễu Hạnh công chúa, đưa ra bài thơ này để chê bai, miệt thị chính tập thể của mình.
Với những từ “Khắc Dụng, thử ly, vân lôi”… bài thơ này có thể là sản phẩm của một nho sĩ hay một nhóm nho sĩ. Nhưng phân tích kỹ hơn, ta thấy như sau:
Giới nho sĩ, trí thức theo Nho học của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20 (sau năm 1902, trước năm 1945) có thể coi như thuộc một trong ba thành phần:
Thành phần thứ nhất là các nho sĩ yêu nước. Các cụ hoặc cộng tác trong phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu (trường hợp các cụ Đặng Tử Kính, Tiểu La Nguyễn Thành …), hoặc phong trào Duy Tân của cụ Phan Châu Trinh (trường hợp các cụ Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng …). Từ 1907, các cụ bận rộn với Đông Kinh Nghĩa Thục (nhất là các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Dương Bá Trạc …). Chăm lo sáng tác thơ văn yêu nước để kêu gọi mọi người thức tỉnh cùng thực hiện “duy tân”, các cụ không có lý do mất khá nhiều thời giờ làm ra cùng tìm cách phổ biến một bài thơ đầy tính cách huyền bí, không ích lợi thực tiễn ngay lúc đó như bài thơ này. Nếu muốn dùng sấm ký để vận động quần chúng, sấm ký ấy hẳn phải có mục đích chống Pháp (mối quan tâm chính của các cụ vẫn là cuộc đô hộ của người Pháp). Họ chỉ được nhắc đến trong vẻn vẹn 10 chữ của bài thơ khá dài này. Chuyện họ bị thua chỉ được nói phớt qua, xen giữa nhiều chuyện khác với ngụ ý những chuyện khác mới thực sự quan trọng. 
Tóm lại, bài thơ này không ở trong mục tiêu sáng tác của các cụ.

Thành phần thứ hai là giới nho sĩ tạm chấp nhận cuộc đô hộ của người Pháp, chuyên tâm với văn chương, học thuật, dịch thuật …, cộng tác với Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí. Ta có thể kể các cụ Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Học … Mối quan tâm của các cụ không ở những điều huyền hoặc, quá xa xôi, liên quan đến “chuyện đất nước” mà các cụ đã tạm gác qua một bên. Các cụ không có lý do để sáng tác cùng tìm cách phổ biến bài thơ này.

Thành phần thứ ba là giới nho sĩ “bất đắc chí” như Từ Diễn Đồng, Phan Điện, Hoàng Trà..., vào xã hội khi nho học đã suy tàn. Các vị này để lại nhiều bài thơ ngắn, ngậm ngùi than thở hay châm biếm thời cuộc (“Năm cửa chỉ còn chòi cửa Bắc, Cột cờ sao thấy lá cờ Tây? …”). Ta cũng không tìm được động cơ khiến các vị băn khoăn, bận tâm đến những chuyện quá xa vời, kể cả sau khi người Pháp đã thua, như chủ ý của bài thơ này.
Một yếu tố đáng nói nữa là xã hội Việt Nam trước 1945 trọng nếp sống tâm linh. Liễu Hạnh công chúa là một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng Việt Nam (cùng Tản Viên sơn thần, Phù Đổng thiên vương, Chử Đồng Tử) và rất được kính ngưỡng. Cùng với Hưng Đạo đại vương, bà là vị được thờ phụng ở nhiều nơi hơn cả. (“Tháng Tám giỗ Cha [Hưng Đạo đại vương], tháng Ba giỗ Mẹ” [Liễu Hạnh công chúa]). Các đền thờ “Mẫu Liễu Hạnh,” hay “Thánh Mẫu” được coi là rất linh thiêng:
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh.
Không kể những phe phái, tổ chức chính trị mà ta đã dùng phương pháp loại suy gạt sang một bên như phía trên, với những người bình thường, ít ai lại không dưng đặt ra một bài thơ dài, khá công phu, để rồi “gán” cho Liễu Hạnh công chúa là tác giả. Bà được biết đến như một vị tiên, một “Thánh Mẫu” nhân từ với người kém may mắn nhưng rất nghiêm khắc với kẻ thất kính. Theo Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm trong Vân Cát Thần Nữ (sự tích vị thần nữ thôn Vân Cát, tức Liễu Hạnh công chúa): “Tiên Chúa thường hiển hiện phép màu, giúp lành, trị ác. Dân vùng kính sợ …, dựng đền thờ cúng” (Đoàn Thị Điểm. Văn Tuyển. Bùi Hạnh Cẩn dịch, khảo cứu, biên soạn. Hà Nội : NXB Văn Hóa Thông Tin, 2002. Trang 127). Trong dân gian, ít ai dám “giỡn” với bà. Thêm vào đó, như ta đã thấy, làm được một bài thơ như bài “giáng bút” này không dễ chút nào. Người viết phải có kiến thức về lịch sử cùng văn hóa Trung Hoa (Kinh Thi, Kinh Dịch). Đứng về phương diện văn chương, đây là một bài thơ hay. Lời văn thanh nhã, lưu loát, chữ dùng súc tích, âm điệu uyển chuyển, với những vế tiểu đối tề chỉnh:

Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương.
Điểm then chốt là chỉ trong 22 câu thơ đầu, tác giả đã vừa bình luận, vừa báo trước những biến cố chính của lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay một cách gọn ghẽ, khá đầy đủ, đúng trình tự, và vô cùng xuất sắc: Nhà Nguyễn mất, cáo từ hang núi lên ngôi, người Pháp thua, một quốc gia dựng nên ở miền Nam, cùng những lý do khiến quốc gia ấy sụp đổ… Đây khó có thể là một sự mạo danh. Và dù không phải Liễu Hạnh công chúa đã thực sự “giáng bút,” với tầm nhìn và cách diễn đạt như thế, tác giả bài thơ này cũng không phải một người tầm thường. 

3)    Tìm hiểu thêm về Liễu Hạnh công chúa:
Theo tín ngưỡng dân gian được ghi lại trong Quảng Cung Linh Từ Phả Ký, Quảng Cung Linh Từ Bi Ký và Cát Thiên Tam Thế Thực Lục hiện được lưu giữ tại nhiều đền thờ Liễu Hạnh công chúa ở Nam Định, bà nguyên là một vị tiên, “con gái thứ hai của Thượng Đế”, xuống trần vì một sơ xuất nhỏ trên thiên cung (đánh vỡ chén ngọc), vào làm con những gia đình “tu nhân tích đức” (một hình thức thưởng công của Thượng Đế cho những gia đình này). 
Bà đã đầu thai và tái sinh ở Việt Nam ba lần.
Lần thứ nhất, bà sinh ra vào thời Hậu Lê (thế kỷ thứ 15), tại xã La Ngạn, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, làm con một gia đình họ Phạm. Là một người con chí hiếu, tuy rất xinh đẹp, được nhiều người cầu hôn, bà không lập gia đình để săn sóc cha già mẹ yếu. Sau khi cha mẹ khuất núi, bà “giúp dân đắp đê, làm cầu, khơi ngòi dẫn nước, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người đau ốm, tu sửa nhiều ngôi chùa.” Bà còn “chiêu tập những dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải…” Bà “về trời” năm 40 tuổi, khi trời nổi cơn giông với mây bay, gió cuốn.

Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương cõi trần, bà tái sinh vào đời Lê Trung hưng (thế kỷ 16) ở thôn Vân Cát, xã An Thái, sau đổi tên thành Tiên Hương (quê hương của tiên), nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Lần này bà là con một gia đình họ Lê. Bà cũng rất xinh đẹp, có tài văn thơ, thành hôn với một người họ Trần, sinh một trai, một gái, nhưng hết hạn, “về trời” năm 21 tuổi. Thương cha mẹ, chồng con, bà xin Thượng đế cho trở lại nhân gian để hướng dẫn, an ủi cha mẹ và chồng. Sau đó bà hiển linh, trao đổi nhiều vế đối xuất sắc với Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, cùng làm một bài thơ liên ngâm với ông cùng hai người bạn văn của ông. Những thơ và câu đối ấy cho thấy bà rất có văn tài.
Vì lòng chung thủy, bà tái sinh thêm một lần nữa vào thế kỷ 17 ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa để gặp lại người chồng kiếp trước, cũng tái sinh. Lần này bà cũng có văn tài, làm thơ hay, sinh được một con trai, khích lệ chồng trong việc học. Sau người chồng thi đỗ, làm quan trong viện Hàn lâm. Cuộc sống thế gian của bà lần này chỉ có 18 năm.

Tác giả quan trọng đầu tiên viết về Liễu Hạnh công chúa không ai khác hơn là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748) như trên đã nói. 
Trong cuốn Truyền Kỳ Tân Phả của nữ sĩ họ Đoàn, cuộc sống thế gian của Liễu Hạnh công chúa trong hai lần tái sinh ở thế kỷ 16 và 17 được chép trong truyện “Vân Cát thần nữ.” Đoàn Thị Điểm cũng sưu tập được những sáng tác của Liễu Hạnh công chúa, kể cả những câu đối và bài thơ liên ngâm với Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan cùng các văn, thi hữu của ông.
Sự kiện Liễu Hạnh công chúa đầu thai cùng tái sinh tới ba lần ở Việt Nam cho thấy bà rất giàu tình cảm, trọng tình nghĩa, thương người, thương dân, và có nhiều thiện cảm với đất nước, dân tộc Việt. Nếu có vì lời khẩn cầu của vua Thành Thái (một vị vua yêu nước) mà bà tìm cách báo trước vận mệnh đất nước, cũng là điều hợp lẽ tự nhiên. Bài thơ “giáng bút” rất có giá trị văn chương như chúng ta đã thấy, đúng là tác phẩm của một bậc có văn tài, không phải ai cũng làm được.
Một điểm đáng chú ý nữa là trong bài thơ “giáng bút,” Liễu Hạnh công chúa không chỉ mách cho biết những chuyện sắp xảy ra mà còn gửi tình cảm vào đó. Ta có thể cảm nhận thấy nỗi ngậm ngùi của bà trong hai câu 3-4:
Cung mây đã sẵn trời giương
Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu.
Khi nhắc đến quốc gia dựng nên không được lâu ở miền Nam, bà có giọng bực bội, trách móc:
Chân nhân đâu phải là phường thầy tăng.
Sau khi đất nước đã thống nhất năm 1975, bà đổi sang giọng tha thiết khi cảnh báo mọi người: chưa hết “Xuân Thu” đâu:
Bao giờ trổ ngọn thử ly
Ai ơi nhớ lấy sấm ky kẻo lầm.
Quan trọng nhất là khi mách cho biết “thư sinh” sẽ còn phải trực diện với “thất phu” (hay “vũ phu”), bà chuyển sang ngôn từ chủ quan (dùng tiếng “ta”) với giọng mạnh mẽ và dứt khoát:
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy hoàng.
Tiếng “ta” ở đây cho thấy bà tỏ tinh thần đồng cảm, tự nhận ở cùng phía với những người ôm hoài bão “vân lôi,” và thách thức, khinh miệt “mấy anh Thủy hoàng.”
Dân tộc Việt vẫn tin ở “hồn thiêng sông núi," "anh linh tiền nhân". Với ba kiếp sống kỳ diệu ở Việt Nam và được sùng bái liên tục từ thế kỷ thứ 15, Liễu Hạnh công chúa là một thành phần quan trọng của “khí anh linh” ấy. Ta không ngạc nhiên khi nhớ lại rằng bài “giáng bút” này là tác phẩm của một vị trong cuộc sống thế gian đã từng “giúp dân đắp đê, làm cầu, khơi ngòi dẫn nước, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người đau ốm” và “chiêu tập những dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải…” Khi vận nước chuyển biến, nếu một vị như thế đứng về phía những thanh niên yêu nước thì cũng là lẽ đương nhiên.

Kết luận:
Như đã trình bày trên, bài thơ “giáng bút” của Liễu Hạnh công chúa là một tác phẩm vô cùng đặc biệt, đáng được chú ý cùng tìm hiểu kỹ hơn. Có cơ duyên được nghe một số câu của bài này lần đầu tiên năm 1944 ở tuổi lên 8, được biết toàn bài (cùng bắt đầu băn khoăn, day dứt) năm Giáp Ngọ 1954 ở tuổi 18, người viết những dòng này có hoàn cảnh thao thức về ý nghĩa của bài thơ ấy đã được một chu kỳ hoa giáp vừa đúng 60 năm. Nhân những chuyện xảy ra gần đây bên Ukraine với nhiều chi tiết đáng lưu ý, có phần nào phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, nên xin theo lời khuyên của một số thân hữu, chép lại cách hiểu của mình để trình tới các bậc cao kiến cùng những bậc có lòng với đất nước. Xin thành kính góp lời nguyện cầu, mong vận nước sớm thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn, thoát tình trạng “Xuân Thu,” để thế hệ của những Phạm Chí Dũng, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Nguyễn Lân Thắng … cùng các bạn của họ, những bậc có hoài bão “vân lôi” được Liễu Hạnh công chúa dự báo sự xuất hiện từ trên 100 năm trước, có thể sớm góp tay xây lại tương lai cho Việt Nam.
Tuy bắt đầu cầm bút với mục đích đơn giản là góp phần làm rõ nghĩa một bài thơ, nhưng tới đây, người viết không tránh khỏi bùi ngùi. Phải chăng một dân tộc cũng có vận mệnh? Những câu 2-4 cho thấy phải có chuyện “cáo” làm vua giả để đưa đất nước vào hoàn cảnh Xuân Thu? Những câu 11-16 cho thấy tuy một quốc gia dựng nên ở miền Nam sau khi người Pháp thua năm 1954, quốc gia ấy phải sụp đổ để dân Việt trở nên khôn ngoan hơn? Những câu 17-20 cho thấy tuy đã chịu đau khổ quá nhiều trong mấy chục năm qua, dân tộc Việt vẫn còn phải cố gắng thêm một lần nữa, không được xuôi tay, nếu muốn có một tương lai sáng sủa hơn?
 Những sự kiện đã xảy ra có thể là do “nghiệp” hay “cộng nghiệp.” Tuy nhiên, người bình dân Việt Nam vẫn tin, “Đất có tuần, dân có vận.” Vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi cũng từng viết, ”Nhật nguyệt hối rồi lại minh.” Thiết nghĩ một dân tộc từng có những tiền nhân anh kiệt như Trưng Nữ Vương, Triệu Lệ Hải Bà Vương, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Huệ …, những tiền bối anh linh như Hưng Đạo đại vương, Liễu Hạnh công chúa … ắt không thể kém hèn, chịu nhục quá lâu. Người viết những dòng này chân thành cầu mong vận nước sẽ chuyển biến theo chiều hướng tốt đẹp hơn, đúng như lời báo trước của Liễu Hạnh công chúa.
Trần Từ Mai
(Tháng 3 năm 2014)
Posted by Tiếng Thông Reo at 10:00 PM  
Labels: A-5 BiênKhảo

1 comment:
Pham VuMarch 27, 2014 at 8:35 PM
Cám ơn tác giả đã tra cứu rất kỹ và đưa ra một bài giải thích công phu.
Tôi xin có vài góp ý như sau:
1) Tôi đồng ý “ngọn thử ly” để chỉ một chế độ sau khi mất được người ta nhớ tiếc (VNCH). Ở trong nước hiện nay, dân miền Nam ao ước trở lại “những ngày VNCH.” Dân miền Bắc bắt đầu nhận ra “VNCH không phải là ngụy.” Trong bản dịch Kinh Thi sang tiếng Anh, học giả James Legge tóm ý bài “Thử ly” như sau: “An officer describes his melancholy and reflections on seeing the desolation of the old capital of Chow.” (Một viên chức mô tả nỗi buồn thương, nhớ tiếc khi trông thấy cảnh tiêu điều nơi kinh đô cũ của nhà Châu.”
2) Tôi đồng ý “vân lôi” chỉ những người ôm hoài bão xây dựng lại đất nước và cũng tin họ sẽ thắng “mấy anh Thủy Hoàng.” Tôi muốn thêm ý sau đây: ở thời của “mây” và “sấm,” những mầm non mới nhú ra nên ẩn nhẫn, tập trung nội lực (chuẩn bị cho thật chu đáo), đợi cơn “mưa” sắp đến. Khi mưa tới, đất mềm ra, mầm non sẽ vọt lên trên mặt đất dễ dàng.
3) Đặc biệt cám ơn tác giả về từ “Khắc Dụng bày trò.” Đọc các cuốn sử TH của ĐD Anh, PhKhoang, NH Lê, tôi biết Lý Khắc Dụng là ai. Nhưng trong các cuốn trên, các cụ Đào, Phan, và Nguyễn chỉ nhắc tới Lý Khắc Dụng trong có 4, 5 dòng (các cuốn sử TH của học giới Tây phương như W. Eberhard, J.K. Fairbank, C.O. Hucker cũng thế). Nói rõ gốc gác của LKD cùng chuyện “bày trò cho con” của ông ta, kiến thức của tác giả về sử TH thật … đáng vì nể.
4) Tôi tin bài thơ này để tặng vua Thành Thái, vì chỉ 5 năm sau khi được LHCC giáng bút tặng thơ, vua Thành Thái bị người Pháp truất ngôi (1907). Con của ngài là vua Duy Tân cũng bị họ truất phế sau 9 năm làm vua (từ 1907 đến 1916). Câu “Quốc kêu vọng đế” ứng gần như “tức khắc” vào vua Thành Thái (5 năm sau khi có chuyện giáng bút). Dĩ nhiên phải đợi thêm 40 năm nữa, tới khi “cáo” lên ngôi năm 1945, non sông mới thành “một trường Xuân Thu.”
5) Vì đã ứng ngay vào vua Thành Thái như thế, tôi tin có tính cách “linh thiêng” trong bài thơ này. Tôi xin kết luận lời “góp ý” trong hai câu sau đây:
Bài thơ giáng bút thần ghi
Trăm năm cõi thế, tiên tri tỏ tường.
Reply