Tuesday, April 30, 2019

BỎ RƠI HAY PHẢN BỘI?

https://tunhan.wordpress.com/2017/10/29/bo-roi-hay-phan-boi-bui-anh-trinh/
BỎ RƠI HAY PHẢN BỘI !- Bùi Anh Trinh

Posted on Tháng Mười 29, 2017 | Bạn nghĩ gì về bài viết này?

Bùi Anh Trinh : BỎ RƠI HAY PHẢN BỘI !!!????
Nguồn trích đăng: https://vuottuonglua2017.wordpress.com/2017/10/29/bui-anh-trinh-bo-roi-hay-phan-boi/


BỎ RƠI HAY PHẢN BỘI
Tác gỉa Bùi Anh Trinh

* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.

Ⅰ – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.

Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker.. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.

Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ..
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.

Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô điều kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)

Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4.. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.

Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.

Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”.. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).

Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2.. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.

(Nguồn: Email)

Monday, April 29, 2019

Ai Nợ Ai

http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/2019/01/ai-no-ai-bauxite-viet-nam.html
Ai Nợ Ai - Bauxite Việt Nam

Đặt vấn đề so sánh xem Việt Nam nợ Trung Quốc hay Trung Quốc nợ Việt Nam trong quá khứ lịch sử cũng như hiện tại để thanh toán đi những vướng mắc không đáng có đang chi phối tâm lý dân tộc là điều cần thiết. Nhưng nói đến lịch sử thì có lịch sử gần và có lịch sử xa. Nếu phải tính đến món nợ máu xương do Trung Quốc gây ra cho dân Việt thì không thể đặt nó trong một lịch sử gần mà phải nhìn suốt một chiều dài có đến hơn 2000 năm. Kể từ cuộc xâm lược đầu tiên của đội quân do các Hoàng đế Đại Hán tiến hành kéo xuống tàn sát dân ta và lập ra cuộc đô hộ của chúng suốt 1000 năm Bắc thuộc, cho đến hàng chục cuộc xâm lăng hung hãn của các đế chế Trung Hoa dưới nhiều triều đại tự chủ của nước ta từ thế kỷ X về sau, bao gồm cả những cuộc chiến tranh trong thế kỷ XX như chiến tranh cướp Hoàng Sa 1974, cướp Gạc Ma 1988, chiến tranh biên giới 1979… đều là những món nợ khủng khiếp, ngày một chồng cao như núi mà phía “vay” không bao giờ trả nổi.

Chỉ có thể gọi đó là mối thù muôn đời muôn kiếp không tan, đúng như lời Phan Bội Châu: “Oán thù ta hãy còn lâu / Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què”.

Nhưng không chỉ có thế. Ngay việc ta đánh Mỹ cũng không hoàn toàn là đánh cho ta mà chủ yếu và trước hết là “đánh cho Liên Xô, Trung Quốc” (Lê Duẩn). Như thế, thành quả của cuộc chiến không phải ta hưởng mà chính LX và TQ mới là hai ông anh thủ đắc trước tiên. Và đó cũng là một phương diện khác của món nợ máu xương mà ta có quyền đòi ở họ, và họ - nhất là anh láng giềng phương Bắc “núi liền núi sông liền sông” - có nghĩa vụ phải trả cho ta. Không nói về nhân mạng ta đã từng mất đi hàng bao nhiêu triệu con người ưu tú, sau chiến tranh mọi hậu quả về các thứ bệnh do cuộc chiến phát sinh, nặng nề nhất là bệnh chất độc da cảm ảnh hưởng di truyền đến nhiều thế hệ con cháu… biết dùng thứ gì mà bù đắp được?

Những thiệt hại về nòi giống chính là cái gánh nợ quan trọng hàng đầu mà ta có quyền đòi trong tư cách đảng cộng sản đàn em thân tín yêu cầu các “ông anh” phải “chia sẻ nỗi đau” cùng chúng ta, thực chất là ta đòi khoản thù lao đánh thuê để hai nước cộng sản đàn anh rảnh tay xây dựng và be bờ đắp đập cho phên dậu nhà mình.

Còn nói cụ thể việc Việt Nam nợ Trung Quốc về súng ống đạn dược, lương thực, bạc tiền trong cuộc chiến tranh 20 năm ấy mà Trung Quốc đã “nhiệt tình” giúp đỡ thì trước khi đặt vấn đề ai trả, lại phải đặt ra một vấn đề khác cho phân minh, rằng món nợ này do ai vay?

Dám chắc toàn dân Việt Nam không ai vay Trung Quốc. Muốn biết ai vay thì phải lần đến tận ngọn nguồn:
ai đã gây ra cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong suốt 20 năm 1954-1975 mà cuối cùng nhân dân cả hai miền đều phải chịu chịu một tổn thất nặng nề đến nay chưa thể nào hàn gắn nổi?
Câu trả lời ngày càng nổi rõ trong nhận thức, tưởng không còn mấy ai phải phân vân: chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính tổ chức bạo lực đó đã phát động cuộc cướp chính quyền năm 1945 dưới danh nghĩa Mặt trận Việt minh rồi sau đó giữ chặt lấy chính quyền mặc dầu không ai bầu cho họ. Vậy là họ đã cầm quyền tiếm danh kể từ 1945 đến tận hôm nay, đúng 73 năm, và trong 73 năm đó đã một mình mình tự quyết định mọi chuyện, trong đó có chuyện xoay xở vay mượn tất cả những nước cùng ý thức hệ như LX, TQ và các nước CS khác để đem mọi thứ về phát động con dân miền Bắc lên đường trèo đèo lội suối đi đánh cướp miền Nam. Kết quả của cái việc vay mượn tự chuyên kia là một nước Việt Nam tuy có thống nhất được cả hai miền sau 20 năm giết chóc, nhưng cái giá của nó thì còn đắt hơn vàng mà như trên đã nói, đến tận bây giờ vẫn chưa thể có được một nước Việt Nam yên hàn, lành lặn, khi mà cả một dân tộc trở thành nồi da xáo thịt trong suốt hai thập niên, để rồi sau đó là nhiều đoàn người đã rùng rùng bỏ nước ra đi tìm nơi trú ngụ mới ở khắp bốn phương trời, đén nỗi nay muốn ngồi lại cùng nhau để hòa hợp hòa giải cũng chưa xong. 
Vậy thì món nợ do ĐCS VN vay của Cộng sản Tàu không lãi mà lỗ lớn. Lỗ cả về vật chất và tinh thần cho cả một dân tộc.
Đương nhiên dù lỗ, đã vay thì phải trả. Nhưng con nợ trực tiếp là ĐCSVN thì họ phải tìm mọi cách để trả chứ không thể bắt dân Việt phải trả thay họ, vì người dân đã từng hiến dâng hết tính mạng con cái và tài sản gia đình mình (có rất nhiều nhà như nhà bà mẹ Diệm chết sạch đến cả 6 người con) cho cuộc chiến cưỡng bức vô thức này. Họ càng không thể đem đất đai, biển trời của Tổ quốc ra để trả, nếu như còn một chút liêm sỉ nào đó. Sau 73 năm tự chuyên với công và tội đầy mình, chắc chắn không ai còn muốn họ được phép nhân danh cái quyền mà thực chất họ không có để cắt xé dù chỉ một thước núi một tấc sông đem dâng cho nước ngoài, huống chi nước ngoài ấy lại là kẻ thù truyền kiếp của toàn thể dân tộc Việt Nam (Lê Duẩn).
Chính vì thế, khi chúng ta nhìn những nụ cười như nụ cười nham nhở dưới đây của một kẻ từng có đầy oai quyền và từng ban phát quyền sinh quyền sát cho rất nhiều thế hệ trí thức cũng như người dân trong nhiều thập niên thuộc nửa cuối thế kỷ XX, ta sẽ thấy trong lòng dâng lên một mối hờn căm chính đáng, và tự nhiên lợm giọng. Y và những kẻ như y mới chính là những con nợ lâu đời nhất của toàn thể dân chúng Việt Nam - những ai đã nằm xuống, những ai hiện còn, những ai đang sống ở trong nước hoặc những ai đã bỏ nước ra đi, theo chúng tôi, đều là chủ nợ của bè lũ tội nhân này.

Bauxite Việt Nam
Posted by Thoi Chinh Chien at 12:54 AM

Sunday, April 28, 2019

Ngày đó tháng tư 1975

https://dongsongcu.wordpress.com/2019/04/05/tieu-tu-ngay-do-thang-tu-1975/
Tiểu Tử: Ngày đó tháng tư 1975
Posted on April 5, 2019 by dongsongcu

Tiểu Tử
   Năm nay tôi 80 tuổi. Vợ tôi thường nói với mấy con:
– Ông bà mình nói người già hay sanh tật, đúng quá! Bây coi: ba bây bây giờ sáng nào uống cà phê xong cũng lại đứng trước tấm lịch tháng treo ở phòng khách, nhìn trầm ngâm một chút rồi lấy bút gạch tréo ô vuông đề ngày hôm qua! Chi vậy hổng biết? Hỏi ổng thì ổng nói gạch để nhớ rằng đến ngày nầy tháng nầy mình vẫn còn trôi sông lạc chợ! Trời đất ! Định cư ở Pháp từ hơn ba mươi năm chớ phải mới đây đâu mà đi gạch lịch từng ngày! Ổng còn nói gạch để coi chừng nào mình mới thôi gạch để về lại Việt Nam … 
Câu nói của tôi là sự thật nhưng vì vợ tôi không hiểu nên cho là tôi già sanh tật ! Làm sao giải thích được mỗi lần tôi gạch tréo một ngày như vậy tôi có cảm tưởng như là tôi vừa nhích lại gần quê hương một chút – một chút thôi – đủ để nuôi hy vọng thấy một ngày nào đó mình vẫn còn sống mà trở về …
 Sáng nay, cũng giống như mọi ngày, tôi cầm bút gạch tréo ô vuông ngày hôm qua. Ô vuông ngày hôm nay đập vào mắt tôi làm tôi giật mình: ngày nầy, năm 1975! Tôi bỗng nhớ ra, nhớ rõ, những gì đã xảy ra ngày đó, nhớ như in. Rồi sợ «cái ngày đó» nó vuột khỏi ký ức vốn đã quá hao mòn của tuổi già, tôi vội vã lấy giấy bút ghi lại … * * * …
Hồi thời trước 75, tôi làm việc cho một hãng dầu ở Việt Nam, phụ trách nhập cảng xăng dầu từ Singapore vào kho dầu Nhà Bè để cung ứng cho thị trường dân sự và quân sự miền nam Việt Nam. Vì trong xứ có giặc nên thị trường quân sự chiếm 60%, trong đó xăng máy bay dẫn đầu. Các bạn tôi trong quân đội giải thích cho tôi biết rằng ở chiến trường Miền Nam sự yểm trợ của không lực là quan trọng nhứt. Do đó, tôi luôn luôn theo dõi sát tình hình dự trữ xăng máy bay ở các kho dầu Miền Nam, từ kho Nại Hiên Đà Nẵng dẫn xuống kho Cần Thơ thông qua kho lớn ở Nhà Bè …
 Vào cuối tháng 3 năm 1975, sau lịnh triệt thoái cao nguyên, tình hình quân sự trở nên ồ ạt. Sợ trở tay không kịp, tôi còm-măng Singapore một tàu xăng máy bay. Hay tin nầy, hãng bảo hiểm có hợp đồng với hãng dầu tôi làm việc đánh điện phản đối, không cho tàu dầu qua Việt Nam viện cớ tình hình bất ổn. Đánh điện qua, đánh điện lại, cù cưa cả tuần họ mới bằng lòng cho tàu dầu qua, với điều kiện phải có hộ tống của Navy Mỹ họ mới cho tàu vào sông Sàigòn để cặp kho Nhà Bè ! Tôi báo cáo với ban giám đốc vì lúc đó ở kho lớn Nhà Bè trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ có bảy ngày tác chiến của không quân. Ban giám đốc chấp thuận điều kiện của hãng bảo hiểm. Tôi vội vã gọi điện thoại lại cơ quan yểm trợ Mỹ để xin họp khẩn. Ông trưởng sở trả lời :«Tôi sẽ đến ngay văn phòng ông. Cho tôi mười phút!».
Tôi quen ông nầy – tên W, thường được gọi là «Xếp» – nhờ hay đi họp chung. Ông ta dễ thương nhã nhặn, biết chút đỉnh tiếng Pháp nên lần nào gặp tôi cũng nói: “Bonjour ! ça va ?” (Chào ông! Mạnh hả?) Xếp W đến văn phòng tôi với hai người phụ tá. Tôi đã làm sẵn hồ sơ nên sau khi mời ngồi, tôi trao ngay cho họ để họ dễ theo dõi những gì tôi sẽ trình bày. Mười phút sau, tôi kết luận xin can thiệp gấp để tàu dầu xăng máy bay của hãng tôi được hộ tống, không quên nhắc lại điểm chánh yếu là trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ để chiến đấu trong vòng có bảy bữa ! Nghe xong, Xếp W xin phép bước ra ngoài gọi radio về trung ương. Một lúc sau, ông trở vào, nét mặt và giọng nói vẫn tự nhiên như chẳng có gì quan trọng hết:
– Rất tiếc ! Chúng tôi không giúp được! Thôi! Chúng tôi về! tôi đang nghe nghẹn ngang ở cổ thì ông W vỗ vai tôi nói nhỏ bằng tiếng Pháp: – Allez vous en! (Ông hãy đi, đi!) Ra đến cửa phòng, ổng ngừng lại nhìn tôi, gật nhẹ đầu một cái như để chào nhưng tôi nghĩ là ổng muốn nhắc lại câu nói cuối cùng “Allez vous en!” (Ông hãy đi, đi ! ) …
 Tôi ngồi bất động, nghe tức tràn lên cổ vì thấy mình bất lực quá và cũng nghe thương vô cùng cái quê hương nhỏ bé của mình, nhược tiểu đến mức độ mà khi cần nắm tay để kéo đi theo thì «họ» dán … đầy đường cái nhãn «hai bàn tay nắm lấy nhau» để chứng tỏ sự thật tình «khắng khít», rồi khi không còn cần nữa thì cứ tự nhiên buông bỏ không ngượng tay giấu mặt, vì biết mười mươi rằng «thằng nhược tiểu đó không làm gì được mình !» Tôi ráng kềm xúc động, bước qua phòng họp của ban giám đốc, chỉ nói được có mấy tiếng: – Chánh quyền Mỹ từ chối! Sau đó, tôi đánh điện qua Singapore, cũng chỉ bằng một câu: «Không có hộ tống». Họ trả lời ngay «OK! Good Luck!» (Nhận được ! Chúc may mắn!) Hai chữ cuối cùng, trong hoàn cảnh nầy và vào thời điểm nầy, nghe sao thật đầy chua xót !
Thấy mới có ba giờ chiều, nhưng không còn lòng dạ đâu để ngồi lại làm việc nên tôi lái xe về nhà. Tôi lái như cái máy, cứ theo lộ trình quen thuộc mà đi. Về đến trước nhà, tôi bỏ xe ngoài ngỏ, đi bộ vô. Vợ tôi chạy ra, ngạc nhiên: – Sao về vậy anh? Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc. Vợ tôi chưa biết những gì đã xảy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc:
– Ờ… Khóc đi anh ! Khóc đi! Ngày đó, tháng tư năm 1975 … Đúng là ngày nầy…
Nguồn: http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2019/04/tieu-tu-ngay-o-thang-tu-1975.html

Saturday, April 27, 2019

Một triệu người vui và một triệu người buồn

http://bloganhvu.blogspot.com/2010/04/mot-trieu-nguoi-vui-va-mot-trieu-nguoi.html
Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2010
Một triệu người vui và một triệu người buồn

Tôi đã biết đến câu nói này của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ lâu rồi, nhưng sáng nay ngồi đọc báo mạng thì tìm thấy nó trong bài viết có tựa là "Chấp nhận cái khác biệt để hòa hợp, hòa giải" trên Tuần VN, ở đây. Một bài viết có nhiều điều đáng đọc. Tôi chỉ xin trích lại một đoạn dưới đây:
Về sự hòa hợp giữa những người trong nước, ông Bích nói:

- Tôi cho rằng cách xử sự với người bại trận là thiếu độ lượng. Mãi tới sau Đổi mới, tình trạng này mới giảm dần. Theo tôi, hòa hợp dân tộc phải do người chiến thắng chủ động tiến hành, trước hết là hòa hợp với người đã khuất. Thế nhưng chúng ta làm việc này chậm quá. Mãi gần đây chúng ta mới dân sự hóa nghĩa trang Biên Hòa, nơi chôn cất tử sĩ Việt Nam cộng hòa.

Tôi cũng nghĩ vậy. Tôi nhớ có đọc ở đâu đó nhận xét về việc chính phủ VN đã tích cực giúp Mỹ tìm lại hài cốt những người lính Mỹ đã chết trận ở VN, và 2 kẻ "cựu thù" đã thực sự bình thường hóa quan hệ và trở thành bạn bè, đồng minh. VN cũng đã tiến hành cuộc chiến với TQ năm 1979, rồi bây giờ TQ cũng đã trở thành người đồng chí tốt của VN với 16 chữ vàng rồi. Thậm chí tôi còn nghe om xòm vụ "liệt sĩ TQ" nữa. Nhà nước ta đã thể hiện quan điểm khá rộng lượng với những ngoại bang từng là kẻ thù trên đất nước ta.

Nhưng những người đồng bào cùng máu đỏ da vàng của chúng ta đã nằm xuống, hay đã sống qua những ngày tháng đó như những nhân chứng, và âm thầm lặng lẽ đóng góp vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của VN sau này - họ là ai, đã từng nghĩ gì, cảm nhận gì, và hiện nay họ và con cháu họ đang nghĩ gì, cảm nhận gì trước vận hội cũng như những thách thức mới của đất nước này? Hay họ mãi mãi phải chịu số phận là missing piece trong bức tranh lịch sử của VN? Là skeleton in the cupboard trong gia đình VN?

Ngày 30/4 đến. Tôi không thuộc 1 triệu người vui mà cố TTg VVK đã đề cập đến. Tôi biết chắc chắn cha mẹ tôi - ông bà đã quá cố - và nhiều chú bác của tôi thuộc số 1 triệu người buồn. Còn tôi, năm 1975 tôi chỉ mới 15 tuổi. Cuộc chiến đã qua đi 35 năm rồi. Tôi tin mình cũng đã đóng góp hết mình cho đất nước này, như một người bình thường như tôi có thể làm được. Tôi tin mình luôn đập từng nhịp với nhịp tim của dân tộc. Và những thành quả của ngày nay, cũng như những vấn nạn của toàn xã hội, đặc biệt trong ngành giáo dục, cũng có phần đóng góp và trách nhiệm của tôi.

Nhưng đến ngày 30/4 thì tôi không thấy có chỗ nào cho mình cả. Tôi không muốn nghe mãi và không muốn tham gia nhắc nhở về những mất mát đắng cay của những người thua cuộc. Vì nó không giải quyết được gì hết, và chỉ tiếp tục kéo dài sự hận thù. Nhưng tôi hiểu tại sao họ vẫn còn lưu giữ sự oán giận trong lòng.

Tôi tin là họ muốn, và tôi cũng muốn, họ được nhắc đến như một phần trong lịch sử đau thương này của dân tộc. Được trân trọng như những con người chân chính chứ không phải nhưng kẻ ngụy tà, là người dân Việt, biết vui biết buồn, có đúng có sai, đã sống hết mình và hy sinh cho những điều mình tin là đúng.

Nhưng hình như ta đã làm cho họ biến khỏi lịch sử của VN mất rồi? Mà họ chính là cha mẹ, cô dì, chú bác, anh chị của tôi, là cội rễ của tôi. Nên tôi thấy trong lịch sử VN, những người như tôi bị đứt mất gốc rễ từ chỗ đó.

Và đó là lý do tại sao dù làm việc suốt đời cho nhà nước, và đóng góp hết sức mình, nhưng tôi vẫn cùng một lúc cảm thấy như người đứng ngoài, bị gạt ra ngoài. Một người không cội rễ.

Nên ngày 30/4 đối với tôi luôn là một ngày để suy nghĩ. Không phải để ăn mừng, mà cũng không phải để thù hận. Mà chỉ là băn khoăn, với một câu hỏi duy nhất: Khi nào?

Khi nào thì đến ngày 30/4, 1 triệu người buồn bây giờ cũng sẽ cảm thấy vui. Vui, vì đất nước đã thống nhất, anh em hòa hợp, không kỳ thị, anh thắng nhưng anh cũng đã có nhiều sai lầm, tôi thua nhưng không phải cái gì tôi làm cũng là sai. Anh thắng nhưng cũng có những chỗ anh có thể học từ tôi, và tôi thua, nhưng tôi không hằn học vì anh đã có những cư xử độ lượng, chân tình...

Khi nào?
---
Viết thêm:
Tôi vừa tìm thấy bài này, rất đáng đọc nên đưa link về đây giới thiệu với mọi người. Nó đây.

Buồn lắm, cái buồn của cả 2 triệu người từ hai phía trong câu nói của Ông VVK, được dùng làm tựa của entry này.

4 nhận xét:

khanh00:30 1 tháng 5, 2010
30 tháng 4 năm 75...

Mình 18 tuổi , đang học năm đầu ở Đại học Khoa Học Sài Gòn...

Mình đọc và sao mà thấm thía từng câu , từng chữ , những điều PA viết ở đây...

Từ nửa vòng trái đất cõi người ta...xin cám ơn Phương Anh rất , rất nhiều...

Phương Khanh

Trả lời

NLS1208:20 1 tháng 5, 2010
Bài này chan chứa nhiều chân tình từ 1 chứng nhân nay xấp sỉ "ngũ tuần" với kinh nghiệm trước và sau ngày "Thống Nhất" của 1 đất nước ít khi thực sự thanh bình. Xin cám ơn chị chủ nhà với bài đầy tình người này nha.

Hôm nay bà 8 này hơi bị tê hoặc tưng tửng nên không viết được cái gì ra hồn, viết rồi xóa và sau đó viết lại để rồi phải xóa lần nữa.... Huhuhu! Thôi đành "xì pem" 1 chút vậy, đề tài "30 Tháng Tư, thế hệ trẻ hôm nay: Biết gì? Nghĩ gì?" là 1 tóm lược có giá trị với tư duy cùng thực tế của giới trẻ Việt ở "nước lạ" hiện nay, rất đáng để các thế hệ cha ông 5, 6, 7, 8 bó trong và ngoài nước đọc cùng suy ngẫm và bàn luận đôi chút về phần nào tương lai của nước Việt khi mình già nua hoặc đã về chầu ông bà.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=112149&z=1

Bà 8 Sưu Tầm

Trả lời

Vũ Thị Phương Anh08:50 1 tháng 5, 2010
Chị Phương Khanh và Bà Tám,

Rất cám ơn hai vị đã gửi những nhận xét làm chủ nhà rất sung sướng và cảm động.

Có phải sự hòa hợp, hòa giải trước hết phải bắt đầu từ những con người thật và cảm xúc thật như thế này không, chị PK và Bà Tám ơi?

PA

Trả lời

Thanh Chung14:51 3 tháng 5, 2010
Chào Phương Anh,
Theo dấu chân của PA bên nhà, TC đã tìm sang thăm PA và đọc bài viết về ngày 30 tháng tư. Thế hệ của chúng mình không trực tiếp tham gia vào cuộc chiến, nhưng lại là nhân chứng của rất nhiều sự kiện trong và sau cuộc chiến. Đọc bài của PA, mình hiểu được phần nào tâm trạng "bị gạt ra ngoài lề" của những người cùng thời ở "phía bên kia". Mình cũng vừa "bị gạt ra" khỏi lớp học trò của mình. Không dám kỳ vọng vào những điều lớn lao, nhưng mỗi nguời góp vào một tiếng nói cho ý tưởng hòa hợp dân tộc, mình tin nhất định ngày đó sẽ đến.
Cám ơn PA đã chia sẻ với TC.

Trả lời

Friday, April 26, 2019

Trông người lại nghĩ đến ta

http://www.saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/vanNTN.htm
http://saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/NguyenTaiNgoc/van4.htm

Trông người lại nghĩ đến ta

Trận động đất Sendai đã làm cho cả thế giới thấy cá tính phi thường của người Nhật không quốc gia nào  có thể sánh bằng. Khác với cơn bão Katrina làm ngập lụt thành phố New Orleans ở Mỹ năm 2005 và cơn động đất tháng Giêng năm 2010 phá sập thành phố Léogâne, Haiti khiến nạn nhân giành giật thực phẩm, chen lấn, cướp bóc, hôi của, la hét, chửi bới chính quyền, dân chúng Nhật nhường nhịn thức ăn cho nhau, kiên nhẫn, kỷ luật, không cướp bóc, đứng xếp hàng trật tự có nơi đợi hơn 12 tiếng đồng hồ để mua nhu yếu phẩm. Phần lớn mọi người giữ sự đau khổ trong lòng không để lộ diện cho người ngoài thấy.

Ở một tiệm chạp phô trong khi bán hàng thì bị cúp điện. Máy tính tiền cần điện nên mọi buôn bán phải trì hoãn. Những người đã lấy hàng hóa đợi tính tiền đem trả hàng lại trong ngăn đựng dù rằng có người đã đợi hơn ba giờ đồng hồ, không một ai nổi giận, không ai cướp bóc, không ai hôi của. Tiền bạc rớt bừa ở những nhà sụp đổ không một ai lấy. Một người  Mỹ bị kẹt qua đêm trong xe điện ngầm sau cơn động đất. Anh ta rất ngạc nhiên là hành khách không ai hốt hoảng, không ai la hét đòi hỏi người trưởng tầu xe lửa để biết chừng nào tầu chạy lại, chừng nào được cứu. Mọi người chỉ yên lặng ngủ qua đêm chờ sáng. Ở Tagajo, một thành phố gần trung tâm động đất, nhân viên một nhà kho bán nước ngọt đem hết cà-phê và nước ngọt đem bày ra ngoài đường để ai cần thì lấy dùng. Ông Osamu Hayasaka, 61 tuổi, lấy hai thùng nước ngọt buộc vào yên sau xe đạp của ông ta nhưng không phải lấy cho ông ấy. Hayasaka nói: “Khu tôi ở có rất nhiều người già nên tôi đem về cho họ.”

Người lớn tỏ cá tính phi thường mình đã thấy thán phục, đọc xong chuyện cậu bé Nhật trong một email luân chuyển trên Internet do anh Hà Minh Thành kể, không ai mà không khâm phục người Nhật từ nhỏ chí lớn. Cậu bé chín tuổi mất hết gia đình đứng đợi ở gần cuối hàng để nhận lãnh lương thực. Khi anh đưa thức ăn cho cậu bé, thay vì lấy ra ăn thì cậu bé đem thức ăn bỏ vào chỗ phân phối thức ăn chung rồi ra sau hàng đợi tiếp. Khi hỏi tại sao không ăn, cậu bé trả lời là: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".

Tôi nhận khoảng hơn hai mươi email từ bạn bè về câu chuyện trên và những chuyện khác của người Nhật, email nào cũng nói ước gì người Việt Nam chúng ta bắt chước được tính của người Nhật. Tất cả email này giống nhau ở một điểm: người nào cũng muốn người Việt cư xử như người Nhật Bản, thế nhưng không một ai đưa ra một đề nghị giải quyết làm thế nào để chúng ta có thể giống như họ?

Cụ Phan Bội Châu một trăm năm về trước đã nhận thức được sức mạnh siêu cường của Nhật Bản nên đã cùng Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và một số chí sĩ yêu nước lập ra Duy Tân Hội, cỗ võ phong trào Đông Du khuyến khích người Việt sang Nhật Bản học hỏi. Có mục đích rõ ràng như thế mà Phan Bội Châu còn thất bại, thế thì một trăm năm sau nếu ta chỉ nói bâng quơ ước ao người Việt mình được như người Nhật thì làm sao giấc mơ đó biến thành cụ thể được?

Ơ nước Mỹ hơn 35 năm, tôi thấy người Mỹ có cái hay là khi có một vấn đề khó khăn, họ lập tức tìm biện pháp giải quyết và áp dụng ngay vào vấn đề đó. Tôi muốn bắt chước cái tính hay đó của họ nên mạnh dạn đề nghị phương pháp cho người Việt chúng ta noi theo. Nước Nhật đã tốn bao nhiêu năm huấn luyện dân tình để bây giờ dân chúng  mới đạt đến những cá tính đáng phục: sạch sẽ, không lợi dụng cơ hội để hôi của hay cướp giật, không ích kỷ, hy sinh tính mạng mình cho người khác, khiêm nhường kính trọng người khác, lễ phép, liêm khiết không tham nhũng, Họ làm được thì chúng ta cũng làm được. Trong bốn quốc gia nguyên thủy dùng chữ Hán là nền tảng của ngôn ngữ, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, chỉ có Việt Nam chúng ta là thua xa ba quốc gia kia. “Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm”, tôi hy vọng “với ý chí thay đổi, Hà Tĩnh cũng thành Tokyo”:

1. Sạch sẽ: Trong tất cả tính xấu của người Việt Nam, tính dơ bẩn của chúng ta có lẽ là xấu nhất. Tiêu chuẩn sạch sẽ của chúng ta quá thấp. Người Việt chúng ta cứ tự hào không thua Trung Hoa, thế nhưng về việc ở bẩn thiếu vệ sinh thì xin cho tôi van, cứ để họ dành phần thắng, không có gì mà xấu hổ dân tộc. Vâng, cứ để họ đoạt huy chương vàng vẻ vang nổi tiếng bẩn hơn mình. Bề ngoài của quốc gia là quan trọng. Đường xá do đó lúc nào cũng nên giữ sạch sẽ, không rác rưới hay đái bậy. Dân mình hay đái bậy ngoài đường vì không có toilette công cộng. Tôi đề nghị ở những bùng binh thay vì dựng tượng này tượng nọ, chúng ta nên xây toilette ngay ở giữa để người dân có chỗ đi toilette (xây tượng dân có chỗ núp kín đáo để tiểu tiện, vì vậy thay tượng bằng toillete cho được việc nhà nước). Mướn người lau toilette 24/24 để lúc nào nó cũng sạch còn hơn khách sạn Sheraton, ai cũng muốn hồ hởi vào làm nhiệm vụ đất nước. Mặt khác thì nên gia tăng hình phạt thật gắt cho ai đái bậy. Mấy xứ Ả-Rập người ăn cắp họ đem ra chặt tay thì Việt Nam ta  nếu bắt được người nào đái bậy ngoài đường, đem của quý ra thiến. Một công hai việc: đường xá sạch sẽ và giới hạn sinh sản cùng một lúc. Bảo đảm cắt của quý độ chừng mười người thôi là tất cả mọi người sẽ không dám đái bậy nữa, quốc gia sẽ được giải phóng vấn đề đái bậy khắp nơi.

2. Không lợi dụng cơ hội để hôi của hay cướp giật: Tôi thấy tận mắt lần đầu tiên ở Hoa Kỳ khi sống chung với một cặp vợ chồng Mỹ về kinh nghiệm giầu có không trộm cắp. Trong khu apartment tôi ở có nhiều con nít. Sau một ngày chơi đùa, chúng nó hay bỏ đồ chơi, xe đạp ngổn ngang ngoài đường, không bao giờ bị mất cắp. Lý do rất dễ hiểu: ở một xã hội ai cũng có tiền mua đồ đạc như nhau thì không có trộm cướp. Ta cũng có câu: “Bần cùng sinh đạo tặc”. Nước Việt Nam chúng ta vấn đề không nằm trong  một thiểu số giầu trưởng giả học làm sang, mà là trong đa số dân chúng quá nghèo. Tôi đề nghị tập trung họ vào vài tỉnh, rồi cắt đứt luôn những tỉnh đó cho Trung Hoa. Phần đất có người giầu ta giữ lại. Lúc ấy thì Việt Nam hoàn toàn đúng với câu dân giầu nước mạnh: mọi người ai cũng giầu nên sẽ không còn cướp bóc.

3. Không ích kỷ, hy sinh tính mạng mình cho người khác: Đến bây giờ chắc có lẽ ai cũng biết một nhóm 150 người khoa học gia, chuyên viên, kỹ sư Nhật đã tình nguyện ở lại lo dập tắt lò nguyên tử Fukushima mặc dù biết rằng tính mạng họ như chỉ mành treo chuông vì bị nhiễm phóng xa trực tiếp của lò nguyên tử. 150 người này giống như những phi công cảm tử Kamikaze vào Đệ Nhị Thế Chiến. Họ là những anh hùng cảm tử không biết chết là gì, hy sinh sự sống để cứu vãn tính mạng của người khác. Tôi phải thú nhận là suy nghĩ mãi mà tôi không thể nào đưa ra một biện luận mạnh mẽ nào để có thể thúc đẩy dân Việt Nam chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng mình để cứu người khác như dân Nhật. Tôi chỉ nhớ đến trường hợp của một ông Trung Tá Cảnh sát Việt Nam bắn vào đậu tự tử trên đường Lê Lợi vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong khi xác ông ta nằm chết thì ký giả Tiziano Terzani người Ý-Đại-Lợi ở trên lầu khách sạn Caravelle nhìn xuống thấy một người đàn ông đi xe gắn máy chạy đến lấy khẩu súng và một người khác nữa đến gỡ đồng hồ đeo tay của ông ấy.  Cảnh tượng này rất rõ trong đầu óc của tôi nên tôi chỉ có lời khuyên là nếu  người nào  có ý chí hy sinh mạng sống mình cho đồng hương thì nên nhớ gỡ đồng hồ đeo tay, thắt lưng, giầy da… đưa lại  cho vợ con mình để  họ bán giữ lấy tiền, còn hơn là để bị kẻ khác tước đoạt khi mình chết.

4. Khiêm nhường, kính trọng người khác: Khác với người Đại Hàn nổi bật bản tính hung hăng, người Nhật Bản rất khiêm nhường, kính trọng người khác. Ngôn ngữ của họ cũng tỏ ra điều đó. Người Việt Nam chúng ta thì ngược lại. Từ người ít học đạp xích lô đến một một người thông thái kỹ sư bác sĩ, từ một anh lính quèn binh nhì đến một ông tướng bốn sao, khi người khác không cùng quan điểm với mình thì ai cũng gọi họ là  “thằng này”, “thằng nọ” hết. Một người không thành công lắm trên đường đời như người phu khuân vác, anh lính binh nhì còn gọi những người khác bằng “thằng”, huống chi chính những người này khi may mắn nắm được những địa vị lãnh đạo trong xã hội thì cả thế giới… chết. Khi chúng ta gọi người khác bằng “thằng”, thái độ chúng ta trở nên hung hãn và kiêu ngạo vì không xem người khác ra gì. Người mình gọi là “thằng” dĩ nhiên sẽ nghĩ về mình như mình nghĩ về họ. Nên nhớ  là dù rằng mình có giỏi hách-xì-xằng đến đâu thì cũng có triệu người sáng suốt và giỏi hơn mình. Mỗi lần mình gọi người khác, ngay cả kẻ thù nghịch của mình, là “thằng”, cứ nghĩ đến vợ con mình sẽ gọi mình là “thằng bố”, “thằng chồng”, thì tôi bảo đảm dần dần mình sẽ trở thành ngươi kém hung hãn, khiêm nhường, kính trọng người khác.

5. Lễ phép: Hãng của tôi bây giờ đã bán, nhưng ngày xưa do ba người kỹ sư hùn vốn sáng lập. Một trong ba người là Nhật Bản. Họ bằng cỡ tuổi nhau nhưng ông Nhật luôn luôn cúi đầu chào hai ông kia mỗi khi gặp nhau. Xem đài truyền hình Nhật Bản, mở đầu chương trình là xướng ngôn viên cúi đầu chào khán giả. Tính người Nhật là như thế, ai họ cũng cúi đầu sát ván chào rất lễ phép. Người Việt chúng ta lễ phép hơn nhiều dân nước khác chẳng biết lễ phép là gì. Ít ra mình lễ phép đã được 50%: người nào cấp bậc lớn hơn mình, giỏi hơn mình, xếp của mình, thế lực hơn mình, thì mình rất là lễ phép, “dạ” lấy “dạ” để tâng bốc họ. Thế nhưng người dưới quyền  hay kém may mắn hơn thì mình nạt nộ người ta líp-ba-ga, khinh thường không xem họ ra gì hết.

Chúng ta không lễ phép vì không có phần thưởng. Kinh luật của ông Đạo Dừa có một điều khoản bây giờ tôi phổ biến thì ai cũng sẽ trở nên lễ phép. Đạo Hồi người đàn ông nào  tử vì đạo khi chết  sẽ được 70 trinh nữ, thì  kinh luật của ông Đạo Dừa cũng nói rõ ràng người nào ở trần gian lễ phép với tất cả mọi người lúc chết sẽ được lấy ba vợ. Tôi không biết các ông khác thì sao chứ từ giờ trở đi tôi sẽ cực kỳ lễ phép gấp hai lần để khi chết được thưởng sáu vợ thay vì ba.

6. Liêm khiết, không tham nhũng: Trở lại câu chuyện ông chủ Nhật Bản của tôi, ba người chủ đều chạy xe riêng do hãng thuê. Hai ông chủ kia thỉnh thoảng tôi thấy vợ lái xe của chồng, riêng ông chủ Nhật Bản  thì không bao giờ để xe của mình cho vợ chạy, vì ông ta nói đó là xe của hãng. Việt Nam chúng ta thì tính tham nhũng miễn bàn, nó đã vào tận xương tủy mọi người từ thời vua Hùng Vương Thứ Bẩy. Không, tôi nói sai, dân mình làm gì mà tham nhũng lâu đời dữ như vậy, mình chỉ tham nhũng bắt đầu từ đời vua Hùng Vương Thứ Tám thôi. Ngày xưa trước tháng 4-1975, 16 tuổi tôi phải đi gác Nhân Dân Tự Vệ mỗi tuần một đêm. Gia đình nào giầu đóng tiền cho Phường thì con mình khỏi gác. Những anh nào nghèo như tôi thì phải gác thế giờ cho những người không gác, còn tiền thì Phường lãnh! Tham nhũng ăn tiền trắng trợn như thế, nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi! Ấy là chức tôi còn dưới chức binh nhì; thử hỏi cứ theo chế độ quân giai cấp bậc càng ngày càng lớn từ trong quân đội đến thương mại, học đường, xã hội, thì sự tham nhũng biết là bao nhiêu!

Chúng ta phải nhìn nhận là không thể nào diệt trừ bệnh tham nhũng của người Việt được. Do đó, giải quyết duy nhất là chính thức hóa nó. Xã hội bây giờ người nào cũng tham nhũng, nhưng những tay mơ mới bắt đầu vào nghề thì không biết đưa tiền cho ai, và đưa bao nhiêu thì đủ? Vì thế nên  chính thức hóa. Ai cũng có quyền tham nhũng, từ trẻ đến già, từ chức quèn đến chức lớn. Ấn định số tiền tham nhũng cho tất cả mọi tầng lớp. Thiết lập một hệ thống cấp bậc như quân đội, ai cũng mang lon tham nhũng từ một sao đến năm sao để phó thường dân nhìn ngôi sao là biết ngay phải đưa tiền cho ai, và đưa bao nhiêu. Vì mọi người có quyền tham nhũng như nhau nên không ai hiềm tị ai vì “anh ăn mà tôi không được ăn”. Không ghen ghét nhau có nghĩa là đoàn kết, mà một khi đoàn kết thì chỉ có một kết quả hữu ích: dân giầu, nước mạnh.

Người Nhật đã tốn bao nhiêu thế kỷ huấn luyện đạo đức phi thường của họ. Cá tính người Việt Nam bê bối từ thời An Tiêm trồng dưa hấu vất hột bậy bạ không bỏ vào thùng rác làm dưa hấu mọc khắp nơi. Do đó, dù rằng đưa ra những đề nghị để dân tình nước ta thay đổi, thâm tâm tôi không hy vọng  một sớm một chiều  chúng ta có thể bắt chước người Nhật được.

Trừ khi nếu ai cực kỳ lễ phép với mọi người được thưởng ba vợ bé ngay bây giờ, không phải đợi đến lúc chết lên thiên đàng mới được hưởng, thì tôi bảo đảm trong thời gian cấp kỳ dân tình Việt Nam  nhất định sẽ  siêu đẳng hơn dân nước Nhật.

Nguyễn Tài Ngọc

March 2011 

Thursday, April 25, 2019

Bắc 54 - Bắc 75

http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/2018/11/e-tra-loi-mot-cau-hoi-bac-54-bac-75.html
WEDNESDAY, NOVEMBER 21, 2018

Để Trả Lời Một Câu Hỏi -Bắc 54 - Bắc 75


Có lần mình đã gặp một anh người Bắc, nói năng nho nhả cũng thuộc dạng trí thức anh đã hỏi mình một câu như vầy:
– Em người miền Nam sống ở Sài Gòn từ nhỏ, anh hỏi thật em trả lời đúng sự thật với suy nghĩ của người Sài Gòn nhé!
" Tại sao cũng là người Bắc, nhưng Bắc 54 di cư vô miền Nam, tới giải phóng là 21 năm. Anh vô miền Nam năm 75 đến giờ là 42 năm, gấp đôi dân 54. Thế nhưng tại sao người Sài Gòn lại coi Bắc 54 là một phần của họ gặp nhau tay bắt mặt mừng như ruột thịt, anh để ý riêng bản thân anh thôi nha. Có thân lắm có vui lắm, dân SàiGòn vẫn luôn mang một khoảng cách khi tiếp xúc với anh, nếu họ biết anh đến với Sài Gòn năm 75."
Trời, một câu hỏi khó cho thí sinh à nha!
– Em trả lời thật, anh đừng giận em nói:
Tách riêng 2 phần chính trị và văn hoá nghệ thuật ra đi ha!
Phần chính trị thật ra khi “giải phóng” vô em mới có gần 15 tuổi thôi về quan điểm thắng, thua em chưa đủ trình độ nhận xét,
Nhưng nếu nói về cuộc sống của thời trước và thời sau 75, khác nhau nhiều lắm:
Sướng khổ rỏ rệt. Má em chỉ là công chức nhỏ của Tổng Nha Kiều Lộ, bây giờ mấy anh gọi là Cầu Đường đó, nhưng hồi nhỏ em rất sướng, đi học toàn trường dòng, em không biết ngoài Bắc anh có không, chứ thời đó mà học nội trú là mắc lắm đó, nhà em không giàu, cậu đi lính ngụy, dì và ông ngoại đều dân Kiều Lộ, nhưng sống rất thanh thản, mặc dầu lúc đó chiến tranh tràn lan khắp nơi. Thời đó người Bắc di cư vô Nam, thường sống từng vùng do chánh phủ chỉ định, rồi từ từ lan ra..
Người miền Nam học được người Hà Nội nhiều điều: Cần kiệm, lễ giáo, nếp sống thanh lịch quý phái và tri thức.
Người miền Bắc vô Nam học được của người Sài Gòn nói riêng và người miền Nam nói chung: Sự giản dị, chân thật, tốt bụng, phóng khoáng; không câu nệ bắt bẻ hay khó khăn.
Và cả hai miền học được của miền Trung cái chịu thương chịu khó, cái đùm bọc tình đồng hương.
Cả ba miền hoà nhập với nhau, ảnh hưởng nhau lúc nào không hay. Hồi đó, em đi học gặp mấy đứa bạn Bắc Kỳ rốn vẫn hay chọc tụi nó là “Bắc kỳ con bỏ vô lớn kêu chít chít” mà tụi nó cũng không giận, chọc lại em: “Mày Nam kỳ ga guộng bắt con cá gô bỏ dô gổ kêu gột gột“, rồi lại khoác tay nhau chơi bình thường. Trẻ con thì như vậy, người lớn gặp nhau ba miền chung bàn nhậu là dô đi anh hai mình, là tay bắt mặt mừng …
Em nói dài dòng để cho anh hiểu rõ hơn vì sao Bắc 54 trở thành người miền Nam.
Chưa kể đến cái tình nha anh! Tình đồng đội khi chiến đấu chung. Ngoài anh chắc gọi đồng chí, trong đây em nói quen tiếng dân Sài Gòn xưa, lúc chiến tranh mà đi lính thì cũng phải đi chung, cả ba miền gặp nhau giữa lúc thập tử nhất sinh, thân nhau là chuyện bình thường.
Đó là lính, còn người dân giữa cái tan tác đau thương chạy loạn lạc, chết chóc hầu như từ mũi Cà Mau đến sông Bến Hải…. nơi nào không có. Từ đó, người ta thương yêu nhau và không ai nghĩ miền nào là miền nào. Người ta gọi đó là tình đồng bào, tình quân dân cá nước nói theo kiểu miền Nam của em.
Đó là nói hơi thiên về chính chị chính em đó nha!
Bây giờ, bàn hơi sâu văn hoá nghệ thuật thời đó nha!
Em nói với anh ngay từ đầu rồi nhé! Lúc đó em chỉ mới 15 tuổi, làm sao đủ tư cách phê bình văn học. Em chỉ kể cho anh nghe theo cái hiểu biết nhỏ bé của em thôi.
Người miền Bắc 54 vô miền Nam đem theo được gì nhỉ?
Người thì chắc cũng không có của cải gì nhiều rồi, đi giống như đi vượt biên mà có gì, sao anh cười, em nói thiệt mà !
Nhưng có một di sản khổng lồ mà người miền Bắc 54 đã đem cho miền Nam.
Đó là văn hoá, nghệ thuật. Nếu xét kỹ, nhà văn thời đó của người Nam Bộ vẫn ít hơn người Trung và Bắc. Những tác phẩm giá trị, từ dịch thuật đến thơ văn, hầu như tác giả người Hà Nội, người Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, v.v… toàn những tác phẩm để đời.
Em xin lỗi, “giải phóng 42” năm rồi, nhưng nếu ai có hỏi em đã đọc được cuốn sách nào để lại ấn tượng mạnh trong em chưa…. Xin chào thua, giận em, em chịu, vì có đọc đâu mà nhớ!
Chả có gì cho em một ấn tượng mạnh, chắc một phần do em dốt anh ạ, nên không hiểu nổi văn học thời này thôi.
Nói đến nghệ thuật cái này thì em thích ca thích hát nên hơi rành một chút. Chắc anh không ít thì nhiều cũng phải có nghe Khánh Ly, hay Sĩ Phú, Duy Trác, Tuấn Ngọc… những người con Hà Nội hát trước 75, nói về văn học có thể anh không biết chứ hát hò anh phải biết sơ thôi.
Vâng, Hà Nội 36 phố phường để lại cho người miền Nam nhiều ca khúc để đời của Phạm Duy, chắc anh không biết bài Việt Nam… Việt Nam, bài tình ca Con Đường Cái Quan, của bác ấy. Em nói nhiều về Pham Duy vì đúng là dân Hà Nội 45 đó anh!
Oh, anh biết nhiều về Phạm Duy, như vậy chắc anh cũng biết rõ những nghệ sĩ nổi tiếng trước 75, đến bây giờ vẫn ăn khách, những người ca sĩ mà anh biết không, cái thời ngăn sông cấm chợ, muốn được nghe phải thức canh đài BBC hay đài VOA, vừa nghe vừa khóc vì quá xúc động. Đó là lý do tại sao ca sĩ hải ngoại khi về nước người ta đi đón rần trời, một cái vé có khi nữa tháng lương người ta vẫn cắn răng để nghe cho bằng được thần tượng của mình hát.
Đó là ca sĩ Hà Nội, còn trong Nam hay ngoài Huế cũng rất nhiều ca sĩ nổi tiếng, kiểu Chế Linh, Nhật Trường, Duy Khánh, v.v…
Em xin lỗi anh nhé, có thể ca sĩ ngày xưa người ta hát không cần phải là học trường lớp thanh nhạc như cái cô Thanh Lam gì ngoài Bắc của anh bây giờ đâu, nhưng vẫn đi vào lòng người nghe mãi không quên, còn cô ấy học cao quá diva diviec gì đó, nói thiệt anh đừng cười em lạc hậu với thời cuộc quá anh ạ, nhờ cái chuyện cổ chửi ca sĩ miền Nam thất học, dư luận ồn ào quá, em mới để ý, chứ thiệt tình bình thường em mà biết cô này .. em chết liền đó anh, chưa từng nghe giọng hát này bao giờ.
Thì đó, nhờ những tác phẩm giá trị của văn học nghệ thuật, những nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ đều có sự đóng góp của Huế, Sài gòn, Hà Nội.. đã đưa ba miền Nam-Trung-Bắc, gần nhau hơn, hoà quyện lại với nhau thành một.
Cám ơn anh chịu khó nghe em phân tích một cách dài dòng xoay quanh câu hỏi của anh.
Vì đây là lần đầu tiên em được nghe một câu hỏi rất thật của một người Bắc vào trong Nam … năm 1975.
Thế cho nên em cũng trả lời rất thật lý do vì sao Bắc 54 lại là dân miền Nam dầu chỉ mới sống với nhau có 21 năm.
Và dân Bắc 75, dầu sống trong Nam đến 42 năm, vẫn mãi mãi là …. người Bắc, chứ không thể nào là người Hà Nội của dân miền Nam xưa.
Với một ít kiến thức nhỏ nhoi, một ít kinh nghiệm sống từng trải qua những thăng trầm của đất nước, em xin các cô bác, anh chị đã, đang và sắp đọc những giòng tự sự này một lời xin lỗi nếu như em có viết sai một ít chi tiết nào đó, các bậc cao nhân, tiền bối làm ơn bỏ qua cho kẻ hậu bối này câu trả lời mơ hồ của em, chắc chưa đủ sức thuyết phục cho anh bạn miền Bắc của chúng ta hiểu rõ hơn… Nhưng sức người có hạn, em nói rồi – tầm hiểu biết của em hạn hẹp bao nhiêu đấy thôi.
Xin chỉ giáo thêm!
Khuyết Danh .
Posted by Thoi Chinh Chien at 2:37 PM

Wednesday, April 24, 2019


Ai hiểu chuyện này không?

dimanche 12 novembre 2017

Ai hiểu chuyện này không?

Chuyện trao đổi thương mại giữa những quốc gia sau khi họp hội nghị Apec có mang lợi gì cho Việt Nam hay không?

Nhất là sự trao đổi này giữa 2 nước láng giềng nhau là Việt Nam và Trung Quốc.

Một trong 12 văn kiện đó có tiết mục số 11 về việc  giám sát các ngân hàng giữa Việt Nam và Trung Quốc, tôi thấy hơi khó hiểu.

11. Bản ghi nhớ về hợp tác và trao đổi thông tin thanh tra, giám sát ngân hàng giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ủy ban Quản lý giám sát ngân hàng Trung Quốc.

Không biết anh chị nào có thể làm sáng tỏ hơn chuyện này cho mọi người cùng hiểu hay không.

Kính mời quý anh chị theo dỏi bản tin dưới đây.

Caroline Thanh Hương


Việt - Trung ký 12 văn kiện trong chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình
Hai nước đạt được hàng loạt thỏa thuận quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội...

Sau cuộc hội đàm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chứng kiến lễ ký 12 văn kiện hợp tác giữa hai bên - Ảnh: Quang Phúc.

Bảo Quyên
12/11/2017 20:14
Chiều 12/11, sau lễ đón chính thức, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Tại cuộc hội đàm, hai tổng bí thư bày tỏ vui mừng trước những tiến triển tích cực của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung thời gian qua.
Tiếp xúc cấp cao diễn ra thường xuyên; giao lưu, hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương và nhân dân hai nước được đẩy mạnh; hai bên tiếp tục là đối tác kinh tế quan trọng của nhau, hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch đều có tiến triển; tình hình biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ cơ bản ổn định.
Hai bên nhất trí phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua, tích cực giải quyết những khó khăn, vướng mắc, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung không ngừng phát triển ổn định, bền vững.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam coi trọng và chân thành mong muốn thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển ổn định, ngày càng đi vào chiều sâu; ủng hộ Trung Quốc phát triển lớn mạnh, phát huy vai trò tích cực và đóng góp thiết thực cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và thế giới.
Xử lý tốt vấn đề trên biển
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh một số trọng tâm tăng cường hữu nghị và hợp tác giữa hai đảng, hai nước.

Thứ nhất, tăng cường trao đổi cấp cao, đẩy mạnh giao lưu, hợp tác giữa các ngành, các cấp. Đề nghị hai bên duy trì thường xuyên truyền thống tốt đẹp giao lưu, tiếp xúc cấp cao; đẩy mạnh giao lưu, nâng cao hiệu quả hợp tác.
Đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật; thực hiện tốt Tuyên bố tầm nhìn hợp tác quốc phòng đến năm 2025, tổ chức tốt Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, đối thoại chiến lược quốc phòng, các cơ chế giao lưu hợp tác giữa bộ đội biên phòng, hải quân, cảnh sát biển.

Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế và trên các lĩnh vực khác, đề nghị hai bên tiếp tục phát huy kết quả đạt được, triển khai hiệu quả các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao, tập trung vào một số trọng tâm như tăng cường hợp tác đầu tư, mở rộng quy mô thương mại song phương, áp dụng các biện pháp hữu hiệu cải thiện hơn nữa tình trạng nhập siêu của Việt Nam; tăng cường hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực Trung Quốc có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu như nông nghiệp, môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, khoa học công nghệ, giao thông vận tải…

Thứ ba, duy trì hòa bình, ổn định, xử lý tốt vấn đề trên biển. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, việc bảo đảm hòa bình, ổn định bền vững, giảm thiểu các nguy cơ bất ổn, xây dựng lòng tin đối với vấn đề biển Đông giữa các nước liên quan là rất cần thiết, có lợi cho các bên, cho khu vực và thế giới.
Các bên liên quan cần kiềm chế, không có hành động làm phức tạp tình hình hoặc mở rộng tranh chấp, tôn trọng các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhau, tập trung nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên biển để ưu tiên nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, hai bên cần thực hiện đầy đủ và hiệu quả Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc, Tuyên bố ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC); sớm tiến hành đàm phán thực chất để xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) hiệu lực và hiệu quả.
Tích cực xem xét thúc đẩy các hình thức hợp tác phù hợp tại một số khu vực thực sự có chồng lấn phù hợp với luật pháp quốc tế; tập trung thực hiện lộ trình đã thống nhất, phát huy kinh nghiệm về phân định biển và hợp tác trong vịnh Bắc Bộ để cố gắng đạt tiến triển đối với việc phân định và hợp tác tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ.
Đồng thời, nghiên cứu khả năng và các phương án hợp tác giữa các bên liên quan, giữa ASEAN và Trung Quốc trên một số lĩnh vực có lợi ích chung và ít nhạy cảm, như quản lý đánh bắt cá và bảo vệ môi trường sinh thái trên biển, nhằm củng cố lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định bền vững, lâu dài trên biển Đông vì lợi ích chung của tất cả các bên.
Duy trì tiếp xúc cấp cao thường xuyên
Tại cuộc hội đàm, Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận khẳng định: Đảng, Chính phủ Trung Quốc coi trọng việc không ngừng củng cố và phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung - Việt theo phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt".
Ông cho rằng, hai bên cần nhìn nhận quan hệ Trung - Việt từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn lâu dài, thúc đẩy quan hệ Trung - Việt phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp cho hòa bình, phát triển và phồn vinh của khu vực.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đề nghị hai bên duy trì tiếp xúc cấp cao thường xuyên, tăng cường trao đổi chiến lược và tin cậy chính trị; tăng cường giao lưu hợp tác về ngoại giao, an ninh, quốc phòng; phát huy hiệu quả các cơ chế hợp tác về thương mại, cơ sở hạ tầng, tài chính tiền tệ và kết nối chiến lược phát triển giữa sáng kiến "Vành đai và Con đường" với "Hai hành lang, một vành đai kinh tế", thúc đẩy hợp tác kinh tế-thương mại phát triển cân bằng, bền vững, đạt mục tiêu 100 tỷ USD trong năm 2017.
Chủ tịch Tập Cận Bình cho biết, Trung Quốc sẽ tiếp tục cung cấp khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 600 triệu Nhân dân tệ trong ba năm để cải thiện an sinh xã hội các tỉnh phía Bắc Việt Nam; nỗ lực kiểm soát tốt bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở biển Đông; khẳng định Trung Quốc mong muốn cùng ASEAN thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), đàm phán, xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC).
Ông cũng đề nghị hai bên tăng cường phối hợp tại các cơ chế đa phương như Liên hiệp quốc, APEC, Trung Quốc - ASEAN, Lan Thương - Mê Kông, góp phần duy trì hòa bình, thịnh vượng và phát triển của khu vực và thế giới.


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình duyệt đội danh dự trong lễ đón - Ảnh: VGP.


Cuộc hội đàm giữa hai phái đoàn cấp cao Việt - Trung tại Hà Nội chiều 13/11 - Ảnh: Quang Phúc.


Chủ tịch Trung Quốc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong lễ khánh thành Cung Hữu nghị Việt - Trung. Dự kiến, sáng mai 13/11, ông Tập sẽ tới đặt vòng hoa và viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó cùng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới thăm khu nhà sàn Bác Hồ - Ảnh: Quang Phúc.

12 văn kiện được ký kết
Sau cuộc hội đàm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chứng kiến lễ ký 12 văn kiện hợp tác giữa hai bên.

1. Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với sáng kiến "Vành đai và Con đường".

2. Bản ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc.

3. Bản ghi nhớ về việc thành lập nhóm công tác, hợp tác thương mại điện tử giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc.

4. Công thư trao đổi giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc nghiên cứu tính khả thi trước khi lập dự án về dự án viện trợ xây mới cơ sở 2 y dược học cổ truyền Việt Nam.

5. Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển nguồn nhân lực giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc.

6. Bản ghi nhớ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc về việc xác định danh mục các dự án hợp tác trọng điểm của quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017-2021.

7. Biên bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách Nhà nước Trung Quốc về việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực điện lực và năng lượng tái tạo.

8. Bản ghi nhớ về danh mục dự án hợp tác năng lực sản xuất năm 2017 giữa Bộ Công Thương nước Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách Nhà nước Trung Quốc.

9. Bản ghi nhớ về hợp tác công nghiệp văn hóa giữa Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam và Bộ Văn hóa Trung Quốc.

10. Kế hoạch hành động về hợp tác y tế giữa Bộ Y tế Việt Nam và Ủy ban Quốc gia về Y tế và Kế hoạch hóa gia đình Trung Quốc giai đoạn 2017-2020.

11. Bản ghi nhớ về hợp tác và trao đổi thông tin thanh tra, giám sát ngân hàng giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ủy ban Quản lý giám sát ngân hàng Trung Quốc.

12. Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc.
Ngoài ra, hai nước cũng tiến hành trao một số văn bản:
-  Thỏa thuận về hợp tác đào tạo cán bộ giữa tỉnh ủy Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang và Khu ủy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.
- Thỏa thuận hợp tác về trao đổi khoa học giữa Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Trung Quốc.
- Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực quản lý pháp quy an toàn hạt nhân giữa Cục An toàn bức xạ hạt nhân Việt Nam và Cục An toàn hạt nhân Quốc gia Trung Quốc.
- Thỏa thuận khung hợp tác giữa Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Việt Nam và Cục Sự nghiệp Xuất bản Phát hành Ngoại văn Trung Quốc giai đoạn 2017-2022.
- Thỏa thuận giao lưu và hợp tác báo chí giữa Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà báo toàn quốc Trung Quốc.
- Văn bản chấp thuận nguyên tắc việc thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc chi nhánh Hà Nội.
- Thỏa thuận đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất lốp xe.
Tối 12/11, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã chủ trì chiêu đãi trọng thể chào mừng Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Trung Quốc đang thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam.


Le Vietnam et la Chine concluent 19 accords de coopération
13/11/2017 00:42
Le secrétaire général du Comité central (CC) du Parti communiste vietnamien (PCV), Nguyên Phu Trong, et le secrétaire général du CC du Parti communiste chinois (PCC) et président chinois, Xi Jinping, en visite d’État au Vietnam, ont assisté dimanche après-midi 12 novembre à Hanoi à la signature de 12 accords de coopération et à l'échange de sept autres documents.
>>Vietnam - Chine : vers une coopération accrue dans la culture
>>Visite du dirigeant chinois Xi Jinping : promouvoir les relations Vietnam - Chine
>>La visite du président Xi Jinping approfondira les liens Vietnam - Chine



Signature du protocole d'entente entre les gouvernements vietnamien et chinois sur la promotion de la connexion entre le plan «Deux Corridors, une Ceinture» et l'initiative «Ceinture et route».
Photo : Tri Dung/VNA/CVN

Les 12 accords de coopération comprennent :

Un protocole d'entente entre les gouvernements vietnamien et chinois sur la promotion de la connexion entre le plan «Deux corridors, une ceinture» et l'initiative «Ceinture et route».

Un protocole d'entente entre le ministère vietnamien de l'Industrie et du Commerce et le ministère chinois du Commerce sur l'accélération des négociations en vue d'un accord-cadre sur la construction de zones de coopération commerciale transfrontalière.

Un protocole d'entente entre le ministère vietnamien de l'Industrie et du Commerce et le ministère chinois du Commerce sur la création d'un groupe de travail pour la coopération dans le commerce électronique.

Un document entre les gouvernements vietnamien et chinois sur l'étude de faisabilité d'un projet d'aide au développement pour la construction de deux nouveaux établissements de médicine traditionnelle au Vietnam.

Un protocole d'entente entre le ministère vietnamien du Plan et de l'Investissement et le ministère chinois du Commerce sur le développement des ressources humaines.



Signature du protocole d'entente entre le ministère vietnamien du Plan et de l'Investissement et le ministère chinois du Commerce sur le développement des ressources humaines.
Photo : Tri Dung/VNA/CVN

Un protocole d'entente entre le ministère vietnamien du Plan et de l'Investissement et le ministère chinois du Commerce sur l’élaboration d'une liste de projets de coopération clés dans la planification quinquennale de développement du commerce Vietnam-Chine pour 2017-2021.

Un protocole d'entente entre le ministère vietnamien de l'Industrie et du Commerce et le Comité national pour le développement et la réforme de la Chine sur le renforcement de la coopération dans le domaine de l'électricité et des énergies renouvelables.

Un protocole d'entente entre le ministère vietnamien de la Culture, des Sports et du Tourisme et le ministère chinois de la Culture sur l'industrie culturelle.

Un plan d'action entre le ministère vietnamien de la Santé et le Comité national de la santé et du planning familial de la Chine sur la coopération sanitaire pour 2017-2020.

Un protocole d'entente entre la Banque d'État du Vietnam et le Comité de régularisation bancaire de la Chine sur la coopération et l'échange d'informations en matière d'inspection bancaire.



Signature du plan d'action entre le ministère vietnamien de la Santé et le Comité national de la santé et du planning familial de la Chine sur la coopération sanitaire pour 2017-2020.
Photo : Tri Dung/VNA/CVN

Un accord de coopération entre le ministère vietnamien de la Défense et son homologue chinois sur les patrouilles frontalières.

Pendant ce temps, les sept documents échangés portent sur la formation du personnel entre les comités du Parti des provinces de Quang Ninh, Lang Son, Cao Bang, Hà Giang (Vietnam) et le comité du Parti de la Région autonome Zhuang du Guangxi (Chine); la coopération dans les échanges scientifiques entre l'Académie des sciences sociales du Vietnam et l'Académie des sciences sociales de la Chine; la coopération dans les règlements juridiques pour la gestion de la sûreté nucléaire entre l'Agence vietnamienne pour la radioprotection et la sûreté nucléaire et l'Administration nationale chinoise de la sûreté nucléaire; la coopération pour 2017 - 2022 entre la Maison d'édition politique nationale du Vietnam et l'Administration chinoise de la publication et de la distribution en langues étrangères; l’échange et la coopération journalistique entre l’Association des journalistes du Vietnam et l’Association des journalistes de Chine; l’approbation de principe pour créer une filiale de la Banque agricole de la Chine à Hanoi; et l’investissement dans la construction d'une usine de fabrication de pneus.
VNA/CVN

Publié par Cat Bui à dimanche, novembre 12, 2017