“Níu Một Đời, Giữ Một Thời”
http://vietmania.blogspot.com/2022/01/niu-mot-oi-giu-mot-thoi-viet-nam-sau.html
THURSDAY, JANUARY 6, 2022
“Níu Một Đời, Giữ Một Thời”
Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam –
Bắc.
Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc
vì bom rơi, đạn nổ. Người Việt Nam cảm thấy hạnh phúc khi đất nước không còn chiến tranh, không còn người chết.
Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau
đó là một thảm cảnh kinh hoàng. Sau tháng 4
năm 1975, phần lớn người Miền Nam làm việc cho chính phủ Cộng Hòa đều bị tập trung cải tạo. Cuộc sống của nhiều gia
đình đảo lộn. Vì sau khi đổi đời, họ bị thất nghiệp, nhiều người lâm vào cùng quẫn. Cảnh quan thành phố tiêu điều xơ xác, thiếu lúa gạo khiến dân phải ăn độn bo bo và mì sợi. Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ
xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thu tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam
hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng cho đốt sách và chôn sống nhiều học giả, nhằm dập tắt những ý kiến traí chiều và áp đặt tư tưởng mới của ông trên toàn lãnh thổ Trung Quốc sau khi thống nhất.
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía
trị với nhiều thể loại
“trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới.
Thế nhưng, ở một nơi xa kia, có một ông già gầy gò, ốm yếu, tóc bạc hàng ngày đến thư viện các trường đại học ở Mỹ để photo các tài liệu về văn chương Miền Nam Việt Nam, hàng ngày ông “ngồi khâu lại di sản”, vá lại một nền văn học đã bị đốt cháy trên chính quê hương mình, tự mình thành lập tủ sách di sản văn chương Miền Nam nhằm lưu giữ, chia xẻ lại cho đời sau, đó là nhà văn Trần Hoài Thư.
(Nhà
văn Trần Hoài
Thư lúc còn trẻ)
“Trần Hoài Thư tên thật Trần Quí Sách,
sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Tuổi thơ thất lạc cha, theo mẹ sống khổ cực ở thành phố Nha Trang, có một thời gian sống trong cô nhi viện Hòn Chồng Bethlehem. Sau đoàn tụ với thân phụ mới theo học Quốc Học Huế, đại học Sài Gòn. Từ năm 1964-1966 là giáo sư trường trung học Trần Cao Vân tỉnh Quảng Tín (nay đã sát nhập lại vào Quảng Nam).
Năm 1967, nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Đức. Phục vụ tại đại đội
405 Thám kích sư đoàn 22 bộ binh trong 4 năm. Sau đó về làm phóng viên chiến trường ở vùng IV
trong 2 năm. Ông đã từng bị thương 3 lần.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, đi
học tập cải tạo hơn 4
năm.
Năm 1980 Trần Hoài Thư vượt biển, định cư tại Mỹ, sống
ở nhiều nơi khác nhau và cuối cùng về sống ở tiểu bang New
Jersey. Khi sang đến Mỹ, ông đi học trở lại, tốt nghiệp Cử Nhân Điện Toán và Cao Học Toán Ứng Dung. Ông được nhận vào làm cho công ty AT&T và sau đó
chuyển sang làm cho công ty điện toán IBM. Chức vụ cuối cùng trước khi nghỉ hưu là Project Leader.
Khởi sự viết văn từ năm 1964. Truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng
trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Ngoài Bách Khoa, còn
cộng tác với Văn, Văn Học, Đời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành, Ý Thức…
Sau khi nghỉ hưu vào năm 2004, ông
cùng Phạm Văn Nhàn sáng lập tạp chí Thư Quán Bản Thảo và nhà xuất bản Thư Ấn Quán. Cho đến nay, phần lớn các tạp chí văn học dạng báo giấy ở Mỹ đã đóng cửa nhưng Thư Quán Bản Thảo vẫn tồn tại và đã phát hành đến số 75. (3)
Mùa hạ năm 2010, tôi tình cờ đọc bài viết của nhà thơ Du Tử Lê giới thiệu về tác phẩm “Những cơn mưa mùa Đông” của tác giả Lữ Quỳnh do nxb Thư Ấn Quán ở Mỹ xuất bản, thời gian này tôi đang tìm hiểu dòng văn chương Miền Nam nên liên lac, ngay lập tức nhà văn Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh trả lời, tôi biết họ từ ngày ấy.
Bắt đầu từ đó, tôi tìm đọc dòng văn chương
Miền Nam Việt Nam do
nxb Thư Ấn Quán phát hành, vì ngày xưa trước năm 1975 tôi còn quá nhỏ chưa hiểu biết gì, tôi sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn, thuộc Miền Nam Việt Nam vì vậy tôi không muốn văn chương Miền Nam bị thất lạc và bôi xoá,
tôi cần phải tìm hiểu và phổ biến lại cho thế hệ trẻ ở trong nước biết.
Thật may mắn, mùa thu năm 2011 nhà
thơ Vũ Trọng Quang từ Sài Gòn photo cho tôi trọn bộ “Văn Miền Nam” (4 tập) và 2 tập “Thơ Miền Nam thời chiến”
do Thư Ấn Quán phát hành năm 2009.
Cuốn sách mới nhất tôi được Trần Hoài Thư tặng là cuốn “Những tạp chí Văn học Miền Nam” do ông sưu tầm và nhận định in năm 2018, ông đã sưu tầm được 15 tạp chí đã từng xuất bản ở Miền Nam Việt
Nam gồm các tạp chí: Ý thức, Bách khoa, Văn, Sáng tạo, Khởi hành, Vấn đề, Trình bày, Thời tập, Hiện đại, Văn nghệ,
Nghệ thuật, Mai, Văn học, Văn hóa nguyệt san, Tình thương.
Nhờ ông, tôi có được một cái nhìn
khái quát về diện mạo nền văn chương Miền Nam Việt Nam mà hiện nay ở trong nước đã không còn nữa.
Nếu không đọc 4 tập bộ “Văn Miền Nam” làm sao tôi biết tên tuổi và sáng tác
của 159 nhà văn Miền Nam, trong đó có 13 nhà văn nữ, với những trang sách giá trị đầy tính nhân văn.
Đây là một bộ sách hiếm, công
trình sưu tập này
là một kỳ công
của nhà văn Trần Hoài
Thư và những người bạn ông,
nó hoàn toàn được làm
bằng phương
pháp thủ công, ông một mình
layout, trình bày bìa, in ấn, một nhà
in chỉ có một nhân viên vừa là
chủ vừa
là thợ, cần mẫn hàng ngày, hàng đêm đánh máy lại những tác phẩm văn chương nhằm khôi phục lại diện mạo Văn học Miền Nam.
Trong lời đề từ bộ sách, tác giả Trần Hoài Thư đã thổ lộ ông “mạn phép đăng lại để độc gỉa hôm nay và mai sau có thể đọc lại những
sáng tác này và cũng để chứng tỏ rằng
văn chương Miền Nam, dù
có bị bôi
nhọ, trù
dập hay hủy diệt, nhưng cuối cùng, nó vẫn không chết. Nó vẫn có
mặt ở hải ngoại, mà bộ sách
này là một bằng chứng”.
Ngoài ra Trần Hoài Thư còn
chủ trương tạp chí văn học nghệ thuật “Thư quán bản thảo” ra không định kỳ ở Hoa Kỳ, bắt đầu từ năm 2001 đến nay đã 20 năm.
Nếu không có ông, làm sao tôi biết 462 tác giả trong 2 tập “Thơ Miền Nam trong thời chiến”, mà phần nhiều là những người lính cầm bút đã chết, đó là “những trang thơ
được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương, khởi điểm bằng lệnh tổng động viên và chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có
dịp tiếp cận với nền văn chương Miền Nam trong thời chiến
tranh để họ có cái
nhìn rỏ và
đúng đắn hơn về một dòng văn chương tình tự, tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản”
Nhà phê bình Đặng Tiến từng nhận định:
“… Đã là thơ thời chiến thì phải nói đến chiến tranh. Vậy thơ ấy nói gì về khói lửa? Xin lấy bài Phan Xuân Sinh làm ngày Tết 1972 “Uống rượu với người lính Bắc Phương” làm tiêu biểu:
Hãy
rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó
đi cho khỏi bận tâm
(…)
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù
chẳng có
một lằn ranh
(tr 617) tập 1
Trong bài “Kỷ vật cho em” của nhà thơ Linh Phương được Phạm Duy phổ nhạc, đã kể trong bài Hành Quân:
Dăm
thằng đánh
trận. Dăm thằng chết
Chỉ sót
mình ta cứ sống nhăn
Đù
má, nhiều khi buồn hết biết
Lo mãi
sau này cụt mất chân.
Chiều qua sém chết vì viên đạn
Du kích
bên sông bắn tỉa hù
Cũng
may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô.
Nhớ hôm bắt được em Việt cộng
Xinh đẹp như con gái Sài Gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh
thả mỹ nhân.
(!)
https://www.youtube.com/watch?v=CrYaN2cFszQ
(tr 305)
… Dĩ nhiên những thái độ buông thả nói trên không tiêu biểu cho cuộc chiến ác liệt, hay tinh thần chiến đấu, hay kỹ thuật và kỷ luật quân sự của quân lực VNCH. Nhưng nó là sắc thái đặc biệt của một tâm lý. (NHÂN BẢN). Tâm lý ấy là nhược điểm trên bản đồ quân sự, mà là ưu điểm trên trang thơ,
bằng cớ là hơn một ngàn năm nay, người ta ngợi ca, ngâm nga mãi
câu “túy ngoại sa trường quân mạc tiếu” của Vương Hàn; say sưa như vậy nhất định ông không phải là một quân nhân thiện chiến.
Lẽ thường trong chiến tranh là thắng hay bại. Điều lạ trong tập
thơ này là không có chiến thắng, dù trong mơ ước hay ngông nghênh (…)
Khát vọng thiết thân thời đó là hòa bình, như lời người mẹ trong bài “Đêm giáng
sinh ở Việt Nam” của Hồ Minh Dũng:
Dù
chỉ một ngày
ngưng bắn đó
con
Cũng
đem chiếc áo
lành ra mặt
Cũng ăn một bữa cơm cho no
Cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu
Khổ đau lúc
này mẹ gói
trong mo
Nguyễn Dương Quang trong bài “Đêm cuối năm viết cho má”:
Hình
như cây súng con lạ lắm
Sao nó
run lên khi đạn lên
nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?
Trước mặt con: những
ngọn đồi cát
máu
Đêm
thì thầm cùng
những nấm xương
Ôi,
trái tim con mãi tôn thờ má
Đã dạy con hai tiếng
yêu thương
Từ má lỏng bàn
tay dìu dắt
Con bơ vơ giữa cuộc phù sinh
Dòng
nước nào
xa nguồn mà
không đục
Sợ một mai con lạc dấu chân mình
Nhà thơ Nguyễn Dương Quang
- Photo by Nguyễn Hữu
(tr 428)
Đã đành, đành vậy, “Thơ Miền Nam trong thời chiến”, trong tất cả
bề thế của nó, nếu muốn, có thể thu lại trong bốn chữ: “Thơ
lính học trò”, với tất cả nội hàm sâu lắng của mỗi chữ. Thơ lính học trò? Là cậu học sinh, từ sân trường bước ngay vào quân trường, chiến trường, nhiều khi chưa kịp kinh qua cuộc sống xã hội.
Họ làm thơ, gọi là “làm văn
nghệ” trên báo nhà trường, báo địa phương. Làm thơ như
một tâm thế, một lối ứng xử với đời. Không phải thành danh hay đi vào lịch sử văn học… rồi đời bắt kẻ làm thơ đi
làm lính, học bước chân vào chiến cuộc, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo/ xem chiến cuộc như tai trời ách nước (Nguyễn Bắc Sơn). Và không biết bao nhiêu người đã gục ngã giữa tuổi xuân xanh, khi vừa mới bước vào chiến trường.
Bắt đầu nền thơ này là chuyện văn nghệ, trao đổi, thù tạc giữa bạn bè, nhưng sau cùng trở thành huyết mạch của một thế hệ, mà Trần Hoài Thư gọi là “tội tình”. Vì đã bị lịch sử làm tình làm tội. Có thế mới hiểu vì sao, khi đánh máy lại những bài thơ cũ, ba, bốn mươi năm sau, anh còn thấy “như gõ vào chính tim mình những niềm đau
buốt”. Và người đọc ngày nay, nhất định đâu đây còn có người thấu hiểu và chia xẻ niềm đau buốt ấy. Làm sao cho sưu tập này, và tấm lòng kia đến tay người nọ?”
Vì vậy “Thơ Miền nam trong thời chiến” không chỉ là nguồn tư liệu – một nghĩa trang – văn học. Nó là cuộc sống đang thao thức và thao thiết… và cho đời sống nữa chứ. Chẳng riêng gì đời sống của những chúng ta” (4)
Hôm nay là ngày đầu tháng 1 năm
2022, đã bước sang năm mới, ngoài kia, mùa đông vẫn chưa qua, cái giá lạnh của miền New Jersey Hoa Kỳ vẫn không làm
chùn bước nhà văn Trần Hoài Thư.
Hàng đêm, người ta vẫn nhìn thấy một ông già gầy gò, cận thị với mái tóc bạc, vừa chăm sóc người vợ bị đột quỵ, vừa cần mẫn bên trang
sách để lưu giữ nền văn chương
Miền Nam cho hậu thế với một tâm hồn trong sáng vô vị lợi trong một xã hội thực dụng như ngày nay là một việc làm đáng kính, đáng trân trọng.
Ông xứng đáng với cách gọi trìu mến của người đương thời, người “khâu
di sản văn chương Miền Nam”.
Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường
Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi
tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung
học phổ thông, có một giáo viên đã
đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:
“Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân
quần ấm tối nay
Chút
rượu hồng đây
xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”.
Tô Thùy Yên (1938 - 2019)
là một nhà
thơ nổi tiếng người Việt Nam.[1][2] Ông là tác giả bài thơ "Chiều trên phá Tam Giang"[3] mà một phần của đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc.
Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.
Tôi tin rằng, sẽ không còn bao
lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát
triển văn học Việt Nam
hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam.
BAN MAI
Quy Nhơn, 01.01.2022
(1) “Níu một đời”, “giữ một thời” cách nói của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng
(2) Tủ sách DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM của
nhà xuất bản Thư Ấn Quán đã sưu tầm và in lại hàng trăm tác phẩm giá trị, đáng kể nhất là bộ THƠ MIỀN NAM gồm 5 tập với tổng cộng khoảng 3500 trang và bộ VĂN MIỀN NAM 4 tập với tổng cộng khoảng 2400 trang.
(3) Tiểu sử Trần Hoài Thư theo blog Phạm Cao Hoàng, đã được tác giả kiểm chứng.
(4) Trích phần giới thiệu “Thơ Miền Nam trong thời chiến” của
nhà phê bình Đặng Tiến.
Nguồn: Hợp Lưu (@www.hopluu.net · Magazine)
(tác giả Ban Mai)
(Nhà văn Ban Mai, tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thúy, giảng viên về Khoa Học Công Nghệ và Hợp Tác Quốc Tê tại Đại Học Qui Nhơn)
Posted by Angesat 11:56 PM
No comments:
Post a Comment