Lá số tử vi
Lá số tử vi
Posted on August 23, 2017 by dongsongcu
Phạm Thành Châu
Bạn tin có số mạng không? Người tin thì bảo
“Giày
dép còn có số, huống gì con người.”
Người không tin, quạt lại
“Mấy thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy
không? Hay chỉ nói phét kiếm tiền?”
Người tin với người không tin,
cãi nhau, có bao giờ ai chịu thua ai!
Nay tôi xin kể, một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét, rằng
con người có số phận hay không?
Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một
tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu,
ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà con chòm xóm trong các
vụ quan hôn tang tế. Ai bịnh hoạn đến mời ông tôi bắt mạch, hốt thuốc, người
nào có ý xây dựng gia đình cho con cháu cũng đến nhờ ông tôi xem tuổi có hạp
không, hậu vận có khá không? Hoặc có người thân vừa qua đời cũng đến thỉnh ý về
ngày giờ động quan, xem hướng mồ mả. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông
tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao?
Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ
người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng
minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số
của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi.
Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu
trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn
gì được nấy.
Thời Pháp thuộc, bố tôi làm “Jeunesse,” là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh
niên, thể thao của thị xã. Ðến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng
chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản
cư về vùng nông thôn, ít lâu sau hồi cư về lại thành phố.
Ðó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học,
tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không
có trường trung học đệ nhị cấp.
Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng
hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi
giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm
tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại
bàn cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục
trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn
bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của
tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin
ở số mạng nên chẳng bận tâm.
Ðến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri
thiên mệnh, nhưng ông tôi vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm,
ông gọi riêng tôi và bảo
“Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy,
con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay
thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào
đó trong lá số?!”
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi “Không thủ
tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.” Ông tôi cười
“Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo
nài, thêm bớt được.”
Tôi hỏi “Như vậy tương lai của con ra
sao?”
Ông tôi trầm ngâm “Cái số của con thì luôn luôn được may mắn, đi thi là phải
đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời
Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy.Nhưng
lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân
có dạy “Ðức năng thắng số” sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo
của người quântử…”
Tôi tò mò “Con thấy, chỉ cần học giỏi là
làm lớn. Phải không ông?”
Ông tôi lại cười “Người xưa nói rằng ‘Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc
thư’… Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất
nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, chứ còn chuyện học hành, cố
cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi.
Xưa nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.”
Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không tin,
nhưng tôi vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo
“Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?”
Ông tôi có vẻ hào hứng lắm “Về mục âm
công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt.
Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến
đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết
phát…
” Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn
thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển.
Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào
long chầu, hổ phục ra sao, đặc biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ
bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi
như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng.
Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng
có bao nhiêu.
Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do
ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại bà rất
thương yêu, chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất
thì tôi như ngựa không cương, mặc sức lêu lổng, chẳng ai quản lý được cả. Ði học
về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối,
ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò, rên rỉ, nỉ non mấy
bài hát mà Duy Khánh, Chế Linh thường hát.
Ðến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm “hành trang ứng thí.” Sách vở, từ đầu niên học
cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh! Con người khi gặp khó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình,
năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng
sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông
tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa.
Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè…” trong thơ
ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi
và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất
thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ… Thực tâm, tôi cũng muốn học
như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là tôi đem tất cả sách vở,
tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì xuống, long trọng khấn
vái
“Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con
không có thì giờ học hết.”
Khi ngẩng lên, nhìn ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười,
vậy là tôi yên tâm.
Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở
ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học
nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè
thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều
đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!?
Chúng thắc mắc, tôi phét lác “Sang năm,
tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.”
Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của
ông tôi đã chấm cho tôi – thi đâu đậu đó – và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên
tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông. Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu
thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp,
môn vạn vật, tôi bị kẹt.
Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ,
thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe
nói khó tính lắm. Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói “Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm.”
Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Ðứa nào thi xong, bước ra,
mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm
kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt
chín nhì bù. Ðến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám
khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám.
Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học
sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi.
Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy “Tại sao
ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây?”
Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo “Nói
đi!”
Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ đừng nói
trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có một chút ý niệm về
chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi
đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương!
Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại nhắc “Nói
đi!”
Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng,
chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi.
Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói “Thưa
thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tang cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu!”
Ông ta ngẩng lên nhìn tôi “Sao anh biết?”
Tôi phấn khởi “Thưa thầy, buổi tối, em
thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy hơi mệt mõi
trong người.”
Ông ta lại nhìn tôi, mặt lạnh tanh
“Ðây
là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng
công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không? Anh biết cạt bô níc là gì
không? Viết công thức ra xem?”
Tôi gãi đầu, ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được
nữa, nhưng công thức viết thế nào?
Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo
mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp phải người ngoài hành tinh,
gì cũng không biết!
Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên, đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông
nhìn vào thẻ học sinh và hỏi “Anh học vạn vật
với thầy nào?”
“Thưa thầy, em học
với thầy Ðồng Ðen.”
Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò
dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với
ông giám khảo của mình, đúng là tội phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học
sinh và bảo
“Gặp thầy Ðồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời
thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay.Gần hết
giờ rồi!”
Tôi thưa “Thưa thầy, em là người chót.”
Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt
lùi ra khỏi phòng.
Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời
đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông
Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ
năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông
ta hiền từ như ông Phật!
Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng như
mình nằm mơ.
Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Ðúng như ông tôi nói “Thi đâu đậu đó!”
Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào
Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh
viên ban Ðốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (?!), phải
thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải
biết luật Hiến Pháp.
Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác.
Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở.
Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm
đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài luật
Hiến Pháp của giáo sư Nguyễn Văn Bông.
Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến
từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có
hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Ðốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn
nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không?
Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một
trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười
sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi
tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của
mình được?
Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng
chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho
cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như
tôi.
Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận
đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng rậm, thỉnh
thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn… Vì tin tưởng ở lá số tử vi của
mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như
trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp
đỡ đồng bào trong quận. Nói “ông quan thanh
liêm” cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ
chúng tôi đều có lý tưởng, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi
người rồi.
Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái
dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt.
Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng
nghĩ đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang
đời tư của tôi ra mà bêu riếu.
Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới
ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi,
thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?! Rồi thì tôi được lệnh đi học
lớp sĩ quan Thủ Ðức.
Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người “văn võ toàn tài,” sẽ không mặc cảm khi (làm
lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh.
Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng
ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán
bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển
động và con đường công danh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang
đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế
trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới
Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của việt cộng.
Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem
một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học
tập, chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Ðến chiều
hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ
sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập, cải tạo là các trường học Gia
Long, Trưng Vương, Don Bosco (?)…
Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ đội dựng
đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát khí đằng đằng, súng
lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với. Xe tụi tôi được đưa lên
làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV.
Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ
biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có
sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba
trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù.
Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự
khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội
ác gì với cách mạng và nhân dân… Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng
là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ
trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về
làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt.
Buổi tối thì học hát, những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy…
Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ, Ngụy nào đâu chứ không phải
mình! Hát bài “Chiếc Gậy Trường Sơn,” bài “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”
cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm thù, cũng tình cảm lai láng như mình
là bộ đội, cán bộ việt cộng vừa chiếm được miền Nam và đang làm thịt quân dân
cán chính miền Nam để trả thù… Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ
cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có
cán bộ rình.
Ðúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài “Giải phóng miền Nam,” đến câu
“Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng…” thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A,
thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào “Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc
không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy, tôi cùm đầu!”
Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng
tù khôngbiết ngày nào ra? Khổ nỗi, cán bộ cộng sản lại bảo “Ty Công Vụ” là công
an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết.
Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời
thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã đóng một tháng tiền
ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn tin, cậu nào có lận theo tiền
thì mua cà phê, kẹo bánh…
Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi
như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm
gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp!? Ngây thơ đến thế là
cùng! Riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng. Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi,
trước giờ rất đúng, nay bỗng nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy?
Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có
học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rãi, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân
một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái
lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng
đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không? Sau khi xác nhận là đúng y trăm phần
trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẽ ngang, vẽ dọc…
Rồi ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn tới bàn
lui, cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch,
hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng
lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa.
Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc
lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang “Cậu biết hiện nay cậu
làm chức vụ gì trong trại nầy?” Tôi bảo “Tôi
làm đội trưởng.” “Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không?”
Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi… Ông A, ông B, ông C… Ông ta lại hỏi
“Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?” “Thì
ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha…”
Ông bạn tù giải thích “Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Ðây cậu
quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu
làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!?”
Tôi nổi xùng “Các ông đó đâu còn làm quan
chức gì?”
“Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt
chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp
mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?” Cả bọn cười vang,
nhưng tôi không cười.
Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một cú đau
điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu
phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến khi bị đày ra Bắc tôi
mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi
bắt đầu ăn “cơm” tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo cộng sản.
Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố,
nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại bảo để có sẵn mà
cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, hoặc khi đày
lên núi rừng, nếu có biến động, cứ bắt tù ngồi vào bao bố và bắn chết và khiêng
bỏ xuống hố, tiện việc nhà nước, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu mà phải
dùng bao bố?
Chúng tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng chờ sẵn
mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp đồng
bào họ lại bảo
“Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ
các ông ra làm thằng tù!”
Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng
cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán
bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm cũng
nên, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong
các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp… đủ cả.
Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa
xe đạp… sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh
giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào
cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những
chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra mục đích lừa phỉnh, dọa nạt những người
ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.
Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng
tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí. Thị
trấn tôi ở, thuộc vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Ðủ
thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo.
Tôi ở trong một chúng cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội. Trộm
cắp, hút xách, đánh lộn… ngày nào cũng xảy ra. Ðậu xe, khóa cẩn thận, nhưng
chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Ðôi khi chúng ăn cắp
xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc…
Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên,
cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm
gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì
người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt.
Thấy thế tôi nổi xùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng
đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất
cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Kết quả là từ đó,
chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các chúng cư quanh đấy, người Việt cũng
theo gương mà đoàn kết lại.
Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ Tết, tổ
chức các ngày kỷ niệm truyền thống… Sau cùng thành lập một cộng đồng lớn, bầu cử
Hội Ðồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách
liên lạc với chính quyền địa phương.
Ðến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả.
Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước “ảo” như đội trưởng, tổ trưởng trong
tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi tham gia Hội Ðồng Quản
Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi cự nự như muốn gây lộn, họ vẫn
cứ năn nỉ, tôi đành chấp nhận, cứ nghĩ mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất
họ sẽ chán, thế nên, khi họ bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối.
Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban
Chấp Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có lẽ cô
không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra, hồn vía lơ lửng
đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng đúng là “đẹp không thể tả!” Mắt cô một mí, khi cô cười
thì như nhắm lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả “một
hồ nước mùa thu” long lanh, nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi “chết mê chết mệt,” mặt cứ thộn ra, ai cũng thấy
rõ.
Thế là từ “lần đầu gặp gỡ” hình ảnh
cô, giọng nói, đôi mắt, nụ cười của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng
dạ tôi cứ lộn xộn, lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương
là tôi yêu cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội
vì cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh Văn,
hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp đỡ, hướng dẫn đi
xin trợ cấp, xin việc…
Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền và các cộng
đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông trung tá, gia đình cô có một
nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách nên cô có thì giờ lo việc cộng
đồng.
Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp trong tiệm (tôi làm cu li, sai
gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm chuyện thiên hạ. Chở người nầy
đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ cấp… Ði đâu tôi cũng năn nỉ
cô đi theo, viện lí do là không rành tiếng Mỹ. Cô thì lúc nào cũng vui vẻ,
nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô lại nghiêm trang, mắt luôn nhìn
phía trước, không cười khi tôi pha trò! Coi bộ cô không có cảm tình với tôi,
nhưng khi đã yêu thì kể sá gì chuyện có được yêu lại hay không! “Ai chiến thắng mà không hề gian khổ? Nghĩa là cứ nhào đại
vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết ai.” Nghĩ thế nên tôi tìm dịp
cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô.
Nhưng phải làm cách nào mà nếu cô có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu ngay, ngược
lại cô sẽ nghĩ rằng chuyện đó không liên can đến cô. Nghĩ mãi tôi mới sáng tác
ra được một chuyện tình để tìm cách kể cho cô nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng
đến nhà hàng của gia đình cô để uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi,
ngồi đối diện, nói vài câu xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút
cô mới đứng lên, vào bên trong lo việc bếp núc.
Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi “kể
chuyện nầy, hay lắm!” Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt “Cô có còn nhớ, tuần trước tôi và cô ra phi trường đón một
gia đình HO, gồm năm người, trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới
gặp mà đã đem lòng thương yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, miệng lúm đồng tiền,
nói năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào để tỏ
tình. Yêu thầm cũng được nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi sẽ chán đời hoặc
thành người điên mất. Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì cho cô ấy hiểu được tình
tôi? Tôi có nên nói ra cho cô ấy biết không?”
Cô lặng yên một lúc rồi nói “Chuyện tình
yêu của anh, anh nên hỏi một người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng tôi làm sao
có ý kiến được, hơn nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ của cô ta…”
Nói xong cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của
tôi không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống cà phê, cô
không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi làm phiền. Tôi buồn
chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, trong đầu tôi, cô vẫn còn đẹp nhưng rất xa
lạ, đến độ tôi ngượng, không dám gặp cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương
mới đến xứ Mỹ, chúng tôi cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút
nào, cô ngồi bên cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình,
không rủ cô đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác.
Cái Ban Chấp Hành Cộng Ðồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người, nhưng
công việc, họ giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu. Trước đây, tôi bon
chen cho được cái chức chủ tịch là để được dịp gặp người đẹp, nay thì tôi đã
chán rồi, muốn rút lui. Thế nên nhân dịp Việt Cộng đưa mấy ca sĩ tân nhạc, cổ
nhạc qua Miền Ðông nước Mỹ làm công tác văn hóa vận, cả Hội Ðồng Quản Trị với
Ban Chấp Hành họp lại, tìm cách tẩy chay. Buổi họp có vẻ sôi nổi lắm. Lên kế hoạch,
chương trình rất kỹ lưỡng, nhưng cuối cùng lại giao cho Ban Chấp Hành làm cả!
Tôi họp mọi người để phân công.
Mấy ông trong ban chấp hành lại giao cả cho hai đứa tôi. Tôi quyết liệt phản
đối thì các vị đó lại cười “Tụi tôi biết anh
quá mà! Lúc trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công, bây giờ vận động
đồng bào không đến coi hát của văn cộng việt cộng, là chuyện nhỏ…”
Tôi ngạc nhiên “Sao quí vị biết tôi đi tù
cải tạo?”
Các ông ấy nhao nhao lên “Anh quên tụi nầy,
chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy vẫn còn nhớ anh. Ði chung một chuyến
bao bố (Tù bị đày ra Bắc, được phát bao bố), ra ngoài Bắc, đi đâu anh cũng làm
đội trưởng tụi nầy.”
Lúc đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời gian quá
lâu, hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, nên không nhận ra, vả lại,
có người đẹp bên cạnh thì tôi chẳng nhìn thấy ai khác nữa!
Lại mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp… ngày xưa! Và tôi vẫn lại
làm xếp họ! Tôi đâu khác gì quan tể tướng? Lúc
trong tù tôi không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói
“bye!” một tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi
cãi lại số mệnh để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa hay
không? Còn mấy vị quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi vào với người
đẹp để tôi phải làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại họ.
Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con rắn mất đầu cựa quậy ra sao? Thế nên
tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi quí vị ấy tiếp tay, liên hệ với các hội
đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm rầm rộ, hiệu quả. Dự định xong vụ nầy
tôi sẽ “lặng lẽ ra đi với một quả tim nặng trĩu
buồn phiền!”
Chiều hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi, nán lại
ít phút để bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay “Cô
thấy nhiệm vụ của chủ tịch ban chấp hành có khó khăn, vất vả gì không?”
Cô nhìn tôi dò xét “Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên
nghĩ là không khó khăn bao nhiêu.”
Tôi hỏi “Thế cô có thể thay tôi làm chủ tịch
được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh nghiệm trong nhiệm vụ nầy.”
Cô ngạc nhiên “Anh định làm gì mà trao nhiệm vụ nầy cho tôi?”
Tôi nói “Tôi sắp đi tiểu bang khác.”
“Vì sao vậy? Có ai làm phiền anh? Hay là vì cô gái mà anh đã kể cho tôi nghe?”
Tôi làm ra vẻ suy tư “Ðúng rồi, tôi thất
tình cô ta nên muốn đi xa… Tôi hi vọng, cô làm chủ tịch, sẽ được mọi người giúp
đơ…”
Cô lắc đầu “Tôi không muốn chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào
trong lúc mới đến xứ Mỹ xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà
thôi…”
Tôi đành nói “Thôi được, tôi sẽ tính sau.
Dù sao thì tôi cũng nhất quyết đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng
bây giờ tôi chán rồi. Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi
một việc làm ở đó.”
Lúc đứng lên cô cười hỏi “Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa? Không
có tiền thì tôi cho ghi sổ.”
Tôi cũng cười bảo “Khi thất tình thì đến
đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng sáng mai tôi sẽ đến,
thưởng thức cà phê do cô pha lần cuối trước khi lên đường.”
Sáng hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê ra cho tôi
còn ngồi đối diện, cười nói vui vẻ “Tôi mang đến anh một tin vui đây.”
Tôi nghi ngờ “Ðang rầu thúi ruột, vui gì
nổi!”
“Vui chứ! Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó
là cô Bé Ni không?
Tôi hỏi “Bé có thương chú Vy không?’
Cô bé trả lời “Dạ thương!”
Tôi hỏi “Thương nhiều hay ít?”
Cô bé nói “Dạ thương nhiều!” Vậy anh vừa lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi
phải không?”
Tôi kêu lên “Trời đất! Cái con bé năm tuổi
đó thì tôi làm sao thất tình được!?”
Cô nhìn tôi hóm hỉnh “Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta từ chối, anh thất
tình, đòi đi nơi khác. Nay tôi hỏi lại, cô ta nói thương anh nhiều thì anh còn
đi đâu nữa?”
Tôi lắc đầu, vừa chán vừa ngượng “Ðó là
tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô ta không ưa tôi nên
tôi…”
Cô nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi.
Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà tôi không nói thì không
còn dịp nào khác nữa “Bây giờ, tôi sắp đi tiểu
bang khác nên tôi liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh tôi, cũng không làm gì được.
Hôm trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra tôi muốn nói là tôi yêu cô.
Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ để trong bụng, ấm ức,
không chịu được. Bây giờ nói xong rồi… Chỉ xin cô đừng cho ai biết lý do tôi đi
tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu của tôi làm cho cô bực mình…”
Cô cúi xuống, chấm ngón tay vào li nước, vẽ linh tinh trên bàn, một lúc mới
nói “Ai cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh. Nếu anh có tỏ tình
với em mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh đâu? Tư cách anh đàng
hoàng, lại có lòng vị tha, yêu thương đồng bào…Ai cũng mến phục anh. Hôm trước,
nghe anh nói, lúc đầu em tưởng anh nói thật, cứ tự hỏi.
Có cô nào mắt lá răm, miệng núm đồng tiền giống mình? Em đi tìm gia đình HO
mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết ngay là anh muốn nói về em. Em cảm động
lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh vừa sợ anh…”
Bao năm nay, quí ngài “cựu” quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch, làm xếp
họ. Hễ kiểm phiếu, thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên “Hoan hô chủ tịch gia đình trị!” Chỉ vì vợ tôi
vẫn lại là cô phó chủ tịch ngoại vụ năm nào.
Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến “Con người
có số mạng không?”
No comments:
Post a Comment