Wednesday, January 16, 2019

Bên Thắng Cuộc (7/7)/Quyền bính (3/3)

Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013
Lê Khả Phiêu & Bill Clinton
(Tiếp theo)

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân

Hai câu Kiều của Nguyễn Du chắc hẳn một số người Việt Nam cũng không biết đến. Thế nhưng, câu thơ đó đã được Tổng thống Bill Clinton trích dẫn trong bài phát biểu tại bữa tiệc chiêu đãi quốc khách của Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 17 đến 19/11/2000 [1].


Tổng thống Bill Clinton

Theo tôi, quả là một thiếu sót lớn khi trong cuốn Bên Thắng Cuộc Huy Đức không nói đến những chi tiết bên lề chuyến viếng thăm lịch sử của ông Clinton, vị Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ (1993-2001) tại Hà Nội và Sài Gòn.

Tổng thống Clinton đã thi vị hóa mối bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam qua thơ Kiều, ông ví von: “Những hình ảnh băng giá của quá khứ đã bắt đầu tan và những phác thảo về nột tương lai ấm áp chung đã bắt đầu hình thành. Chúng ta hãy cùng nhau tận hưởng mùa xuân mới” [2] 

Không chỉ “lẩy” Kiều, bài diễn văn của Clinton còn khiến cử tọa ngạc nhiên vì sự hiểu biết khá sâu sắc của ông về văn chương và lịch sử Việt Nam. Ông nhắc đến Nguyễn Trãi như “nhà chính trị người Việt vĩ đại” (the great Vietnamese statesman) của hơn 500 năm về trước để dẫn ý “sau những năm chiến tranh, chỉ có cuộc sống là tồn tại” (after so many years of war, only life remains).

Clinton còn nhắc đến Hồ Xuân Hương nhân sự kiện cuốn sách Những bài thơ 200 năm tuổi về bà vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ bằng tiếng Anh, tiếng Việt và thậm chí cả bằng nguyên bản chữ Nôm. Ông cũng nói đến hiện tượng chiếc áo dài truyền thống Việt Nam đã là nguồn cảm hứng cho các nhà thiết kế thời trang nổi tiếng thế giới như Armani và Calvin Klein.


Tổng thống Clinton bắt tay người dân Hà Nội

Điều mà hầu hết báo chí quốc tế chú ý đến cuộc viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Clinton là những bài diễn văn của ông. Trong buổi nói chuyện với các sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, ngày 17/11/2000, được truyền hình trực tiếp, ông đã mở đầu bằng những lời lẽ thân mật:

“… I was given a Vietnamese phrase; I am going to try to say it. If I mess it up, feel free to laugh at me: Xin chào các bạn!” (Tôi được dạy một câu tiếng Việt, tôi sẽ cố gắng nói câu đó, các bạn cứ cười thoải mái nếu tôi nói sai: Xin chào các bạn). Quả nhiên sinh viên cười và vỗ tay. Họ cười có lẽ vì được nghe tiếng Việt lơ lớ của ông nhưng họ vỗ tay vì cảm thấy hãnh diện khi một vị Tổng thống Hoa Kỳ lần đầu tiên nói tiếng Việt.

Clinton cũng tạo được sự gần gũi với giới trẻ khi ông nhắc đến Trần Hiếu Ngân, nữ vận động viên Taekwondo, huy chương bạc Olympic Sydney 2000, và cũng là người Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương tại Thế vận hội. Ông còn nhắc đến các cầu thủ nổi tiếng của Việt Nam: Lê Huỳnh Đức và Nguyễn Hồng Sơn.

Phải nói tài hùng biện của Bill Clinton đã chinh phục cảm tình của cử tọa. Lúc thì dí dỏm, khi lại rất nghiêm trang. Nhắc lại lời của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Pete Peterson, về chuyện quá khứ và tương lai của mối bang giao Việt Nam và Hoa Kỳ, ông nói: “We cannot change the past. What we can change is the future” (Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Điều mà chúng ta có thể thay đổi là tương lai).

Tạp chí Newsweek, ngày 27/11/2000, bình luận: “Getting over the past and making history seem to be the two things on Clinton’s agenda these days” (Vượt qua quá khứ và tạo nên lịch sử là hai điều trong chương trình hành động của ông Clinton trong thời gian này).

Newsweek ám chỉ thời gian ngắn ngủi trước khi nhiệm kỳ của ông Clinton chấm dứt vào năm 2001 mà tiếng Anh gọi là thời kỳ “lame duck” (vịt què). Nội các “vịt què” (lame-duck cabinet) của ông sẽ bàn giao vào ngày 20/01/2001, chỉ hơn 2 tháng sau chuyến thăm Việt Nam.


Gia đình Tổng thống Bill Clinton

Bên Thắng Cuộc (Phần II, Chương 20: Lê Khả Phiêu và ba ông cố vấn) nói đến cuộc viếng thăm chính thức của Bill Clinton dưới một cách nhìn khác. Theo Huy Đức, có hai thái độ đón tiếp trái ngược nhau: trong khi giới lãnh đạo dè dặt, chừng mực trong các nghi lễ tiếp đón thì người dân Việt lại đón Clinton một cách thân thiện, cởi mở.

“Bill Clinton và tùy tùng tới sân bay Nội Bài lúc 11 giờ đêm ngày 16/11/2000. Điều ngạc nhiên là vị tổng thống của quốc gia mà chính quyền đang coi như kẻ thù lại được hàng ngàn người dân Hà Nội và các địa phương lân cận đứng chờ trong đêm lạnh dọc hai bên đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài.

Dường như cảm kích trước sự chào đón đó, Tổng thống Clinton đã bật đèn trong khoang xe của mình để vẫy tay đáp trả người dân Hà Nội. Dân chúng cũng đã chen chúc đến khu Văn Miếu để nhìn thấy Bill Clinton. Hai hôm sau, khi rời Hà Nội đến Sài Gòn cũng vào lúc mười một giờ đêm, Bill Clinton lại được người dân đứng chờ và reo hò khi thấy ông xuất hiện từ sân bay Tân Sơn Nhất.

Trong khi đó, Bộ Chính trị đã phải tính đến từng nụ cười, cái bắt tay khi đón vợ chồng Tổng thống Mỹ. Thủ tướng Phan Văn Khải kể, khi tiếp Clinton, ông đã không cười và bàn tay thì chỉ đưa ra nhẹ mà không nắm lại. Ông Nguyễn Đức Hòa, trợ lý của ông hỏi: “Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ?”. Ông Khải nói: “Không được đâu mày ơi, Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười” 

Trước đó vào tháng 6/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Cộng sản đầu tiên thăm chính thức Washington. Chuyến đi của ông Khải gây chú ý đặc biệt và người ta không khỏi bàn tán khi trước báo giới, ngồi bên cạnh một ông Bush đầy tự tin, ông Khải tỏ vẻ bối rối, tay cầm tờ giấy để trả lời báo chí.

Ông Khải thừa nhận:
“Quan hệ với Mỹ dễ dàng hơn nhiều so với Trung Quốc. Tôi hội đàm hết sức thoải mái với Tổng thống G. W. Bush và Bill Clinton trước đây nhưng đúng là tôi ngại báo chí. Chỉ cần báo chí đưa không đúng một câu nói của mình thì sẽ có vấn đề ngay với Bộ chính trị. Sang Mỹ nhưng thực ra chúng tôi phải lo đối nội nhiều hơn đối ngoại” 


Thủ tướng Phan Văn Khải & Tổng thống George Bush
(2005)

Cuộc nói chuyện của Clinton với sinh viên cũng được Bên Thắng Cuộc kể lại theo hướng khác:
“Một ngày trước khi Tổng thống Bill Clinton nói chuyện với sinh viên ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Tướng Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã mấy lần xuống “quán triệt” với Ban Giám đốc các nghi thức, khi nào thì đứng dậy, khi nào vỗ tay… Thay vì theo kịch bản, sinh viên đã vỗ tay gần như liên tục ở các đoạn đầu”. 

Clinton nói với sinh viên Việt Nam: “Theo kinh nghiệm của chúng tôi, giới trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương lai nếu họ có tiếng nói trong việc định hướng tương lai, trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một chính phủ có trách nhiệm đối với những người dân mà chính phủ phục vụ”.

Mặc dù nhấn mạnh “chúng tôi không tìm cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng này”, Bill Cliton giải thích: “Chỉ có các bạn mới quyết định xem có nên chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa xã hội của mình và củng cố nền pháp trị. Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân quyền trên nền tảng giàu mạnh của bản sắc quốc gia Việt Nam”.

Diễn văn của Clinton cũng dẫn thêm một câu chuyện mà ít người biết đến: hơn 200 năm trước, Thomas Jefferson đã cố gắng để đưa các giống lúa Việt Nam về trồng trong trang trại của ông ở Virginia. Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Bản tuyên ngôn mà Clinton nói là đã “vang vọng trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1945” của Việt Nam.

Bill Clinton cũng nhắc đến bức tường bằng đá màu đen Vietnam Veterans Memorial tại Washington D.C, nơi ghi tên những người Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam. Ông nhắc đến điều mà các cựu binh Mỹ gọi là “mặt sau của bức tường”, đó là “sự hy sinh lớn lao” (staggering sacrifice) của ba triệu người Việt Nam thuộc hai miền Nam – Bắc.


Vietnam Veterans Memorial tại Washington D.C

Cuối buổi chiều 18/11/2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chào đón Tổng thống Bill Clinton bằng một bài phát biểu dài. Sau lời mở đầu theo thủ tục, ông Lê Khả Phiêu bắt đầu bày tỏ chính kiến của mình:

“Tôi đồng ý với Ngài là chúng ta không quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng là hiểu cho đúng thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc kháng chiến chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành…

Việt Nam có đem quân đi đánh Hoa Kỳ đâu mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam? Cuộc kháng chiến chống xâm lược của chúng tôi là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không phải trang sử đen tối, đau buồn và bất hạnh”.

Ông Lê Khả Phiêu nói tiếp: “Bà bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: chủ nghĩa xã hội có tồn tại được không? Tôi nói: không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi…

Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước. Đảng chúng tôi có quan hệ với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả, đảng cầm quyền… Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ chính trị của các dân tộc. Chúng tôi cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng tôi”.

Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu kết thúc bài phát biểu “chào mừng” tổng thống đầu tiên của nước Mỹ đến Văn phòng Trung ương Đảng: “Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh nhớ cháu Emily [3] con gái của Morrison [4] và mẹ cháu cũng đã từng sang thăm Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”.


Tổng bí thư Lê Khả Phiêu

Phát biểu đáp từ của Bill Clinton được lược thuật trên báo Nhân Dân ngày 19/11/2000:
“Về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiều người ở Hoa Kỳ không nhất trí với nhau về chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ và về bản chất cuộc chiến tranh. Nhiều người, trong đó có Đại sứ Peterson của chúng tôi, đã tưởng rằng họ sang chiến đấu để giúp cho người Việt Nam được tự do và tự quyết. Ngày nay, tôi thấy rất thú vị là đã có một nước Việt Nam thống nhất và tiến bộ”.

Sau này, trong cuốn hồi ký My Life, Bill Clinton viết:
“Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh.

Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam” [5]


Hồi ký My Life, Bill Clinton

Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ [người Mỹ] rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả”.

Theo Tổng thống Bill Clinton, giữa ông và Thủ tướng Phan Văn Khải đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp trong lần gặp ở Auckland (New Zealand), khi đó ông Khải cũng nói là ông cảm kích trước việc Bill Clinton đã từng phản đối chiến tranh Việt Nam. Clinton nhớ lại: “Khi tôi nói: những người Mỹ phản đối hay ủng hộ cuộc chiến tranh đó đều là người tốt. Ông Khải nói: tôi hiểu”.


Bill Clinton, Hillary Clinton và con gái Chelsea xem biểu diễn nghệ thuật tại Hà Nội

Cũng trong cuốn hồi ký My Life, Clinton đưa ra nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ. Ông mô tả chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh: “Võ Viết Thanh ăn nói như những thị trưởng năng nổ ở Mỹ mà tôi biết. Ông khoe về việc cân đối ngân sách, cắt giảm chi tiêu, và nỗ lực lôi kéo thêm các nhà đầu tư nước ngoài”. Đối với Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Bill Clinton nhận xét: “Chỉ kém giáo điều hơn Lê Khả Phiêu một chút”.

Tác giả Huy Đức cho rằng ông Phiêu có “lý do đối nội” khi cố tình làm mất lòng Bill Clinton chỉ vì muốn được lòng các nhân vật khác trong nội bộ Đảng Cộng sản. Nhưng sau này, điều oái ăm đã xảy ra, chính những người mà ông nghĩ sẽ hài lòng với thái độ cứng rắn trước Tổng thống Mỹ lại sử dụng điều đó để chống lại ông.


Hillary Clinton và con gái Chelsea với chiếc nón lá Việt Nam

Vào Sài Gòn, Tổng thống Clinton đã nói chuyện với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại Cảng Container Quốc tế (Vietnam International Container Terminals – VICT), một liên doanh giữa Singapore và Việt Nam. Ông lên tiếng ca ngợi những tiến bộ tích cực trong công cuộc đổi mới về kinh tế và xã hội của Việt Nam trong thập niên vừa qua.

Theo Clinton, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đến Việt Nam nhiều hơn. Ông tuyên bố chính phủ Hoa Kỳ sẽ dành một khoản tín dụng 200 triệu đô-la để hỗ trợ các dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam.

Nhân dịp này, Clinton cũng đề cao vai trò của những người Việt tại nước ngoài. Theo ông, họ đầu tư vào Việt Nam không những bằng tiền bạc mà còn với cả tấm lòng. Nước Mỹ vui mừng khi giúp họ trở về làm ăn, cũng xin cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã chào đón họ tại quê nhà [6].

Và có lẽ cũng để ủng hộ việc kinh doanh của người Mỹ gốc Việt tại Sài Gòn, Tổng thống Bill Clinton, phu nhân Hillary, con gái Chelsea cùng đoàn tùy tùng đã dùng bữa trưa tại Phở 2000, góc đường Lê Lai, bên hông chợ Bến Thành. Đây là mạng lưới các tiệm Phở 2000 tại Sài Gòn do Alain Huỳnh Trung Tấn từ Hoa Kỳ về kinh doanh. Kể từ đó, Phở 2000 có thêm khẩu hiệu “Phở for the President”.


Bill Clinton chụp hình kỷ niệm với nhân viên Phở 2000

***

Chú thích:

[1] Hai câu Kiều của Nguyễn Du:

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân

đã được chuyển ngữ sang tiếng Anh trong bài phát biểu của Tống thống Bill Clinton tại Hà Nội như sau:

Just as the lotus wilts, the mums bloom forth
Time softens grief, and the winter turns to spring

Chắc chắn những cố vấn người Việt của Tổng thống Clinton đã phải làm việc tích cực trong việc soạn những bài diễn văn cho ông. Clinton đã tỏ ra rất am hiểu về lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam, ông rất tự tin khi trình bày những vấn đề này.

[2] Nguyên văn tiếng Anh: “Frozen images of the past have begun to thaw and outlines of a warmer shared future have begun to take shape. Let us make the most of this new spring together”.

[3] Emily rất nổi tiếng ở Việt Nam sau khi bài thơ Ê-mê-ly, Con ơi! của Tố Hữu được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy suốt nhiều thập niên. Bài thơ có những câu như:

Ê mi ly con ơi!
Ê mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc...
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.

Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Còn mất?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
Ta đốt thân ta
Cho ngọn lửa chói loà
Sự thật..........

[4] Morrison: Một người Mỹ ở Pennsylvania, ngày 2/11/1965, bế con gái Emily một tuổi tới trước văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara rồi tự thiêu để phản đối chiến tranh Việt Nam.

[5] My Life, Bill Clinton, Vintage Books 2005, trang 930.

[6] Nguyên văn: “Overseas Vietnamese want to invest in your country, not only with their money, but with their hearts. We are glad to be helping them to return and we thank you, the people and the government of Vietnam, for welcoming them home”

***



Full text of US President Bill Clinton's speech in Vietnam

HANOI - The following is the full text of US President Bill Clinton's speech on Friday at Hanoi National University:

"Thank you very much and good afternoon. I can think of no more fitting place to begin my visit at this hopeful moment in our common history than here at Hanoi National University. I was given a Vietnamese phrase; I am going to try to say it. If I mess it up, feel free to laugh at me. Xin chao cac ban. (Hello, everybody) So much of the promise of this youthful nation is embodied with you. I learned that you have exchanges here with students from nearly 100 universities, from Canada to France to Korea -- and that you are now hosting more than a dozen full-time students from your partner school in the United States, the University of California. I salute your vigorous efforts to engage the world. Of course, like students everywhere, I know you have things to think about other than your studies. For example, in September, you had to study for your classes and watch the Olympic accomplishments of Tran Hieu Ngan in Sydney. And this week you have to study and cheer Le Huynh Duc and Nguyen Hong Son in Bangkok at the football matches.

I am honored to be the first American President to see Hanoi, and to visit this university. But I do so conscious that the histories of our two nations are deeply intertwined in ways that are both a source of pain for generations that came before, and a source of promise for generations yet to come. Two centuries ago, during the early days of the United States, we reached across the seas for partners in trade and one of the first nations we encountered was Vietnam. In fact, one of our founding fathers, Thomas Jefferson, tried to obtain rice seed from Vietnam to grow on his farm in Virginia 200 years ago, By the time World War II arrived, the United States had become a significant consumer of export from Vietnam. In 1945, at the moment of your country's birth, the words of Thomas Jefferson were chosen to be echoed in your own Declaration of Independence: "All men are created equal. The creator has given us certain inviolable rights, -- the right to life, the right to be free, the right to achieve happiness." Of course, all of this common history, 200 years of it, has been obscured in the last few decades by the conflict we call the Vietnam War and you call the American War. You may know that in Washington, D.C. on our National Mall, there is a stark black granite wall engraved with the name of every single American who died in Vietnam. At this solemn memorial, some American veterans also refer to the "other side of the wall," the staggering sacrifice of the Vietnamese people on both sides of that conflict -- more than three million brave soldiers and civilians. This shared suffering has given our countries a relationship unlike any other. Because of the conflict, America is now home to one million Americans of Vietnamese ancestry. Because of the conflict, three million American veterans served in Vietnam, as did many journalists, embassy personnel, aid workers and others who are forever connected to your country.

Almost 20 years ago now, a group of American servicemen took the first step to reestablish contacts between the United States and Vietnam. They traveled back to Vietnam for the first time since the war, and as they walked through the streets of Hanoi, they were approached by Vietnamese citizens who had heard of their visit. Are you the American soldiers, they asked? Not sure what to expect our veterans answered, yes we are. And to their immense relief, their hosts simply said, welcome to Vietnam. More veterans followed, including distinguished American veterans and heroes who serve now in the United States Congress: Senator John McCain, Senator Bob Kerrey, Senator Chuck Robb and Senator John Kerry from Massachussettes, who is here with me today along with a number of representatives from our Congress, some of whom are veterans of the Vietnam conflict. When they came here, they were determined to honor those who fought without refighting the battle; to remember our history, but not to perpetuate it; to give young people like you in both our countries the chance to live in your tomorrows, not in our yesterdays. As Ambassador Pete Peterson has said so eloquently, "We cannot change the past. What we can change is the future."

Our new relationship gained strength as American veterans launched non profit organisations to work on behalf of the Vietnamese people, such as providing devices to people with war injuries to help them lead more normal lives. Vietnam's willingness to help us return the remains of our fallen servicemen to their families has been the biggest boost to improve ties. And there are many Americans here who have worked in that endeavor for many years now, including our Secretary of Veterans Affairs, Hershel Gobar. The desire to be reunited with a lost family member is something we all understand. It touches the hearts of Americans to know that every Sunday in Vietnam one of your most-wanted television shows features families seeking viewers help in finding loved ones they lost in the war so long ago now. And we are grateful for the Vietnamese villagers who have helped us to find our missing and, therefore, to give their families the peace of mind that comes with knowing what actually happened to their loved ones. No two nations have ever before done the things we are doing together to find the missing from the Vietnam conflict. Teams of Americans and Vietnamese work together, sometimes in tight and dangerous places. The Vietnamese government has offered us access to files and government information to assist our search. And, in turn, we have been able to give Vietnam almost 400,000 pages of documents that could assist in your search. On this trip, I have brought with me another 350,000 pages of documents that I hope will help Vietnamese families find out what happened to their missing loved ones.

Today, I was honored to present these to your President, Tran Duc Luong. And I told him before the year is over, America will provide another million pages of documents. We will continue to offer our help and to ask for your help as we both honor our commitment to do whatever we can for as long as it takes to achieve the fullest possible accounting of our loved ones. Your cooperation in that mission over these last eight years has made it possible for America to support international lending to Vietnam, to resume trade between our countries, to establish formal diplomatic relations and, this year, to sign a pivotal trade agreement. Finally, America is coming to see Vietnam as your people have asked for years -- as a country, not a war. A country with the highest literacy rate in Southeast Asia; a country whose young people just won three Gold Medals at the International Math Olympiad in Seoul; a country of gifted hardworking entrepreneurs emerging from years of conflict and uncertainty to shape a bright future.

Today, the United States and Vietnam open a new chapter in our relationship, at a time when people all across the world trade more, travel more, know more about and talk more with each other than ever before. Even as people take pride in their national independence, we know we are becoming more and more interdependent. The movement of people, money and ideas across borders, frankly breeds suspicion among many good people in every country. They are worried about globalization because of its unsettling and unpredictable consequences. Yet globalization is not something we can hold off or turn off. It is the economic equivalent of a force of nature -- like wind or water. We can harness wind to fill a sail. We can use water to generate energy. We can work hard to protect people and property from storms and floods. But there is no point in denying the existence of wind or water, or trying to make them go away. The same is true for globalization. We can work to maximize its benefits and minimize its risks, but we cannot ignore it -- and it is not going away. In the last decade, as the volume of world trade has doubled, investment flows from wealthy nations to developing ones have increased by six times, from 25 billion dollars in 1990 to more than 150 billion dollars in 1998. Nations that have opened their economies to the international trading system have grown at least twice as fast as nations with closed economies. Your next job may well depend on foreign trade and investment. Come to think of it, since I have to leave office in about eight weeks, my next job may depend on foreign trade and investment.

Over the last 15 years, Vietnam launched its policy of Doi Moi, joined APEC and ASEAN, normalized relations with the European Union and the United States, and disbanded collective farming, freeing farmers to grow what they want and earn the fruits of their own labor. The results were impressive proof of the power of your markets and the abilities of your people. You not only conquered malnutrition, you became the world's second largest exporter of rice and achieved stronger overall economic growth. Of course, in recent years the rate of growth has slowed and foreign investment has declined here, showing that any attempt to remain isolated from the risks of a global economy also guarantees isolation from its rewards, as well. General Secretary Le Kha Phieu said this summer, and I quote, "We have yet to achieve the level of development commensurate with the possibilities of our country. And there is only one way to further open up the economy." So this summer, in what I believe will be seen as a pivotal step toward your future prosperity, Vietnam joined the United States in signing an historic bilateral trade agreement, building a foundation for Vietnam's entry eventually into the World Trade Organization.

Under the agreement, Vietnam will grant to its citizens, and over time to citizens of other countries, rights to import, export and distribute goods, giving the Vietnamese people expanding rights to determine their own economic destiny. Vietnam has agreed it will subject important decisions to the rule of law and the international trading system, increase the flow of information to its people, and accelerate the rise of a free economy and the private sector. Of course, this will be good for Vietnam's foreign partners, like the United States. But it will be even better for Vietnam's own entrepreneurs, who are working hard to build businesses of their own. Under this agreement, Vietnam could be earning, according to the World Bank, another 1.5 billion dollars each and every year from exports alone.

Both our nations were born with a Declaration of Independence. This trade agreement is a form of declaration of interdependence, a clear, unequivocal statement that prosperity in the 21st century depends upon a nation's economic engagement in the rest of the world. This new openness is a great opportunity for you. But it does not guarantee success. What else should be done? Vietnam is such a young country, with 60 percent of your population under the age of 30, and 1.4 million new people entering your work force every year. Your leaders realize that government and state-owned businesses cannot generate 1.4 million new jobs every year. Thy know that the industries driving the global economy today -- computers, telecommunications, biotechnology -- these are all based on knowledge. That is why economies all over the world grow faster when young people stay in school longer, when women have the same educational opportunities that men have, when young people like you have every opportunity to explore new ideas and then to turn those ideas into your own business opportunities.

You can be -- indeed, those of you in this hall today must be -- the engine of Vietnam's future prosperity. As President Tran Duc Luong has said, the internal strength of the country is the intellect and capacity of its people. The United States has great respect for your intellect and capacity. One of our government's largest educational exchange programs is with Vietnam. And we want to do more. Senator Kerry is right there, and I mentioned him earlier -- is leading an effort in our United States Congress, along with Senator John McCain and other veterans of the conflict here, to establish a new Vietnam Education Foundation. Once enacted, the foundation would support 100 fellowships every year, either here or in the United States, for people to study or teach science, math, technology and medicine.

We're ready to put more funding in our exchange programs now so this effort can get underway immediately. I hope some of you in this room will have a chance to take part. And I want to thank Senator Kerry for this great idea. Thank you, sir, for what you have done. Let me say, as important as knowledge is, the benefits of knowledge are necessarily limited by undue restrictions on its use. We Americans believe the freedom to explore, to travel. to think, to speak, to shape decisions that affect our lives enrich the lives of individuals and nations in ways that go far beyond economics.

Now, America's record is not perfect in this area. After all, it took us almost a century to banish slavery. It took us even longer to give women the right to vote. And we are still seeking to live up to the more perfect union of our founders' dreams and the words of our Declaration of Independence and Constitution. But along the way over these 226 years -- 224 years -- we've learned some lessons. For example, we have seen that economics work better where newspapers are free to expose corruption, and independent courts can ensure that contracts are honored, that competition is robust and fair, that public officials honor the rule of law.

In our experience, guaranteeing the right to religious worship and the right to political dissent does not threaten the stability of a society. Instead it builds people's confidence in the fairness of our institutions, and it enables us to take it when a decision goes in a way we don't agree with. All this makes our country stronger in good times and bad. In our experience, young people are much more likely to have confidence in their future if they have a say in shaping it, in choosing their governmental leaders and having a government that is accountable to those it serves. Now, let me say emphatically, we do not seek to impose these ideals, nor could we. Vietnam is an ancient and enduring country. You have proved to the world that you will make your own decisions. Only you can decide, for example, if you will continue to share Vietnam's talents and ideas with the world; if you will continue to open Vietnam so that you can enrich it with the insight of others. Only you can decide if you will continue to open your markets, open your society and strengthen the rule of law. Only you can decide how to weave individual liberties and human rights into the rich and strong fabric of Vietnamese national identity.

Your future should be in your hands, the hands of the Vietnam people. But your future is important to the rest of us as well. For as Vietnam succeeds, it will benefit this region and your trading partners and your friends throughout the world. We are eager to increase our cooperation with you across the board. We want to continue our work to clear land mines and unexploded ordnance. We want to strengthen our common efforts to protect the environment by phasing out leaded gasoline in Vietnam, maintaining a clean water supply, saving coral reefs and tropical forests. We want to bolster our efforts on disaster relief and prevention, including our efforts to help those suffering from the floods in the Mekong delta. Yesterday we presented to your government satellite imagery from our Global Disaster Information Network -- images that show in great detail the latest flood levels on the delta that can help Vietnam to rebuild.

We want to accelerate our cooperation in science, cooperation focused this month on our meeting in Singapore to study together the health and ecological effects of dioxin on the people of Vietnam and the Americans who were in Vietnam; and cooperation that we are advancing further with the Science and Technology Agreement our two countries signed just today. We want to be your ally in the fight against killer diseases like AIDS, tuberculosis and malaria. I am glad to announce that we will nearly double our support of Vietnam's efforts to contain the AIDS crisis through education, prevention, care and treatment. We want to work with you to make Vietnam a safer place by giving you help to reduce preventable injuries -- on the streets, at home and in the workplace. We want to work with you to make the most of this trade agreement, by providing technical assistance to assure its full and smooth implementation, in finding ways to encourage greater United States investment in your country.

We are, in short, eager to build our partnership with Vietnam. We believe it's good for both our nations. We believe the Vietnamese people have the talent to succeed in this new global age as they have in the past. We know it because we've seen the progress you have made in this last decade. We have seen the talent and ingenuity of the Vietnamese who have come to settle in America. Vietnamese-Americans have become elected officials, judges, leaders in science and in our high-tech industry. Last year, a Vietnamese-American achieved a mathematical breakthrough that will make it easier to conduct high-quality video-conferencing. And all America took notice when Hoang Nhu Tran graduated number one in his class at the United States Air Force Academy.

Vietnamese-Americans have flourished not just because of their unique abilities and their good values, but also because they have had the opportunity to make the most of their abilities and their values. As your opportunities grow to live, to learn, to express your creativity, there will be no stopping the people of Vietnam. And you will find, I am certain, that the American people will be by your side. For in this interdependent world, we truly do have a stake in your success. Almost 200 years ago, at the beginning of the relations between the United States and Vietnam, our two nations made many attempts to negotiate a treaty of commerce, sort of like the trade agreement that we signed today. But 200 years ago, they all failed, and no treaty was concluded. Listen to what one historian said about what happened 200 years ago, and think how many times it could have been said in the two centuries since. He said, "These efforts failed because two distant cultures were talking past each other, and the importance of each to the other was insufficient to overcome these barriers."

Let the days when we talk past each other be gone for good. Let us acknowledge our importance to one another. Let us continue to help each other heal the wounds of war, not by forgetting the bravery shown and the tragedy suffered by all sides, but by embracing the spirit of reconciliation and the courage to build better tomorrows for our children. May our children learn from us that good people, through respectful dialogue, can discover and rediscover their common humanity, and that a painful, painful past can be redeemed in a peaceful and prosperous future.

Thank you for welcoming me and my family and our American delegation to Vietnam. Thank you for your faith in the future. Chuc cac ban suc khoe va thanh cong. (May you have health and success)

(Agence France Presse - November 17, 2000)


***
5 nhận xét:

diendan12:36 13 tháng 2, 2013
Viet hay lam m . Thanks

Trả lời

Nặc danh13:57 14 tháng 2, 2013
ĐÚNG ! nó là tên võ biền !Một gã nhà nông , đi lính .Năm 68 mới là cán bộ cấp E ( Trung đoàn ) 100% VÕ BIỀN ! Trình độ quá hạn hẹp.Thế mà hắn lên ngồi ghế cao nhất của một đảng cầm quyền.Cắt nghĩa tại sao dân mình còn bị lầm than đến thế !
Cảm ơn anh NNC, nhà báo , nhà văn .Càng quý mén và cảm thông với anh cho cái thời bị vào trại cải tao !

Trả lời

TTM Gốc Mai17:37 15 tháng 2, 2013
M được tặng bộ sách "Bên thắng cuộc" này, do người bạn tự load về và in lại.

Trả lời
Trả lời

Nặc danh02:10 26 tháng 3, 2013
Nghe hay và khỏe hơn đọc :

Trả lời

Nặc danh18:26 9 tháng 6, 2013
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.


Trả lời

No comments:

Post a Comment