Không chốn dung thân
(1/2)
Truyện ngắn
Hắn cầm trong tay tờ giấy khổ
A4 mang tiêu đề Quyết Định của Bộ tư lệnh Quân khu 7. Phần trên của Quyết Định
có 3 gạch ngang đầu dòng:
- Thực hiện chính sách khoan
hồng của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đối với sĩ quan, hạ
sĩ quan thuộc chế độ cũ đang học tập ở các trại tập trung.
- Xét tinh thần học tập
trong quá trình cải huấn biết ăn năn hối cải và phấn đấu tốt.
- Xét đề nghị của đơn vị trực
tiếp quản lý và hội đồng xét duyệt quân khu.
Sau 3 khúc gạch đầu dòng,
Quyết Định đưa ra 3 điều:
Điều 1. Cho ____ sinh ___
Cấp ____ số lính ___
Chức ___ của chế độ cũ học
tập tập trung tại hộp thư 7590 L1T5.
Phải đến trình diện Công an
Phường (xã), Quận (Huyện) địa phương nơi cư ngụ. Số ___, khóm ___, Phường ___ ,
Đà Lạt.
Điều 2.
Khi trở về địa phương hoặc
các ngành, đơn vị nhận xử dụng phải chấp hành tốt mọi quy định về luật pháp và
sự quản chế của chính quyền cơ sở địa phương hoặc đơn vị nhận xử dụng. Thời
gian quản chế Sáu tháng, sau thời gian đó nếu được chính quyền địa phương hoặc
cơ quan đơn vị xác nhận là tiến bộ và được chính quyền nơi cư trú đồng ý thì sẽ
được chính thức khôi phục quyền công dân.
Điều 3.
Phòng quản huấn, Ban chỉ huy
Trại quản huấn trực tiếp quản lý đối tượng và đương sự chiếu quyết định thi
hành.
Quyết Định do Thiếu tướng
Đào Sơn Tây thuộc Bộ tư lệnh Quân khu 7 ký ngày 15 tháng 9 năm 1978 và phía bên
trái là dòng chữ “Sao y ngày 15/9/1978, Bộ tư lệnh Đoàn Là Ngà, Trung tá Nguyễn
Trọng Phu”.
Cuối cùng là đọan
Ghi Chú:
“Giấy này không có giá trị đi đường. Trong thời gian quản chế việc quy định bao
nhiêu ngày trình diện 1 lần do chính quyền địa phương từng xã, phường quy định”.
***
Cầm Quyết Định trong tay, hắn
thấy vui-buồn lẫn lộn. Vui vì đã ra trại cải tạo sau gần 3 năm học tập khổ ải
nhưng cũng buồn vì không biết tương lai cuộc đời mình sẽ đi về đâu. Vợ con đang
ở Sài Gòn, có sổ gia đình của chế độ cũ hẳn hoi, thế mà lại phải đến trình diện
công an thành phố Đà Lạt để được xum họp với... bố mẹ. Thôi kệ, hãy cứ về Sài
Gòn cái đã.
Sài Gòn năm 1978 đã thay đổi
nhiều quá. Đó là sự đổi thay từ con người đến khung cảnh xung quanh. Sài Gòn với
hơn ba triệu dân trước 75 nay có lẽ chỉ còn hơn 2 triệu. Một số gia đình ‘ngụy’ đã được chính quyền
cách mạng, nửa đe dọa nửa khuyến khích, đi lập nghiệp tại các vùng kinh tế mới
nếu không có việc làm ổn định. Có những gia đình từ kinh tế mới không sống nổi
nên về lại Sài Gòn, nhà cửa không còn nên tìm chỗ định cư tại những mái hiên, gầm
cầu.
Người Sài Gòn giờ chỉ đi dép
chứ không còn thấy giày. Thanh niên thì áo bỏ ngoài quần, xuề xòa sao cho giống
như những cán bộ cách mạng từ miền Bắc mới vào. Phụ nữ chỉ có áo bà ba, phần lớn
được ‘cải tạo’ từ chiếc áo dài ngày xưa. Đổi đời rồi nên những chiếc áo dài tự
nhiên phải biến mất. Không còn những móng tay sơn đỏ, không còn giày cao gót,
không còn jupe serê và cũng biến mất hẳn những chiếc mini jupe. Phụ nữ ra đường
không cần son phấn, làm đẹp cho ai khi chồng của họ vẫn còn tập trung cải tạo,
đẹp để làm gì khi cố gắng vất vưởng qua ngày, đoạn tháng.
Buổi sáng ra đường gặp nhiều
người mang túi vải để đựng lon Guigoz cơm và lon đồ ăn. Họ là những công nhân
nhà máy, lao động phổ thông và cũng có cả cánh chợ trời chuyên chặn khách đi đường
với câu quen thuộc: “Có gì bán không anh?”.
Sài Gòn gần như trở thành một
thành phố của những người mang túi vải, nếu trong tay có thêm một cái gậy nữa
thì người Sài Gòn trở thành... cái bang, đệ tử trung thành của vua ăn mày Hồng
Thất Công trong truyện Kim Dung!
Xe Honda ít hẳn đi. Lớp thì
‘trùm mền’ nằm trong nhà vì khó kiếm xăng, lớp thì cán bộ mua để đem ra Bắc. Cũng
vì thiếu xăng, một số xe chuyên chở hành khách được cải tạo... chạy bằng than với
nồi hơi hừng hực lửa than gắn ở phía đuôi xe. Đề tài ‘tiến-bộ-khoa-học-kỹ-thuật’
này khiến cho xe đang chạy từ 70 đến 90 km mỗi giờ xuống còn khoảng 20 đến 35
km. Bên cạnh đó, xe ‘cải tạo’ còn có tiếng động cơ gầm thét, bỏ lại sau lưng
khói bụi và cả những cục than đỏ hồng trên mặt đường. Hành khách mặt mày nhem
nhuốc vì bụi than, lại còn phải xuống xe đẩy phụ mỗi khi xe chết máy. Hoạt cảnh
hành khách hò nhau đẩy xe chẳng khác nào... hò kéo pháo của bộ đội trên chiến
trường Điện Biên Phủ năm 1954!
Sài Gòn đang thực hiện chủ
trương ‘công-tư-hợp-doanh’. Các loại xe đò chạy đường dài đều trở thành thành
viên của công ty vận tải hợp doanh do các quan chức nhà nước nắm quyền điều
hành. Chủ xe dùng xe của mình để góp vốn vào công ty. Mỗi chiếc xe góp vốn được
nhà nước định giá một cách tùy tiện, có khi chỉ bằng 5 hay 10% giá thực tế.
Phần tài sản đóng góp lại được
công ty ‘quốc-hữu-hóa’ dưới hình thức mà các thành viên diễn tả bằng một câu thật
ý nhị: ‘mua chịu, trả dần, mỗi lần một ít’. Thế cho nên, có chủ xe dù không còn
là thành viên công ty, thậm chí đã qua đời, mà công ty vẫn chưa thanh toán hết
tiền mua xe. Dù có được thanh toán hết thì số tiền đó cũng chỉ đủ mua một chiếc
‘xô-xích-le’, tiếng lóng để chỉ xe xích lô.
***
Ngày lên Đà Lạt trình diện hắn
phải ra bến xe Lê Hồng Phong chầu chực xếp hàng từ 4 giờ sáng nhưng vẫn không
mua được vé xe đò. Hôm sau, rút kinh nghiệm nên khôn ra: 3 giờ sáng đã có mặt,
lấy một cục gạch để xí chỗ trong khi ngồi ngủ bù giữa trời khuya. May qúa, cuối
cùng cũng có được một chỗ trên xe ‘cải tạo’ chạy bằng than để về Đà Lạt. Hắn mỉm
cười một mình, chiếc xe ‘cải tạo’ chở anh chàng cũng vừa tốt nghiệp cải tạo để
lại vợ con ở Sài Gòn lên Đà Lạt xum họp với bố mẹ. Cuộc đời thật nhiều oái
ăm...
Đà Lạt mộng mơ ngày nào giờ
thì chẳng có gì để mơ mộng. Người ta chỉ nghĩ đến cái thiết thực nhất: miếng
cơm manh áo. Đà Lạt nay thật sự là của người Đà Lạt vì khách du lịch ngày nào
đã biến mất. Tất cả mọi người đều lo ‘cơm, áo, gạo, tiền’, thì giờ đâu cho những
chuyến du lịch lên ‘xứ lạnh’ Đà Lạt cách ‘xứ nóng’ Sài Gòn có 305 km. Du lịch
đã trở thành chuyện xa xỉ trong bối cảnh thiếu ăn.
Đồi Cù thơ mộng ngày nào nay
chỉ là bãi thả ngựa, thả bò. Thung lũng Tình yêu không còn là nơi hẹn hò yêu
đương. Vườn Bích câu cỏ mọc nhiều hơn hoa. Hồ Than Thở cũng chẳng ai ngó ngàng
đến vì người dân Đà Lạt chỉ biết than thở trong nhà, cần gì ra đấy... Sân vườn
của các biệt thự sang trọng giờ được cải tiến thành vườn rau của những cán bộ
được nhà nước cấp nhà, cấp đất.
Rạp ciné Hòa Bình nay đã đổi
tên thành ‘Rạp chiếu bóng 3-4’ để kỷ niệm ngày thành phố Đà Lạt đổi đời:
3-4-1975. Trên tháp cao của rạp hát mang dòng chữ: “Nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam Muôn năm”. Trường Lycée Yersin đã âm thầm đổi tên. Trường Trần
Hưng Đạo (Bảo Long) xưa kia chỉ dành cho nam sinh, Bùi Thị Xuân (Phương Mai)
cho nữ sinh, giờ thì trộn lẫn, âm dương đuề huề.
Cà phê Tùng, có mặt tại Đà Lạt
từ hơn nửa thế kỷ, vẫn còn đó nhưng không còn mang âm hưởng tiếng nhạc êm dịu
như ngày nào, thay vào đó là những bản nhạc ‘đỏ’ hừng hực không khí chiến tranh
‘hào hùng’ của cuộc chiến đã qua. Người ta có thể nghe lọai nhạc-tình-đỏ như
“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn, hai đứa ở hai đầu xa thẳm...”.
Cà phê Tùng và ‘Bastos xanh’
một thời đã gắn bó với cuộc đời học sinh rồi sinh viên của hắn. Dạo đó, bên cạnh
nhạc cổ điển và nhạc trữ tình Việt Nam, cứ hàng tuần vào ngày Thứ Năm chú Tùng
cho nghe nhạc Pháp qua giọng của Francoise Hardy, Sylvie Vartan... Hắn và lũ bạn
thích ngồi Tùng một phần vì khoái được ngắm các cô Bùi Thị Xuân trên đường dẫn
vào khu Hòa Bình. Buổi tối, nếu may mắn còn bàn ngoài balcon thì thật thú vị,
trong cái lạnh se sắt của Đà Lạt được ngồi ngắm thành phố chìm trong màn
sương...
Về Đà Lạt trình diện hắn phải
ăn bám theo bố mẹ vì không có tên trong sổ hộ khẩu nên không đủ tiêu chuẩn
lương thực. Tiêu chuẩn gạo, trên lý thuyết, mỗi người mỗi tháng được mua 13kg gạo
‘mậu dịch’ do cửa hàng lương thực phường bán ra theo ‘sổ gạo’ cấp theo đầu người.
‘Sổ gạo’ đã đi vào ngôn ngữ hàng ngày. Người ta thường ví von: ‘Mặt trông rầu
như mất... sổ gạo’.
Trên thực tế chỉ mua được từ
3 đến tối đa 5kg gạo, phần còn lại được quy đổi sang các lọai lương thực phụ
như hạt bo bo cứng như đá, bột mì Liên Xô viện trợ, mì sợi vụn, khoai lang
sùng, khoai mì chạy chỉ...
Ai sinh ra cái
củ mì?
Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà
ăn!
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ
mì
Gạo hẩm thì ướp đủ thứ mùi:
từ mùi mốc cho đến mùi... cứt gián, lại thường trộn lẫn với thóc, bông cỏ và những
hạt sạn, có hạt to bằng hột bắp. Người ta bảo đó là lọai gạo được chôn dấu từ
bưng biền để nuôi bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nay đã thắng Mỹ nên
đem ra cung cấp cho dân!
Chỉ tiêu mỗi tháng một hộ có
thể mua 2kg thịt, thường được chia làm hai hay ba đợt. Tiếng là ‘mua’ nhưng thực
tế là ‘xin’ vì người ta tranh nhau, có gì mua nấy. Tiếng là thịt nhưng chỉ tòan
bạc nhạc, mỡ vụn, xương xẩu. Có người tự hỏi, thế còn những phần ngon biến đâu
hết? Xin thưa cứ ra chợ trời, tìm gì cũng có.
Cán bộ mậu dịch thường tuồn
hàng ra ngoài thị trường tự do với giá cắt cổ để hưởng chênh lệch. Không ít người
trong số họ chỉ sau vài năm phục vụ trong ngành thương nghiệp đã trở thành
‘tư-sản-đỏ’. Để vào được ngành này, họ phải hối lộ cấp trên, chạy chức, chạy
quyền. Đến một lúc nào đó, người ta bỗng thấy xã hội biến thành hai cực rõ
ràng: kẻ thống trị và người bị trị.
Cuộc sống mới đã manh nha mầm
mống tiêu cực, điển hình nhất là những phong bì hối lộ:
Phong lan,
phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý
hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn
vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng
vui
Ngay tại các cơ quan nhà nước
cũng chỉ đủ thịt cung cấp theo tiêu chuẩn cho khoảng 2/3 số công nhân viên chức.
Cũng vì thế phải tổ chức bắt thăm xem ai... trúng thịt. Nhân viên phụ trách ‘tiếp
phẩm’ là người chỉ chịu đứng sau Ban lãnh đạo cơ quan về mặt quyền lực. Họ có
thể cân thiếu nhưng chẳng ai dám lên tiếng trong cái xã hội được mỉa mai là
“mua như cướp, bán như cho”. Những ngày lãnh thịt, cả khu tập thể công nhân nhà
máy vui như Tết nhưng cũng có những gia đình buồn như đi đưa đám chỉ vì không
được trúng thăm lãnh thịt.
Công nhân viên chức còn được
hưởng tiêu chuẩn cấp phát: từ chất đốt (than, củi, dầu lửa), vải vóc đến xà
phòng, bột ngọt, kim chỉ theo chế độ tem phiếu. Có gia đình liên tục mấy tháng
chỉ toàn lĩnh vải của các cơ sở sản xuất quốc doanh mà chẳng thấy bóng dáng xà
phòng. Có nhà toàn nữ nhưng lại được lĩnh tiêu chuẩn quần đùi, áo may-ô và dao
cạo râu. Có người đã làm thơ ‘lảy’ Kiều:
Bắt phanh trần
phải phanh trần
Cho may-ô mới được phần
may-ô
Thiếu tiền mặt, cơ quan thường
trả lương bằng sản phẩm. Thường thì làm ở cơ quan nào thì được hưởng lương theo
sản phẩm của cơ quan đó: sản xuất cao su thì được lĩnh cao su. Không hiểu nếu
cơ quan làm ra... bao cao su thì nhân viên dùng sao cho hết ông đại sứ “Cabốt Lốt”.
Tiền lương của công nhân được thể hiện qua 4 câu thơ, đọc lên thật thấm thía:
Lương chồng,
lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn...
lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm
là ngon
***
Con chim bị ná nên đậu cành
nào cũng ngơm ngớp lo sợ. Hắn lên tới Đà Lạt, việc đầu tiên là vội vàng đến
trình diện công an phường cho hợp pháp. Anh công an phường nói giọng miền Nam,
chắc hẳn là ‘du kích đổi đời’ hay không biết chừng lại là “Ông-Ba- Mươi”.
Thanh niên miền Nam có một số
đang từ ‘xanh’ bỗng hóa ‘đỏ’. Ngày 30/4 họ xuất hiện với chiếc băng đỏ trên tay
với nhiệm vụ, không biết ai giao, điều khiển giao thông, giữ gìn an ninh trật tự.
Về sau, chính quyền sàng lọc số thanh niên băng đỏ này để ‘bồi dưỡng’ trở
thành... cán bộ cách mạng tại chỗ. Và dĩ nhiên, lớp thanh niên này còn ‘đỏ’ hơn
cả những bôn-sê-vích thứ thiệt.
- Trước đây anh làm gì?
- Tôi dạy học ở Trường sinh
ngữ quân đội Sài Gòn.
- Bây giờ phải gọi là thành
phố Hồ Chí Minh – Anh công an ‘sửa lưng’ hắn – Dạy học mà cũng lên tới cấp
Trung úy hả.
- Trong quân đội cứ đủ ngày
đủ tháng là lên lon thôi.
- Anh đã có gia đình chưa?
- Một vợ bốn con, tất cả đều
sống tại Sài Gòn.
Anh công an nhíu mày, có thể
vì thấy đã hơn một lần sửa lưng hai chữ Sài Gòn mà đương sự vẫn chưa thuộc bài.
- Vợ con ở thành phố Hồ Chí
Minh sao lại về Đà Lạt với bố mẹ?
Câu hỏi như cởi mở tấm lòng,
hắn vội vàng lên tiếng:
- Tôi cũng không hiểu tại
sao trong Quyết định lại nói về Đà Lạt.
Sau vài giây suy nghĩ, anh
công an giải quyết vấn đề một cách nhậm lẹ:
- Đà Lạt không nhận anh vì
anh có gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh.
Hắn thấy đã được gãi đúng chỗ
ngứa nên cầm Quyết định... rút lui có trật tự. Bỏ lại sau lưng thành phố Đà Lạt
với đầy ắp kỷ niệm thời niên thiếu, hắn lại khăn gói trở về Sài Gòn. Hắn bỗng
thấy mình trở thành một kẻ lưu lạc trên chính đất nước Việt Nam. Hắn nhận ra rằng
mình chỉ là kẻ đứng bên lề xã hội mới:
không hộ khẩu, không quyền công dân và trước mắt là không quyền hưởng chế
độ lương thực hàng ngày chứ nói chi đến những nhu yếu phẩm...
Một lần nữa lại lên cửa
quan. Về Sài Gòn, hắn trình diện công an phường nơi vợ con đăng ký hộ khẩu.
Công an phường không giải quyết, bảo phải lên Công an Quận, nơi này lại đá trái
banh lên Công an Thành phố. Tại đây, họ bảo Quyết định cho về Đà Lạt thì cứ về,
nếu như trên ấy không nhận thì phải có lý do bằng văn bản.
Trong vòng một tuần lễ, hắn
lại mò về Đà Lạt lần thứ hai. Bầu không khí tại trụ sở công an phường trong buổi
làm việc lần thứ hai có vẻ cởi mở hơn sau khi hắn đã ‘biết khôn’: sai em gái
mang cây thuốc ba số 5 đến nhà công an bằng cửa sau. Hắn trình bày với anh công
an phường:
- Tôi đã về Sài Gòn, à quên,
thành phố Hồ Chí Minh. Họ bảo nếu Đà Lạt không nhận thì phải giải thích lý do bằng
văn bản...
Anh cán bộ trẻ bỗng dưng sốt
sắng:
- Được, tôi ghi ngay trên
Quyết định của anh.
Thế là mặt sau của Quyết định
ghi thêm: “Quyết định cho anh... về Đà Lạt với bố mẹ là không hợp lý vì đương sự
có vợ con đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh”. Bên dưới là chữ
ký và con dấu đỏ chót của công an Đà Lạt.
Giã từ Đà Lạt lần này hắn
mang tâm trạng của một kẻ phải rời xa quê hương nơi có cha mẹ và anh em sinh sống.
Không biết đến bao giờ mới được gặp lại. Thời buổi kinh tế khó khăn, việc đi lại
tốn kém, nhiêu khê, kẻ ra đi luôn mang ý nghĩ ‘một đi không trở lại’.
Giã từ mái trường Trần Hưng
Đạo nơi có bao kỷ niệm của thời học trò. Ngày xưa, thằng MTT, bạn cùng lớp với
hắn, bỗng dưng trở thành người nổi tiếng cả nước qua truyện Vòng tay học trò của
NTH. Nó và cô giáo H. yêu nhau và kết qủa là họ có một đứa con ra đời khi ông-bố-trẻ
vẫn còn mài đũng quần ở trường trung học! Vòng tay học trò là tiểu thuyết mà
cách mạng đánh giá thuộc loại “văn chương đồi trụy dưới thời Mỹ-Ngụy”.
TCP, bạn học cùng lớp, người
Việt gốc Chàm ở Ninh Thuận, trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng vào thập niên 60-70
với những bản nhạc tình ướt át. Ngày còn đi học, P. và hắn tham gia ban nhạc
trường Trần Hưng Đạo, chính vào thời điểm này những bài Bây giờ tháng mấy, Mùa
thu mây ngàn của P. được ban nhạc trường lăng xê trong một đại nhạc hội bằng giọng
hát của chính tác gỉa. Rồi đài phát thanh Đà Lạt ghi âm, phổ biến bài hát trên
sóng. Đến khi P. về Sài Gòn phút chốc bỗng nổi tiếng khắp miền Nam. Có lần gặp
lại P. ở Sài Gòn hắn hỏi kháy: Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em?
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm của
một thời đi học. Giờ thì xin giã biệt thành phố mộng mơ, giã biệt những buổi
chiều lang thang tìm hái hoa dại với người yêu học trò trong Vallée d’Amour,
giã biệt những đêm không ngủ, phóng xe máy Puch chỉ để... đếm cột đèn quanh hồ
Xuân Hương...
Giã từ căn nhà nơi hắn trải
qua thời thơ ấu. Căn nhà nằm trên con đường Lê Thái Tổ, sau này đổi là Hùng
Vương. Đà Lạt có con đường Trần Hưng Đạo nổi tiếng với những biệt thự đẹp nhất
thành phố. Điểm nối tiếp giữa Trần Hưng Đạo và Lê Thái Tổ là ‘Xóm Bà Thái’,
phát âm nghe như ‘Summer time’, là chốn ăn chơi do chị em ta kinh doanh nghề
không vốn. Đối diện với xóm ăn chơi là gara sửa xe hơi mang tên Mẹc-ti-nét.
Đi hết con dốc Lê Thái Tổ sẽ
gặp một ngã ba, một đường dẫn đến Trại Mát và một đường xuống Trại Hầm nổi tiếng
với trái mận Đà Lạt. Ai đó cũng khéo đặt những cái tên tương phản giữa Trại Mát
và Trại Hầm!
Từ căn nhà trên đường Lê
Thái Tổ có thể nhìn thấy những chuyến xe lửa từ Đà Lạt đi Tháp Chàm vào khoảng
7 giờ sáng, đến 4 giờ chiều lại có chuyến về từ phía bên kia thung lũng. Chiều
chiều hắn và bọn trẻ ngưng mọi cuộc chơi để vẫy tay chào mừng khách đi tàu lên
Đà Lạt. Đôi khi cũng có những cái vẫy tay đáp lại từ phía bên kia nhưng xa quá
nên chẳng thấy mặt người. Một kỷ niệm khó quên của thời thơ ấu...
(Còn tiếp)
(Trích Hồi Ức Một Đời Người)
***
16 Comments on Multiply
nguoigiaonline wrote on May
3, '11
Read and wait....
nguyenngocchinh wrote on May
4, '11
nguoigiaonline said “Read
and wait....”
The second part is coming
soon!
chackadao wrote on May 3,
'11
Cung tac bien, bien tac
thong.
Nguoi Viet bo nuoc ra di vi
ho bi don den duong cung !
Qua day, da so nguoi Viet
khong thanh cong giau co vi ho quen bai hoc co ban.
Hay dung cam, dan than, vi
trong qua khu o VietNam con co nhung ngay toi te hon.
High risks, high returns.
cuuphansinh wrote on May 4,
'11
Rất chua! Rất đúng với thực
tế lúc bấy giờ!
nguyenngocchinh wrote on May
4, '11
cuuphansinh said “Rất chua !
Rất đúng với thực tế lúc bấy giờ!”
Chỉ mong người anh em bên
kia chiến tuyến không chụp mũ... phản động!
darbluemx wrote on May 4,
'11
qua hay anh chinh oi. anh da
viet thay bao nguoi muon viet ve su that nhung ngay sau khi tan cuoc chien. mot
giong van hom hinh, te nhi, hay hon ca remark viet ve nuoc Duc sau lan that
tran. cam on anh nhieu lam. it ra thi trong chung muc nao do, chung ta cung con
co tam hon.
nguyenngocchinh wrote on May
4, '11
darbluemx said “qua hay anh
chinh oi. anh da viet thay bao nguoi muon viet ve su that nhung ngay sau khi
tan cuoc chien.mot giong van hom hinh, te nhi”
Xin cám ơn anh.
thahuong82 wrote on May 4,
'11
Tôi cũng ở ĐàLạt cũng ở đường
Lê Thái Tổ trước 75. Đọc laị những dòng hồi ký nói về ĐL lòng nao nao buồn muốn
khóc, những kỷ niệm xa xưa ở xứ sương mù lại hiện về như những thước phim quay
chậm
nhưng còn đâu... ĐL ơi! thôi
giả từ em nhé...................
giahien wrote on May 4, '11
pha chút dí dỏm, chút chua
chát ... để người đọc cảm nhận được vị đắng.. nghét cũa một thời tăm tối trên đất
Việt. Anh viết hay lắm
nguyenngocchinh wrote on May
4, '11
giahien said “pha chút dí dỏm,
chút chua chát ... để người đọc cảm nhận được vị đắng.. nghét cũa một thời tăm
tối trên đất Việt. Anh viết hay lắm”
Anh quá khen. Thanks.
songhong wrote on May 4, '11
Hay quá. Thế mà ngày xưa
không thấy anh viết trong nguyệt san cuả trường. Phải là "đổi đời"
anh nhỉ.
nguyenngocchinh wrote on May
4, '11, edited on May 4, '11
songhong said “Hay quá. Thế
mà ngày xưa không thấy anh viết trong nguyệt san cuả trường.”
Anh Tiến ơi, ngày xưa vừa bận
rộn lại vừa ham chơi nên chẳng màng đến chuyện viết lách. Bây giờ già rồi nên mới
có thì giờ ngồi nhớ lại, viết hồi ức để bạn bè và con cháu chia sẻ...
andropause wrote on May 4,
'11
Em phải 'forward' cái bài
này cho mấy anh bạn thân mới được, mấy anh ấy toàn là BS quân y cũng từng học tập
cải tạo. Dalat và SG quả là hai thành phố rất tuyệt, giờ tan nát hết, thật uổng.
Công nhận anh nhớ dai ghê, các chi tiết anh chọn rất 'điển hình' cho thời kỳ ấy.
Chờ phần hai .
nduyle wrote on May 6, '11
Chỉ còn thiếu mùi susu luộc
và khói củi ngo...
kennytran wrote on Sep 10,
'11
Chon giua DL hay SG thi ong
van la nguoi may man vi do la hai thanh pho dep nhat cua mien nam, cai xui cua
ong la cai hen cua nguoi khac, ong van la nguoi do so.
No comments:
Post a Comment