Tuesday, March 3, 2020


Thằng Khùng trong trại tử tù.


samedi 9 mars 2013

Thằng Khùng trong trại tử tù. Theo lời kể của Nguyễn Tuân - RAT HAY



    Đây là một câu truyện thậ­t của một vị Linh Mục khả kí­nh. 

    Phải nói Ngai là  một vị Thánh.  Ngài đã chết trong tay Việt Cộng.

(viết lại theo lời kể của nhà  thơ Nguyễn Tuân)



"… Anh ta vô trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội ch­ính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và  cũng không có phong độ của người làm chí­nh trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là  một khúc củi rều, do một tr­ận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vô hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó.

Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà  cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ­ít khi thấy anh ta mở miệng dù là  chỉ để nhếch mép cười. Th­ật ra anh ta chỉ là  người quá ­ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kí­nh, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung k­ính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là  khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và  giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm r­ửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm r­ửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm r­a, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và  bậ­t khóc.

Anh ta khóc đau đớn và  thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là  anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

- Thằng tù chết ấy là  cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà  không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là  vong hồn hắn, cán bộ muốn x­ích cổ, cũng không xí­ch được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là  anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và  nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chấy, đí­t thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân th­ật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là  ai vậ­y? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậ­c đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình vì  anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội l­ửa. Bãi sông đầy cát và  sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già  gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và  sỏi. Người l­ính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và  mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà  đầu không quay lại:

- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và  chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

- Nếu bây giờ có sách thì anh th­ích đọc ai? - anh ta hỏi.

- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và  lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà  mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó ch­ính là  tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà  Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và  Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thí­ch nhất tác phẩm nào?

Mình s­ng sốt nhìn anh ta, và  tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một c­u làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là  Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

- Tôi th­ích nhất l  Candide.

- Anh có th­ích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

- Không phải đọc mà  nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậ­m rãi, phát âm chuẩn và  hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người l­nh gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".

- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

- Anh là  ai v­ậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

- Tôi là  cái thanh ngang trên cây th­ập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:

- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người l­ính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là  nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử­ tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có l­ính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co gi­ật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và  lên cơn co gi­ật.

Người l­ính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ng­ả ra. Người l­ính canh ngờ rằng đó là  một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà  không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay l­ập tức vào biệt giam.

Mình nói:

- Thưa cán bộ, thậ­t tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng c­u một đạo bùa để xua đuổi bệnh t­ật và  tà  khí­.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

________

Ghi Chú:

(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là  Cha Chá­nh Vinh, tức là  Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà  thờ lớn Hà  Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện th­ật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử­ của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và  cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,

Cha chí­nh Hà  Nội, (1912 – 1971).

Tấm gương can trường.

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà  Nam.

C­u Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thu­ật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. C­u biết k­ính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là  Cố Hương, một cha người Pháp tên là  Dépaulis giới thiệu c­u lên học tại trường Puginier Hà  Nội. Năm 1928, c­u học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà  Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges .

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và  tiếp tục học tậ­p.

Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và  hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của Ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là  phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”

Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là  một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là  inh cương trực, dưới nụ cười là  ý chí­ sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử­ nhân Văn Triết ở Sorbone, Ngài gia nh­p dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo ph­ận đã bổ nhiệm Ngài làm cha xứ Nhà  Thờ Lớn Hà  Nội. Ngài xin Bề trên l­ập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc l­ập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà  Thờ Lớn Hà  Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và  bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà  thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.

Tướng De Lattre rất tức gi­ận, gọi cha Vinh tới, đ­ập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đ­ập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; Ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phậ­n Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm Ngài làm Cha Ch­ính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà  préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những t­ín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và  giáo sư đại học, nhiều người gia nh­ập đạo. Sau chí­nh quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Ch­ính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cử­a.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê c­ cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục Ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà  còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của Ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và  là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm th­ật tuyệt, ch­ính Ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.

Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học t­ập chu đáo nên đã sáng tác và  để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí­ Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-V­t.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Th­t,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh T­ Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 v  nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần Ngài đến dạy nhạc, xướng âm và  p hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là  ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, ch­ính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí­ lớn về v­ật liệu và  tiền công.

Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vậ­t liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí­ ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.

Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luậ­n không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chí­nh Ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:

“Tự do thế này  !”

Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí­ không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử­. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Ch­ánh xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

Cha Ch­ánh Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ t­ập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là  trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân trọng­ tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, Ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế Ngài bị kỷ luậ­t, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà  lim tối. Mấy tháng sau được ra, Ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:

“Tại sao bị cùm, bị kỷ lu­ật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”

Ngài đáp:

“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn ph­ận mình!”

Ở tù đói rét là  đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già  nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhậ­n được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà  Chung Hà Nội, g­i lên, trong đó có ­tí thức ăn, lương khô và  vài đồ dùng cá nhân, Ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi Ngài là  “Bố.”

Ngay trong nhà  tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, Ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, Ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và  Chí­nh phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được Ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà  lim, biệt giam và  án tù­.

Năm 1971, khi Ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, ch­ính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Ch­nh Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và  làm chứng cho đức tin, khi thuậ­n tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử­ thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

Cha Ch­nh Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là  một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, h­ậu thế kí­nh tôn và ghi ân Ngài.

TGP H  Nội - 2013

BBT (Theo HĐGMVN)

Publié par Anonyme à samedi, mars 09, 2013 

No comments:

Post a Comment