Khi Trung Hoa bay vào không gian bao la thì Việt Nam vẫn còn mơ ra biển lớn
Khi Trung Hoa bay vào không gian bao la thì Việt Nam vẫn còn mơ ra biển lớn
Tác Giả: Nguyễn Hữu Liêm -21/06/2021
Trung
Hoa phóng
thành công tàu Thần Châu-12.
Ảnh: Tân
Hoa xã
(Bị dị
ứng
với
TQ: nước
ở giữa, bọn ở chung quanh là lũ man di, mọi rợ. Tôi đã đổi TQ thành Trung Hoa. ĐCSTQ -> ĐCSTH)
Trung Hoa đưa phi hành đoàn đầu tiên lên trạm vũ trụ mới. Tàu Thần Châu-12 đã được phóng lên bằng tên lửa đẩy Trường Chinh 2F từ bãi phóng Tửu Tuyền trên sa mạc Gobi vào lúc 09:22 giờ Bắc Kinh (01:22 GMT). Vụ phóng và sứ mệnh tiếp sau đó là một minh chứng khác cho thấy sự tự tin và năng lực ngày càng tăng của Trung Hoa trong lĩnh vực
không gian. (Theo BBC tiếng Việt,17 tháng 6, 2021).
Tại sao Châu Âu qua mặt Trung Hoa.
Một chút lịch sử. Chuyện kể rằng ở thời nhà Minh ở thế kỷ 15, có một học giả nổi tiếng Trung Hoa tên là Vương
Dương Minh (Wang Yangming) đã bỏ ra bảy ngày đêm để nhìn vào một cây măng nhằm hiểu về nó. Cuối cùng ông đã
bị ngã bệnh và tuyên bố rằng sự nghiên cứu nhằm thông hiểu về thế giới khách quan chỉ có thể đạt được khi cá nhân trở về lại quán chiếu đời sống nội tâm.
Một sử gia thiên nhiên của triều đại nhà Thanh,
Liu Xianting (Lưu Hiển Đình) cũng đã viết trong tinh thần tương tự, “Ta có nghe nói rằng một miếng sắt có thể ngăn cản một khúc nam châm khỏi hấp lực một miếng sắt khác và đã bày ra thử nghiệm để xác nhận điều đó.
Tuy nhiên, đó là việc không cần thiết bởi vì những thử nghiệm như thế chỉ đưa
đến những sự thật nhỏ nhoi. Ta cũng nghe
nói rằng củ tỏi có thể ngăn cản cục nam châm khỏi hấp lực một miếng sắt. Ta cũng chưa hề thử nghiệm điều này.”
Ðây có thể là những chuyện nhỏ của lịch sử
Trung Hoa, nhưng chúng nói lên một thảm kịch lớn của tinh thần
trí thức người Tàu, vốn nằm ngủ trong học thuyết và truyền thống Khổng Mạnh, để rồi bỏ lỡ nhiều cơ hội cách mạng khoa học cho nền văn minh cổ đại lớn lao này. Ðối với người Trung Hoa thời đó, mọi quy trình thực nghiệm (empirical experimentation) đều vô ích. Vì thế, khoa học của người Tàu cho đến cuối thế kỷ 20 vẫn còn ở lại với trình độ thủ công và thực dụng, không có nền tảng bằng chứng thực nghiệm để vươn lên tới chiều cao lý thuyết.
Cũng ở thời gian đó, cuối thế kỷ 15, thì ở Âu Châu một cuộc cách mạng khoa học đang trổi dậy như cơn thuỷ triều. Khi mà Dương Vương Minh ngồi nhìn cây măng, thì ở Ý, Leonardo da Vinci (1452-1519) đang vẽ nàng Mona Lisa với nụ cười bí mật đồng thời thực hiện những thí nghiệm phẩu thuật về cơ thể con người và thiết kế những máy móc gia dụng khác. Vinci tuyên bố rằng khoa học chỉ là vô dụng và đầy những phi lý nếu nó không được minh xác bằng con đường thực nghiệm.
Leonardo
da Vinci was
an Italian polymath of the High Renaissance who was active as a painter,
draughtsman, engineer, scientist, theorist, sculptor and architect.
Ðó là quan điểm chung của giới trí thức khoa học Âu Châu đương thời – một lập trường tri kiến phát xuất từ siêu hình học Aristotle.
Cùng lúc này, Ferdinand Magellan vừa hoàn tất chuyến viễn hành vòng quanh địa cầu lần đầu tiên, Paracelsus khám phá ra hóa học y khoa, còn Copernicus và Vesalius đã đem một cách mạng mới về vũ trụ quan và khoa học – thuyết “Thái dương tâm luận” (Heliocentrism) – vốn thay thế “Địa cầu tâm luận (Geocentrism) với hai đại
tác phẩm De revolutionibus Coelestium và De humani
corporis fabrica.
Ngoài sự khác biệt về vũ trụ quan và nhân sinh quan, thì có một sự phân định quan trọng cho lý do tại sao mà cuộc cách mạng khoa học đã được khởi sinh ở Âu Châu thay vì ở Trung Hoa: sự độc tài của các cơ chế xã hội. Sở dĩ khoa học được tung cánh ở Âu Châu vào thời đó là nhờ sự xuống dốc của quyền lực
giáo hội La Mã – vốn đã đè nén
năng lực trí thức Tây Âu suốt mười lăm thế kỷ mà sử ký gọi là “Thời đại Bóng tối” (the Dark Age). Cho đến khi sự độc tôn trí thức bởi giáo quyền đi vào thoái
trào, thì cây cổ thụ khoa học của nhân loại được vươn lên ngay ở Âu Châu.
Trong khi đó, ở Trung Hoa, dù trí thức không bị áp chế bởi một giáo hội – nhưng họ lại bị nghiêm trị bởi các cơ chế chính trị vương quyền. Mọi triết học và lý thuyết khoa học đều nhấn mạnh đến
sự biện minh cho chính thống tính của Thiên tử và trật tự vương quốc liên hệ. The Dark Age của chính trị Trung Hoa vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.
Gánh nặng vũ trụ luận
mơ hồ và văn hóa bảo thủ
Trên một phương diện khác, Trung
Hoa mang một gánh nợ trí thức thứ hai không kém nặng nề và phản tiến bộ. Ðó là một truyền thống bản thể luận thiếu minh bạch. Trong lúc khoa học Tây phương đang vươn lên không gian bao la thì người Tàu vẫn còn bị dính chằng chịt vào một hệ thống vật luận
(metaphysics) huyền bí và mơ hồ.
Khúc Nhân Tông (Quin Renzong), giáo sư triết ở Bắc Kinh, đã viết, “Các hiện tượng đa dạng của vũ trụ đã chỉ được hiểu (bởi người Tàu) với những hệ thức (schemes) như là Âm-Dương, Nhu-Cương…
Trong khung thức Âm-Dương,
Nhu-Cương, những hệ thống vũ trụ luận đại thể (holistic cosmic
systems) được thiết lập, mà
trong đó, sự phân
biệt giữa hiện tượng thiên nhiên và những vấn đề xã hội vốn trở nên
rất lu mờ. Hai hệ
thống đại thể Âm-Dương
và Nhu-Cương này được coi như là
nền tảng của thiên văn học và là một bí thuật, không thể bị chứng minh là sai – do vậy mà không được thay đổi cả hàng ngàn năm.”
Hãy tưởng tượng rằng một Hi Lạp mà siêu hình học bị dừng lại ở Plato – và Aristotle không
bao giờ xuất hiện. Ðó là trường hợp của Trung Hoa. Sau Khổng Tử
– mà triết học rất gần với Plato – không còn có một triết gia tầm cỡ nào phủ định và vượt qua ông cả. Từ đó, nền tảng bản thể học và vũ trụ luận của người Tàu bị đông lạnh. Chúng trở nên cơ sở biện minh cho chính thống chính trị vương quyền Trung Hoa suốt cả chiều dài lịch sử của họ – cho đến ngày người Cộng sản đứng lên làm lịch sử với biện minh nhân dân và giai cấp mới. Tuy nhiên, dù Marx hay không Marx, bản chất đế quyền của người Tàu vẫn không hề thay đổi: khép kín, độc tài,
cưỡng chế, bạo
lực. Chính trị Cộng sản chỉ là một chiếc bình mới cho một chất rượu văn hóa chính trị cổ đại mà người Tàu cho đến bây giờ vẫn còn đang bị đóng khung.
Con người và văn hóa Trung Hoa mang nặng tính bảo thủ, cố chấp, và bản địa. Tính dân tộc của họ rất là cao – nhiều khi đến độ không cần thiết. Thế hệ ngườì Hoa thứ hai, thứ ba, sinh ra ở các quốc gia khác, như ở Mỹ hay ở Việt Nam, vẫn coi Trung Hoa là “mẫu quốc” và vẫn cho mình là người Hoa. Có thể nói rằng vì tinh thần văn hóa này mà người Hoa đã kiến lập một vũ trụ luận sai lầm. Khi Alexander de Rhodes đến truyền giáo ở Trung Hoa vào những thập niên đầu của thế kỷ 17, ông đã có lần viết, “Người Trung Hoa tưởng đất nước của họ là tất cả những gì đẹp nhất cõi đất. Họ bỡ ngỡ khi nhìn vào bản đồ của ta (Pháp), cho thấy nước họ chỉ nhỏ bé so với toàn quả địa cầu. Họ có bản đồ của họ, họ vẽ trái đất vuông, Trung Hoa ở giữa (vì thế mà gọi là Trung Hoa), biển ở dưới với mấy đảo nhỏ, một đảo là Âu Châu, đảo khác là châu Phi, đảo khác nữa là Nhật Bản. Do đó, chúng tôi cho họ biết họ chẳng thông thái gì hơn chúng tôi.”
Alexandre
de Rhodes was
an Avignonese Jesuit missionary and lexicographer who had a lasting impact on
Christianity in Vietnam. He wrote the Dictionarium Annamiticum Lusitanum et
Latinum, the first trilingual Vietnamese-Portuguese-Latin dictionary, published
in Rome, in 1651.
Ðã mấy ngàn năm,
trong vòng ảnh hưởng của văn hóa chính trị trưởng thượng với một vũ
trụ luận giới hạn và thuần bản địa của người Tàu mà lịch sử Việt Nam quay theo. Dân tộc và lịch sử Việt chỉ như là một chiếc bóng xoay vần theo một cái trục lớn, chắc nịch, đầy thành kiến của ý thức và tâm hồn của người Tàu. Con người và văn hóa Việt Nam chỉ là những mẫu sao chép thiếu khả năng và vụng về từ các nguyên bản Trung Hoa.
Tàu Thần Châu và không gian mới
cho Trung Hoa
Khi con tàu Thần Châu 12 phóng
cao lên không gian để vươn ra khỏi bầu khí quyển của trái đất để làm việc tại trạm vũ trụ mới, đây là một bước ngoặc mới cho khả năng khoa học kỹ thuật của quốc gia cổ đại nầy.
Trên phương diện biểu tượng, thì đây là
lúc mà văn minh Trung Hoa vừa vươn thoát khỏi chính mình –
vươn ra khỏi vòng kiềm toả của tính dân tộc, tính bản địa, tính lịch sử và nhân sinh quan cổ đại. Vũ
trụ luận Trung Hoa nay đang được bùng vỡ. Vỏ trứng gà văn hóa
thượng cổ đang mất dần
sức mạnh biện minh nhằm nuôi dưỡng một chính thống tính chính trị đã nghịch thời.
Người Hoa hôm nay đã bắt đầu nhận thức ra một thế giới phổ quát và một vũ trụ luận tương xứng với thời đại.
Cơ năng internet, ý thức pháp luật, phong trào dân chủ và nhân quyền, khoa học và công nghệ Tây phương – với những ưu và khuyết điểm của chúng – đang góp phần đưa con tàu ù lỳ Trung Hoa vào thế kỷ mới. Ðây mới là một “bước nhảy vọt” văn hóa đích thực – dù đã quá trễ – cho người Tàu.
Ta hãy nhìn sự kiện Thần Châu 12 nầy trên ý nghĩa biểu tượng chính trị. Sau khi hỏa tiển Trường Chinh 2F (Chính thể) đẩy Thần Châu (Ý thức và Tinh thần) lên được vào không trung, thì hỏa tiển Trường Chinh bị phế
bỏ ngay sau đó. Ðây là một biểu tượng ngoạn mục – và bất ngờ – cho năng lực đào thải thể chế chính trị bằng sự vươn lên của tinh thần và ý thức, dù là thể chế đó đã huy động được nhân tài và vật lực cho chuyến tàu không gian này.
Mấy giờ đồng hồ sau khi vào quỹ đạo ngoài trái đất, nhìn xuống quả địa cầu tròn trịa và một nước Trung Hoa tương đối nhỏ bé so với tất cả vũ trụ và không gian, chắc là ba phi hành gia – Nhiếp, Lưu và Thang – đã phải thốt lên, “Hảo thị, hảo thị.”
Không biết có phải ba người không gian – taikonaut – nay đã nhận thức ra rằng đã đến lúc văn minh và tâm thức Trung Hoa thực sự đang được giải phóng.
Quỹ đạo mới cho
Việt Nam và vai trò của Đảng
Và nếu Trung Hoa đang vươn thoát ra khỏi quỹ đạo giới hạn của họ,
thì liệu Việt Nam chúng ta nay đã đến lúc tung
mình ra khỏi quỹ đạo Trung Hoa
– và giải phóng ngay cả cái vòng kềm tỏa văn hóa dân tộc và chính trị đầy bóng tối quá khứ của chính mình.
Câu hỏi ở đây là, tại sao cũng một thể loại thể
chế chính trị, cũng độc tài toàn trị, cùng văn hóa bảo thủ, mà Trung Hoa có thể đi vào không gian, vươn mình theo quỹ đạo lớn hơn, nhưng Việt Nam lại không thể làm được?
Dĩ nhiên, Việt Nam là một nước nhỏ, mang tâm thức nhược tiểu. Cho đến nay dân ta vẫn chỉ còn nuôi giấc mơ ra biển lớn chứ chưa tưởng tượng đến không gian vô
tận. Cuộc chiến vừa
qua cũng đã làm cho quốc gia kiệt sức, và phong
trào di cư ra hải ngoại sau 1975 đã như là một lỗ hổng lớn của hồ nước
nhân tài. Cả hai vế mất mát – tinh thần và nhân lực – vẫn chưa được hồi phục
vì nước ta vẫn còn thiếu sót trầm trọng trong việc kêu gọi và thu phục nhân tài trở về nước, lấy lại nguồn chất
xám đã thoát ly.
Ít nhất là từ thế kỷ 15, ở Trung Hoa đã có những Vương Dương Minh, dám viết ra những điều mình tin tưởng và suy nghĩ, để rồi con cháu của truyền thống Khổng Mạnh đó đến thế kỷ 20 khi tỉnh thức đã biết cha ông họ đã sai lầm và lạc hậu như thế nào. Còn Việt Nam ta vẫn ngủ yên trong giáo điều văn hóa chính trị từ hơn thế kỷ trước, không biết mình sai lầm ở đâu, và vẫn mang tự ái nhược tiểu để không có can đảm và viễn kiến nhìn vào khuyết điểm từ quá khứ.
Việt Nam chỉ có thể chinh phục biển lớn và bước vào không gian bao la khi nào chế độ chính trị hiện nay biết nhìn lại mình, sửa sai khuyết điểm cơ bản vĩ mô của hệ thống công quyền, vượt qua tinh thần bảo thủ cố chấp, biết tưởng tượng đến một tương lai
lớn hơn cho dân tộc. Khi Đảng Cộng Sản biết vượt lên và sửa sai những chính sách nhân dụng giả vờ, nửa vời, nặng bản
chất chính trị hiện nay đối với Việt kiều thì không gian tương lai sẽ rộng mở. Đó là một tương lai bao gồm, chung tay, nhằm thu phục những
bộ óc khoa học gốc Việt lớn trên thế giới về nước để cùng góp tay chế tạo một tàu không gian Thần Châu/Phù Đổng cho Quốc gia.
Đảng ta đang là tên lửa Trường Chinh vốn được lắp đặt từ thế kỷ trước.
Nó đã bị hư hỏng từ cơ bản.
Muốn vươn vào không gian vô tận ư! Đảng phải biết thay đổi chính mình để xây dựng một thế hệ Trường Chinh mới – khi đó thì may ra sẽ có một con tàu vũ trụ Phù Đổng bay cao vào vũ trụ bao la.
Nguyễn Hữu Liêm
là giáo sư triết tại San
Jose City College. Đến Mỹ năm 1975 sau ngày
30/4, Nguyễn Hữu Liêm
đi học cử nhân
kinh tế nông
nghiệp, rồi học thạc sĩ về quản lý công (ĐH Texas). Về California công tác, ông tiếp tục đi học luật. Nguyễn Hữu Liêm tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa năm 1987 tại University of
California, Hastings College of the Law, là
chủ một
hãng luật tư nhân tại Mỹ. Vẫn không
dừng lại,
Nguyễn Hữu Liêm tiếp tục trở lại
trường ĐH, lấy bằng thạc sĩ triết học tại San Jose State University, tiến sĩ
triết học tại California Institute for Integral Studies.
———————–
Tham khảo: Time, Science, and Society in China and the West. Fraser, Lawrence and
Haber (Ed.), MIT Press, (1986)