Ký Ức Về Những Bài Học Thuộc Lòng Thời Tiểu Học
http://www.buctranhvancau.com/new-blog/2020/9/12/k-c-v-nhng-bi-hc-thuc-lng-thi-tiu-hc-duc-pho
Ký Ức Về Những Bài Học Thuộc Lòng Thời Tiểu Học (Duc Pho)
September 12, 2020
Sept 7, 2020
Bài đăng trên trang web ncctv.net
Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc Tiểu Học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên
cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức
là lớp thấp nhất, thường do các Thầy Cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách.
Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.
Học trò, không phân biệt giàu nghèo,
khi đến lớp, chỉ được dùng một thứ bút duy nhất là bút ngòi
lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực thường là mực tím, có một cái khoen nơi
nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phểu, dưới nhỏ, trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò.
Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lỗ tròn vừa vặn, khoét sẵn trên bàn học cho bình mực khỏi ngã, đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút
nguyên tử, là thứ đầy hấp dẫn đối với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.
Các Thầy Cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm thì sợ khi học trò lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một Thầy hoặc một Cô duy nhất phụ trách tất cả các môn.
Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con, chứ không xưng em với Thầy. Về việc dạy dỗ, không Thầy nào dạy giống Thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như
nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm thì phải đọc thông, viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ; lớp Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học nào giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng.
Cứ mỗi năm lại có các Ban Tu Thư,
có thể là do tư nhân tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới, giấy trắng tinh, rồi đem
phân phối khắp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các Thầy Cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của
Bộ Giáo Dục là được.
Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên, khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là gây ấn tượng hơn nhiều.
Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ, rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn Dân Tộc Việt.
Tôi còn nhớ rõ trong
sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng từ rất hoa mỹ là túc cầu:
Trận Cầu Quốc Tế
Chiều chưa ngã,
nắng còn
gay gắt lắm
Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân
Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần
Để cổ võ
cho trận cầu quốc tế.
Đoàn
tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé
Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa
Còi
xuất quân
vừa lanh lảnh ban ra
Thì
trận đấu đã
vô cùng sôi nổi.
Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới
Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn
Khiến đối phương
thành rối loạn, hoang
mang
Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ
Thiếu bình
tỉnh, một vài
người chơi dữ
Nên
trọng tài
cảnh cáo
đuổi ra sân
Quả bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết hai hiệp và…đội nhà
đã thắng
Ta tuy bé,
nhưng đồng lòng
cố gắng
Biết nêu
cao gương đoàn kết đấu tranh
Khi giao banh, khi phá lưới, hãm
thành
Nên
đoạt giải dù
địch to gấp bội…
Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết là lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”…
Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng
thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên
tự nhiên… thuộc lòng luôn.
Càng đọc, càng ngẫm nghĩ đó đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một Dân Tộc tuy nhỏ bé, nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục!
Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại, còn những lời “đao to, búa lớn ồn ào” chắc chi đã làm được việc.
Nói về môn Lịch Sử, hồi đó gọi là Quốc Sử, đã có sẵn bài học thuộc lòng như sau:
Giờ Quốc Sử
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc Sử.
Thầy tôi bảo:
“Các
con nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng
thưở trước của Giang San,
Đã
đổ máu
vì lợi quyền Dân
tộc.
Các
con nên đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này
mong nối chí
Tiền Nhân.
Ta
tin rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân
Tộc Việt vẫn là
dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng
trên sông núi Việt Nam.
Bên
những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng,
vinh quang và hạnh phúc!”
Hình ảnh ông Thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện lên, nghiêm
nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của Thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau, chúng tôi vẫn nhớ như in.
Lại có bài song thất lục bát về ông Thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái còn in cả hình minh họa Quần Đảo Trường Sa và Hoàng Sa:
Hôm
qua tập vẽ bản đồ,
Thầy em lên
bảng kẻ ô
rõ ràng.
Ranh
giới vẽ phấn vàng
dễ kiếm,
Từ Nam Quan cho đến Cà Mau.
Từng nơi, Thầy
thuộc làu
làu,
Đây
sen Đồng Tháp,
đây cầu Hiền Lương,
Biển Đông,
trùng
dương xanh thẳm,
Núi
cheo leo Thầy chấm màu
nâu.
Tay đưa
mềm mại đến đâu,
Sông
xanh uốn khúc,
rừng sâu
chập chùng…
Rồi với giọng
trầm hùng,
Thầy giảng:
“Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng,
Trải bao thăng giáng, phế hưng,
Đem giòng
máu thắm, bón
từng gốc cây.
Làn
không khí giờ đây
ta thở,
Đường ta đi, nhà ở nơi này,
Tổ tiên từng chịu đắng cay,
Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta.
Là
con cháu muôn nhà gìn giữ,
Đùm
bọc nhau, sinh tử cùng nhau.
Tóc
Thầy hai thứ từ lâu,
Mà
tài chưa đủ làm
giàu núi sông!
Nay
chỉ biết ra công
dạy dỗ,
Đàn
trẻ thơ mong ở ngày mai.
Bao
nhiêu hy vọng lâu
dài,
Dồn vào tất cả trí
tài các con…”
Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ?
Lời của Thầy
thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga
tráng lệ, thiêng liêng, vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp.
No comments:
Post a Comment