Thuyết định mệnh (2/3): Phá giải những hiểu lầm về thuyết định mệnh
Posted on August 24, 2020 by dongsongcu
Tường Hòa (biên dịch)
Người trong
thiên hạ nhiều
như thế, người sinh cùng ngày, tháng, năm rất nhiều, nhưng tại sao vận mệnh của họ ai nấy đều không
giống nhau?
Thuyết định mệnh
(P2): Phá giải những
hiểu lầm về thuyết định mệnh
Xem lại:
Phần 1: https://www.ntdvn.com/chuyen-de/thuyet-dinh-menh-va-thien-dao-thay-doi-menh-p-1-3793.html
Văn hóa
truyền thống Á
Đông có lịch sử lâu đời, được truyền thừa qua 5000 năm, thời kỳ sớm nhất là văn
hóa Thần truyền, có nội hàm rộng lớn tinh thâm: tôn sùng Trời Đất, tín Trời kính Thần, Thiên – Nhân cảm ứng, Thiên – Nhân hợp nhất, tín ngưỡng Phật, Đạo, Thần, niềm tin vào
Thiên Đường hay Địa Ngục,
sự tái sinh hay luân hồi…
Thuyết định mệnh cũng nằm trong số đó. Trong chính sử, bút ký văn nhân, tiểu thuyết các thời đại đều có ghi chép về việc này. Nội hàm trong văn hóa truyền thống Á Đông nhấn mạnh vào sự giáo hóa đạo đức; nhưng không chỉ có tác dụng giáo hóa đạo đức mà còn phản ánh những hiện tượng tồn tại độc lập và
khách quan, vượt lên
trên những lý luận khoa học thông thường. Ví dụ như sự tồn tại của Phật, Đạo, Thần, hiện tượng thiện ác
nhân quả báo ứng, sự tồn tại của đức và
nghiệp, vận mệnh
tiền định… rất đáng cho người đời nay suy ngẫm và có
thêm một góc
nhìn khác để chiêm
nghiệm cuộc đời.
II. Phá giải những hiểu
lầm về thuyết định mệnh
Cùng năm, tháng,
ngày, giờ sinh… tại sao có người làm
hoàng đế, có người chỉ làm kẻ nuôi ong? Phải chăng toán mệnh không đúng?
1. Hiểu lầm
thứ nhất về thuật toán mệnh: Tại sao người sinh cùng
ngày, tháng, năm mà vận mệnh
lại khác nhau?
Đa
số những người phản đối toán mệnh có
cùng lý do rằng: Người trong thiên hạ nhiều như thế, người
sinh cùng
ngày, tháng, năm rất nhiều, nhưng tại sao vận
mệnh của họ ai nấy đều không giống nhau? Như vậy đủ
để minh chứng toán
mệnh không đáng tin.
Trước hết ta hãy biết điều này: trong văn hóa cổ đại có rất nhiều phương pháp có thể suy tính được vận mệnh như Bát tự Hữu Tử Bình, Chu dịch bát quái, Đại lục nhâm, Mai hoa dịch số, Thiết bản Thần số, Tử vi đẩu số, tướng mặt, tướng tay, xem sao, xem bói, nắn xương, đoán chữ, túc mệnh thông… Các phương pháp đều có sở trường và sở đoản riêng. Ví như một phương pháp có thể tính ra sự việc chi tiết nhưng những sự việc lâu dài thì lại chưa chắc đã chính xác. Nếu muốn biết chi tiết cụ thể sự việc thì không gì có thể bằng được túc mệnh thông.
Một phương pháp có
thể tính
ra sự việc chi tiết
nhưng những sự việc lâu dài thì lại chưa chắc đã
chính xác. Nếu muốn
biết chi tiết cụ thể sự việc thì không gì có thể bằng được túc mệnh thông.
Sách
Thanh Bại Loại Sao có chép: “Những năm Quang Tự, có người vô tình có được công
năng Thiên nhãn thông. Sự việc ở tương lai, dù động tác
cách xa cũng đều giống như xảy ra ngay trước
mắt, nhìn
thấy rất rõ ràng. Người đó cũng tự nói:
‘Tuổi thọ của bản thân
tôi không đến 30
tuổi sẽ chết yểu’.
Một lần anh ta thấy trước nhóm phỉ Nghĩa Hòa
quyền nổi loạn gây họa, liên
quân 8 nước tiến quân xâm nhập đánh quyết liệt, Tây
Thái hậu (tức Từ Hy Thái hậu) đưa hoàng
đế Quang Tự chạy trốn sang phía tây, tình trạng nhân
dân chịu khổ nạn. Từ đó anh ta ngậm miệng không
nói. Hàng ngày chỉ khóc lóc. Người nhà
hỏi nguyên nhân, anh ta mới nói
quốc nạn sắp xảy ra.
Sau mấy ngày, người này
quả nhiên chết, tuổi mới 28. Người
nhà
thu dọn đồ của anh ta phát hiện ra bên
gối có một bài viết dài.
Người nhà anh ta đều không biết chữ, không
biết trên đó viết gì. Sau 3 năm, quả nhiên
nhóm phỉ Nghĩa Hòa quyền gây họa. Người nhà
liền đem bài viết dài này đưa cho người biết chữ xem. Thì ra trên đó viết “Chiếu tự trách tội” của Tây Thái hậu lấy danh nghĩa vua Quang Tự, nhưng khi đó thánh dụ của triều đình
vẫn chưa tống đạt đến các tỉnh. Sau này
có người đem ra đối chiếu, không chỉ chữ viết không
sai khác mà ngay cả kiểu cách, số hàng,
màu giấy…, tất cả đều không sai một ly.”
Ưu thế của thuật toán mệnh theo giờ sinh bát tự là tính ra một đời người phú quý bần tiện, cùng thông yểu thọ là
có độ chính xác khá cao. Ví như đem mệnh con người chia làm 3 loại thượng, trung, hạ…
bát
tự có thể tính ra ở loại đẳng cấp nào. Nó tính ra được vận trình
lên xuống của cả đời người, tức là khi nào vận tốt, khi nào
vận xấu, việc này không còn có thể nghi ngờ. Nó
còn tính được hôn nhân tốt xấu, có
lực trợ giúp không, cũng có chứng nghiệm. Nhưng nếu muốn hỏi về sự việc chi tiết cụ thể như vợ họ tên gì, bao nhiêu tuổi… thì
những điều này không phải là sở trường của toán mệnh giờ sinh bát tự.
Bây giờ trở lại với vấn đề người sinh cùng giờ, ngày,
tháng, năm, tại sao vận mệnh cụ thể lại
khác
nhau? Trước tiên lấy một trường hợp có thực. Sách
Thanh Bại Loại Sao có ghi chép:
Thời triều Thanh, Thượng thư Bộ Lễ Uông Đình Trân và Thành Thư người Thịnh Kinh (Thẩm Dương) sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm. Uông Đình Trân đỗ tiến sỹ, Thành Thư đỗ cử nhân. Uông Đình Trân làm quan lục phẩm, Thành Thư ngũ phẩm. Khi Uông Đình Trân ngũ phẩm thì Thành Thư tứ phẩm. Khi Thành Thư làm Thị lang, thì Uông Đình Trân làm quan tam phẩm. Sau này Uông Đình Trân làm Thượng thư mà Thành Thư vẫn chỉ là Thị lang. Tước vị hai người luôn luôn chênh lệch không nhiều, quả là kỳ lạ. Tướng mạo hai người vô cùng giống nhau, năm mất của cha mẹ cũng khá tương đồng. Tác giả cho rằng địa điểm sinh của 2 người khác nhau do đó mới có sự sai khác đó, nhưng những gì trải qua trong cả cuộc đời, công danh sự nghiệp đều khá tương tự.
Toán mệnh giờ sinh bát tự dùng quan hệ biện chứng ngũ hành tương
sinh tương khắc để
tính ra đường
cong sinh mệnh. Đường cong này triển khai ở đâu còn chịu tác động của thiên thời, địa lợi, nhân
hòa hậu thiên. (Ảnh: Shutterstock).
Hai người này nếu nói
theo quan điểm của những người phản đối
toán
mệnh thì sẽ cho rằng, một người
làm
quan đến Thượng thư, một người là Thị lang, đây
rõ ràng là khác nhau, do đó toán mệnh không chuẩn, vận mệnh không tồn tại. Nhưng nếu
tinh ý
hơn một chút thì sẽ phát hiện ra, tuy tước vị và chức quan cụ thể khác nhau, nhưng nếu bỏ qua chi tiết cụ thể này thì thấy đường cong sinh mệnh
của hai người vô
cùng tương tự. Toán mệnh giờ sinh bát
tự chính là dùng quan hệ biện chứng ngũ hành tương sinh tương khắc chế hóa
để tính ra đường cong sinh mệnh này. Còn về đường cong sinh mệnh này triển khai ở đâu thì còn chịu tác
động của thiên thời, địa lợi, nhân hòa hậu thiên, do đó sẽ có
những khác biệt. Đây chính là một trong những nguyên nhân người sinh cùng giờ, ngày,
tháng, năm… mà vận mệnh cụ thể sau này có sự sai khác.
Còn
có trường hợp nữa tương tự. Sách
Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký
có ghi chép sự việc giờ
sinh bát tự của
hai vị phu nhân hoàn toàn giống nhau, kết quả tước vị của chồng họ cũng tương tự
nhau. Có thể thấy,
người có cùng giờ, ngày,
tháng, năm sinh… có sự việc
và trải
nghiệm cụ thể tuy không tuyệt đối giống nhau nhưng lại có nhiều điểm tương tự. Điều đó cũng
đủ để chứng minh căn cứ lý luận toán mệnh tứ trụ dùng giờ, ngày, tháng, năm sinh là có cơ
sở. Nếu cứ nhất định chức quan, quan phẩm phải
hoàn toàn như nhau thì mới tin thì đó là yêu cầu quá khắt khe đối với toán mệnh bát tự rồi. Trên thế giới hỏi có quốc gia nào chỉ căn cứ vào giờ sinh bát tự mà thấy được nhiều thông tin như thế? Tuyệt đối không có. Chỉ có văn hóa truyền thống Á Đông mới có được kỳ tích như thế này.
2. Hiểu lầm
thứ 2 về thuật toán mệnh: Giờ sinh bát tự của hoàng đế, trong dân gian cũng có người như thế, tại sao họ làm
không thể làm
hoàng đế?
Có người sẽ hỏi, giờ sinh bát tự của hoàng đế thì
nhất định trong dân gian cũng có người giống như vậy, tại sao họ không thể làm
hoàng đế? Mệnh của hoàng đế không
chỉ đơn thuần do giờ sinh bát tự quyết định, bát tự chỉ là một loại biểu hiện của thân thể vật chất khi họ
chuyển sinh đến nhân
gian, do đó hoàng đế cũng giống người thường cũng
có
sinh lão bệnh tử, có phiền não. Nhưng từ thuyết định mệnh mà nói, nguyên thần (linh hồn) của hoàng đế là do Thượng Thiên
an bài hạ thế, có mang theo sứ mệnh.
Sách Ngũ Tạp Trở do Tạ Triệu Chiết triều Minh biên soạn có
viết: Tương
truyền Minh Thái Tổ Cao Hoàng Đế (Chu Nguyên Chương) sau khi định thiên hạ đã tìm người có giờ sinh bát tự giống với mình. Ở Giang Âm tìm thấy một người, được đưa đến hoàng
cung. Chu Nguyên Chương muốn giết
ông ta, nhưng khi gặp thì ra
là một ông
già nhà quê.
Vua
bèn hỏi: “Sống bằng nghề gì?”.
Người đó
nói: “Chỉ nuôi 13 tổ ong, cũng đủ tự nuôi mình”.
Chu
Nguyên Chương cười và nói: “Ta cai quản 13 tỉnh và ông nuôi 13 tổ ong, chẳng phải giống nhau sao?”
Thế rồi trọng thưởng cho ông ta và cho trở về quê. Quả thực khí độ của đế vương khó mà luận đàm tương đồng với thường dân được.
Từ thuyết định mệnh mà
nói, nguyên thần
(linh hồn) của hoàng đế là do Thượng Thiên an bài hạ thế, có mang theo sứ mệnh. (Ảnh: Shutterstock).
Vậy thì phải chăng người thường tuy có giờ sinh bát tự như hoàng
đế, nhưng nguyên thần (linh hồn) của họ vốn chỉ là người dân
thường chuyển thế, không có sứ mệnh đặc thù,
đương nhiên sẽ không làm được hoàng
đế? Nhưng những trải nghiệm ở thế gian sẽ có những chỗ tương tự. Ví như Chu Nguyên Chương cai quản 13 tỉnh, người nuôi ong cai quản 13 tổ ong. Năm này hoàng đế mắc bệnh, thân thể khó
chịu, người có giờ sinh bát
tự giống với hoàng đế cũng sẽ có
sự việc không tốt trong khoảng thời
gian mấy năm đó…
3. Hiểu lầm
thứ 3 về thuật toán mệnh: Một trận động đất chết mấy chục nghìn người, lẽ nào đều là do mệnh chết?
Có người nói,
động đất ở Đường Sơn, chết hàng vạn người, đều là mệnh chết sao? Trong
đó
nhất định có người có giờ sinh bát
tự tố, có mệnh phú quý, tại sao lại chết? Họ lấy đó để chứng minh toán mệnh không
đáng tin. Đây là vấn đề vận Trời lớn hơn vận nước,
vận nước lớn hơn vận người.
Chu Dịch viết: “Trời hiển thị Thiên tượng để thấy hung cát“. Động đất là
một loại cảnh cáo mà Trời giáng
xuống nhân gian, nhắc nhở người thống
trị đã
có những sự việc trái ý Trời, làm
những việc tổn hại lẽ Trời, để nhắc nhở họ sửa chữa quy chính, hoặc sẽ có
thay triều đổi đại, hoặc quân vương sẽ chết. Cũng có
nghĩa là lúc này vận nước xuất hiện vấn đề, Thượng
Thiên
cảnh cáo và trừng phạt, người khu
vực đó
ở trong phạm vi trừng phạt của Thượng Thiên. Vận nước lớn hơn vận người, vận mệnh quốc gia không tốt thì
dù vận mệnh cá nhân có tốt cũng không đủ sức vãn
hồi.
4. Hiểu lầm thứ
4 về thuật toán mệnh: Nếu ai ai cũng tin họa phúc định trước thì mọi người sẽ không cần nỗ lực công tác nữa sao?
Còn có một cách
nhìn nhận nữa, cũng là ý kiến hiểu sai và
phản đối toán mệnh, hiện tượng này cũng khá phổ biến. Họ cho rằng, nếu ai ai cũng tin vào sự thành
bại được mất của con người là do vận mệnh đã
định, vậy mọi người không cần nỗ lực cần cù nữa, chỉ cần ngồi chờ
phúc
họa đến là được rồi. Như thế này thì các quan chức sẽ bê
trễ trị sửa chính sự, nông
dân cũng sẽ trễ nải cày cấy trồng trọt, công nhân chẳng tích cực làm
việc, kết quả sẽ không có người làm
việc, xã hội sẽ đình trệ, kinh tế sẽ sụp đổ.
Nghe ra có vẻ rất có
đạo lý. Ví dụ có thuật sĩ xem cho tôi 30 tuổi chuyển đại vận, hễ
đến là
giàu, tôi liền ngày ngày đi ngủ, đợi đến ngày
30 tuổi đến là được rồi. Nhưng từ đời
Đường thuật toán
mệnh đã được Lý Hư Trung tổng kết quy nạp ra lý luận toán mệnh bát
tự, đã lưu truyền hơn 1000 năm rồi,
hiện tượng như nói
trên không thấy xảy ra. Thực ra đây chỉ là
tưởng rằng đúng mà lại là sai, là cách nhìn
của người không hiểu lý
luận toán mệnh, chẳng qua chỉ là ‘nghĩ là đương
nhiên’ thôi.
Đã
có thể nói được ra họa phúc do vận mệnh đã
định, tại sao không nghĩ được rằng, một người cần cù nỗ lực hay không cũng là do mệnh chú
định? Điều này không phải lời hư giả. Một người nỗ lực hay không cũng có thể tính
toán ra từ trong mệnh lý.
Người hiểu thuật toán mệnh bát tự đều biết, trong bát tự có “lục thần”, tức là 6 loại quan hệ sinh khắc chế hóa của nhật can, tức là “tài, quan, sát, ấn, thực, thương”. Lục thần này giống như 6 loại gien trong mệnh con người (thực tế con người có khoảng 1900 đến 22000 gien, ở đây chỉ mượn nói ví dụ cho dễ hiểu thôi). 6 loại gien này sẽ quyết định tư tưởng và hành động của con người, mỗi gien đều đại biểu cho chức năng trong phạm vi của mình. Ví dụ tài tinh kiểm soát vấn đề phương diện tiền tài trong mệnh con người; quan tinh kiểm soát vấn đề trên phương diện thanh danh, quan trường; thương quan, thực thần tinh là sao phát huy, phát động. Như trên đã nói, con người nỗ lực hay không, khi nào nỗ lực thì cần phải xem 2 sao này.
Trong bát tự có “lục thần”, tức là 6
loại quan hệ
sinh khắc chế hóa của nhật can, tức là
“tài, quan, sát, ấn, thực,
thương”. Lục thần này giống như 6 loại gien trong mệnh con người. (Ảnh: Pixabay).
Đương nhiên tất cả những sao này đều có nhân tố chính
diện và phản diện. Tài tinh có thể chỉ việc kiếm được tiền, cũng có thể chỉ việc phá
tài hao tài. Quan tinh có thể đại biểu cho cơ hội
thăng chức, cũng có
thể dự liệu việc mất chức. Sao thương quan, thực thần, người
ta gọi đó
là sao hành động bởi vì chúng là ngũ hành
do nhật chủ sinh ra, mỗi người đều phải tự mình làm việc, phát
huy tài năng. Có người phát huy thành công,
sáng nghiệp kiếm tiền, có người thì
thi ân báo oán, hảo tâm không được hảo báo,
càng làm càng vất vả, còn mất đi phúc
khí của mình. Việc này cần phân
tích sự phối hợp chỉnh thể của bát tự, xem chúng
là hỷ dụng thần hay là kỵ thần. Là hỷ dụng thần thì
có được kết quả tốt đẹp. Là kỵ thần thì sẽ phá
tài, mất quan, làm tốn công vô ích, ‘lợn lành
chữa lợn què’… Những việc này là việc mà
thầy toán mệnh chân chính có thể nhìn
ra được.
Có bậc phụ huynh có
lẽ đã trải nghiệm qua việc
con mình
học Tiểu học thì thành tích không tốt, cho dù
là thầy cô giáo đốc thúc thế nào,
cha mẹ nỗ lực ra sao, học thêm, phụ đạo thế nào,
tất cả đều không có tác dụng. Nhưng đến Trung học, thành tích học tập đột nhiên nhảy vọt lên,
mà cũng không có ai đốc thúc, rất tự giác
nỗ lực, bỗng nhiên đứng đầu lớp. Đây
chính là thuở thiếu niên chưa gặp vận tốt, cho dù nỗ lực thế nào, đốc thúc
ra sao thì cũng lực bất tòng tâm. Lên đến Trung học, đến lượt thực thần và thương quan chuyển đến vận tốt, lại là hỷ dụng, chính là sao hành động trong mệnh được đánh thức, cái gien cần cù
nỗ lực mà vận mệnh chú định được kích
hoạt, đã phát huy mặt tốt đẹp của nó.
Sao
thực thần, thương quan cũng được gọi là sao thông minh,
trí tuệ. Muốn thành tích học tập tốt đẹp, đứng
đầu thì
2 sao này là thích hợp nhất. Trong những người được
giải Nobel trong lịch sử, nhất định có một trong 2 sao này. Do đó khi 2 sao
này hễ động thì cho dù bạn có muốn có
thành tích kém đi chăng nữa cũng rất khó. Trong nội tâm
của bạn có một luồng lực kích động, những vấn đề, câu hỏi trước kia khó giải quyết thì
hiện nay bỗng biến thành nhẹ nhàng
đơn giản rồi.
Không chỉ sao thực thần, thương quan là có tình huống này,
các sao khác như tài, quan, ấn cũng lại giống như
thế. Khi bạn đến vận sao quan mà lại là hỷ dụng thì
tự có một động lực nội tại
thúc
đẩy bạn hành động, để thử thách, để ứng nghiệm với quan vận này, giống như hạt giống đến
mùa
xuân, trong nội tại hạt giống tự đã có một xung lực, đội đất mọc lên, đâm chồi. Cũng có lúc thông qua giấc mộng để thúc
đẩy bạn hành động. Tự bản thân không muốn cầu chức quan, Thượng Thiên lại đốc thúc bạn làm,
đó là sự tình ứng nghiệm ở phương
diện tốt. Cũng như thế, việc xấu đến, bạn tránh cũng không được. Ví
dụ có người đang vào tài vận, nhưng tài
vận này lại là kỵ thần, thì
sẽ ứng nghiệm với phá tài. Đột nhiên
có người hỏi bạn mượn tiền, kết quả người này phá sản, số tiền mà
họ nợ bạn cũng không trả được.
Nếu nói về việc ngồi hưởng vận mệnh chờ nó tự thành tựu, đó chỉ là người có sao ấn tinh là hỷ dụng, nhất là ấn tinh ở nguyệt lệnh. Vận tốt của người này giống như ôm cây đợi thỏ, chẳng cần bỏ công sức gì mấy, chỉ đợi cơ hội tìm đến. Bởi vì sao ấn tinh trợ ngũ hành nhật chủ của bạn, tức là trong mệnh có quý nhân trợ giúp. Có thể thấy, mỗi mệnh, mỗi vận đều có thể phân tích ra được từ giờ sinh bát tự, không giống như có người nói, tin vào vận mệnh thì ngồi đó chẳng làm gì, ngồi yên chờ phú quý đến. Thực ra con người làm gì thì có thể hoàn toàn tự quyết được chăng hay chỉ là thừa hành những mệnh lệnh được định sẵn trong lúc con người không biết, không cảm thấy? Thành công và thất bại, thông minh và ngu đần, tất cả đã được định trước rồi, thông qua phân tích giờ sinh bát tự thì có thể dự doán được những nhân tố đằng sau đó.
Xem
tiếp:
Tường Hòa (biên dịch)
Theo Thái Nguyên –
epochtimes.com
Nguồn: https://www.ntdvn.com/van-hoa/thuyet-dinh-menh-va-thien-dao-thay-doi-menh-p-2-3803.html
No comments:
Post a Comment