Cách nay đúng 71 năm, quân cộng sản núp dưới danh nghĩa Việt-Minh rút khỏi Hà-Nội, để Pháp
chiếm. Mở đầu cho chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất!
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:Ng%C3%A0y_n%C3%A0y_n%C4%83m_x%C6%B0a/Th%C3%A1ng_2
Ngày 18
tháng 02, 1947
·
1947 – Chiến tranh Đông Dương: Quân
Pháp chiếm được Hà Nội sau
khi Trung đoàn Thủ Đô rút
lên chiến khu.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_H%C3%A0_N%E1%BB%99i_1946
https://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Hanoi_(1946)
https://fr.wikipedia.org/wiki/Bataille_de_Hano%C3%AF
Trận Hà Nội 1946
Trận Hà Nội đông xuân 1946-7 là
sự kiện khơi động Chiến tranh Đông Dương giữa
lực lượng Việt Minh và quân viễn chinh Pháp, từ
đêm 19 tháng 12 năm 1946 đến trưa 18
tháng 2 năm 1947.
Bối
cảnh
Sau khi chính quyền lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên
bố Việt Nam độc lập, Đế quốc Thực dân Pháp, dưới danh nghĩa lực
lượng Đồng
Minh, tiến vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật nhưng
kỳ thực với mưu đồ tái chiếm thuộc địa.
Chính quyền Việt Nam đã cố gắng hòa hoãn,
nhưng cục diện càng lúc càng căng thẳng.
Ngày 23
tháng 9 năm 1945, quân
Pháp, có quân Anh giúp sức, gây hấn ở Sài Gòn, bất ngờ tấn công trụ sở Lâm ủy Nam Bộ,
chính quyền Việt Nam tại miền Nam, mở đầu cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Tuy nhiên, người Việt Nam cũng đã có sự
chuẩn bị và đã tiến hành cuộc chiến tranh tiêu hao. Những lực lượng "Nam
tiến" chi viện của Chính quyền Trung ương nhanh chóng tham chiến làm hạn
chế tốc độ phát triển chiến tranh của người Pháp.
Ở miền Bắc, cục diện vẫn tiếp tục căng
thẳng.
Theo thỏa thuận Pháp - Hoa, quân Pháp vào
Bắc Đông Dương để thay thế lực lượng Quốc quân Trung Hoa. Cục
diễn hòa hoãn không thể kéo dài được lâu.
Nhiều cuộc đụng độ giữa hai bên diễn ra,
trong đó nghiêm trọng nhất là vụ đụng độ ngày 20 tháng 11 năm 1946, khi quân
Pháp tấn công và đánh chìm ở cảng Hải
Phòng một ghe tình nghi chở vũ khí cho Việt
Minh.
Vệ quốc quân Việt Nam đánh trả quyết liệt
lại quân Pháp.
Sau cuộc ngừng bắn ngày 21 tháng 11 năm
1946, Pháp gửi tối hậu thư cho chính quyền Việt Minh ở Hải Phòng, đòi Việt Minh
phải rút khỏi Hải Phòng và trao thành phố lại cho Pháp.
Ngày 23 tháng 11 năm 1946, chính quyền Việt
Minh từ chối yêu sách của Pháp, và quân Pháp bắt đầu bắn phá Hải Phòng với xe
tăng và trọng pháo từ tuần dương hạm Suffren, để "dạy lũ côn đồ Việt
Minh một bài học", như lời của Tổng tư lệnh liên quân Pháp,
tướng Valluy nói với các viên chỉ huy địa phương qua radio.
Có rất nhiều người Việt bị chết trong cuộc
bắn phá đó. Phía Pháp nói rằng có 6.000 thương vong, trong khi phía Việt Minh
tuyên bố thương vong lên tới 20.000 người.
Hai phía sau đó tiếp tục các cuộc đàm phán
ngưng bắn, nhưng không mang lại kết quả gì cho tới tận tháng 12.
Từ tháng 10 năm 1946, cương vực Việt
Nam được phân thành 12 chiến khu, trong đó, thủ đô Hà Nội là
Chiến khu 11.
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản lập
thêm đảng ủy Mặt trận Hà Nội, ông Nguyễn Văn Trân là Bí thư Thành ủy được
cử làm Bí thư Đảng ủy Mặt trận kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Khu 11, chỉ huy
trưởng mặt trận Khu 11 là ông Vương Thừa Vũ.
Tổng Tham mưu trưởng là ông Hoàng Văn Thái. Ông Trần Quốc Hoàn là phái viên Trung ương tại
mặt trận Hà Nội. Căn cứ vào ý định tác chiến, Hà Nội được chia làm 3 liên khu.
Trước tình thế quá cam go, [13 tháng 12]
năm 1946, Trung ương Quân ủy, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy triệu tập hội nghị
các khu trưởng tại Hà Đông. Đồng
thời Ban thường vụ Trung ương điện cho Xứ uỷ Nam Bộ biết chủ trương gấp rút
chuẩn bị kháng chiến toàn quốc, xác định nhiệm vụ của chiến trường Nam Bộ là
"không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh
Trung-Bắc" và làm tốt các công tác sau : "Tìm mọi cách uy
hiếp thành phố Sài Gòn, phá hoại các kho tàng quân nhu, đạn dược, thuyền bè
chuyên chở của địch; kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của
quần chúng như bãi công, đình công, đòi quyền lợi kinh tế, đòi quyền tự do dân
chủ, chống khủng bố, tẩy chay chính phủ bù nhìn; tổ chức các đội xung phong cảm
tử, tiễu trừ Việt gian, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; bảo vệ và xây
dựng chính quyền cách mạng ở nông thôn, thành thị, bao gồm cơ quan hành chính
bí mật và công khai; đẩy mạnh công tác địch vận; đoàn kết toàn dân, đoàn kết
tôn giáo, đặc biệt chú ý vận động đồng bào theo đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên
Chúa..."
Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1946, các
thành phố, địa phương đều đã nhận được lệnh di chuyển các kho tàng, xí nghiệp,
các cơ sở sản xuất vũ khí ra ngoại thành, về nông thôn, lên rừng núi, đề phòng
chiến sự lan rộng. Từ sau đêm 19 tháng 12 năm 1946, tiến hành đợt "tổng di
chuyển" triệt để, rộng lớn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Quân
chính quy Việt Minh cũng được lệnh rút khỏi Hà Nội để bảo toàn lực lượng, chỉ
để lại các đơn vị Tự vệ chiến đấu, Công an xung phong và Vệ quốc đoàn phối hợp
với nhân dân Hà Nội tổ chức đánh trả và kìm chân quân Pháp . Quân
Pháp nổ súng chiếm đóng Lạng
Sơn.
Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ,
Quốc hội, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy di chuyển lên An toàn khu (ATK) Việt
Bắc giáp giới với Trung
Quốc, đều được "Đội công tác đặc biệt" do ông Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, trực
tiếp chỉ đạo, nghiên cứu, xác định từ trước. Vì vậy mà khi di chuyển vẫn nắm
chắc tình hình, chỉ đạo kịp thời các mặt trận, các địa phương. Trong đợt
"tổng di chuyển", riêng ngành quân giới từ khu 5 trở ra đã chuyển lên
căn cứ an toàn gần 4 vạn tấn máy móc, vật tư nguyên liệu, lập binh công xưởng
chế tạo vũ khí. Về chỉ đạo tác chiến trong thành phố, ngoài các mệnh lệnh, chỉ
thị của Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy, ngày 7 tháng 12 năm 1946, báo Sự Thật số 66
đăng một bài luận văn quân sự quan trọng của Tổng bí thư Trường Chinh: "Kháng chiến trong thành phố",
hướng dẫn cách đánh du kích trong thành phố và hoạt động của các đội du kích
nội thành. Về vị trí chiến lược của thành phố trong chiến tranh, tác giả viết:
"Mỗi một thành phố cũng như mỗi làng của ta phải là một trung tâm điểm
kháng chiến, kháng chiến dẻo dai, kháng chiến quyết liệt". Phía Pháp
tiếp tục các hoạt động khiêu khích, nghiêm trọng nhất là vụ ngày 4 tháng 12,
Nhà thông tin Bờ Hồ bị đốt. Ngày 10 tháng 12, nhiều công sự của tự vệ bị Pháp
đặt mìn phá hủy. Chiều 7 tháng 12 năm 1946 quân Pháp chiếm đóng nhà Ngân hàng
Pháp-Hoa[cần dẫn nguồn].
Từ ngày 15 tháng 12 năm 1946, tình hình
nóng lên từng giờ. Sáng 16 tháng 12, Valluy từ Sài Gòn ra Hải Phòng, triệu tập tướng Morlière (Chỉ
huy trưởng quân Pháp tại Bắc Kỳ), Jean
Sainteny (Ủy viên Công hòa tại Bắc Kỳ), đại tá Debès (Chỉ
huy trưởng quân Pháp tại Hải Phòng) để phổ biến kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và
khu vực phía bắc vĩ tuyến 16. Cùng ngày, Công an xung phong đang giữ trị an
trên phố bị quân Pháp xả súng. Ngày 17 tháng 12, tự vệ lại bị tấn công, đồng
thời hàng chục người dân phố Hàng Bún, Yên Ninh bị tàn sát .
Ngày 18 tháng 12 năm 1946, thành phố Hà Nội
có vẻ yên tĩnh, phố xá thưa thớt bóng người. Hai ngày trước, quân Pháp nổ súng
khiêu khích, gây rối ở các phố Lò Đúc, Hàng Bột, Hàng Khoai, Đồng Xuân... nhưng
quân và dân Hà Nội cảnh giác, không bị mắc mưu, tuân thủ kỷ luật, chờ lệnh
Chính phủ không bắn trả. Hai bên đường, nhà cửa đóng kín, nhưng bên trong nhà,
ban công, cửa sổ những mái nhà bằng đều trở thành vị trí chiến đấu. Tường trong
nhà, ngoài sân, trên gác, đều đã được đục thành lỗ giao thông, mở đường đi từ
buồng này sang buồng khác, nhà này sang nhà khác, đi suốt dãy phố dọc, luồn
sang dãy phố ngang, tạo thành một trận địa chiến đấu liên hoàn. Đâu đâu cũng
xuất hiện những dòng khẩu hiệu viết trên cửa, trên tường: "Sống chết
với thủ đô", "Thanh niên thề sống chết với thành Hoàng Diệu",
"Thà chết không chịu trở lại kiếp nô lệ"... Lực lượng phía
Việt Minh gồm 2.500 Vệ quốc quân, 8.000 tự vệ, được đông đảo nhân dân thủ đô
ủng hộ, mặc dù vũ khí còn thô sơ, chỉ có 2.250 cây súng, hầu hết là súng
trường, với nhiều súng khai hậu với rất ít đạn. Trung
bình hai người mới có một quả lựu đạn. Quân
Pháp gồm có một trung đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng, thiết giáp, một
tiểu đoàn pháo, một bộ phận biệt kích, một bộ phận dù, cùng với không quân và
thủy quân, tổng cộng 6.500 lính chính quy cùng 7.000 kiều dân vũ trang Pháp. Vài
ngàn lính Lê dương Pháp đóng tập trung trong khu
vực thành Hà Nội và một số đóng rải rác ở các địa điểm
khác như Nhà thương Đồn Thủy, dinh Toàn quyền cũ, nhà ga, Nhà băng Đông
Dương, cầu Long Biên và sân bay Gia Lâm ở hữu ngạn sông Hồng.
Chiều 18
tháng 12, Pháp gửi cho chính phủ Việt
Minh tối hậu thư đòi làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội và đe dọa
"Đến sáng 20-12 những điều đó không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ
chuyển hướng sang hành động". Sáng 19 tháng 12, Pháp gửi tiếp cho
phía Việt Minh một tối hậu thư, đòi tước vũ khí của
Vệ quốc đoàn ở Hà Nội,
đòi Việt Minh phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị
kháng chiến.
Diễn
biến
Tối hậu
thư và lời thề quyết tử
Bản thảo Lời hiệu
triệu toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát
trên các loa phóng thanh Hà Nội đêm 19 tháng 12 năm 1946.
Trưa 19 tháng 12, Ban Thường vụ Trung ương
của chính phủ Việt Minh điện báo cho các chiến khu và tỉnh ủy, thành ủy: "Giặc
Pháp đã hạ tối hậu thư và đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ, công an ta.
Chính phủ đã bác bỏ tối hậu thư ấy. Như vậy, chỉ trong vòng 24 giờ là cùng,
chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: Tất cả hãy sẵn sàng".
Chiều 19 tháng 12 năm 1946, Bộ trưởng Quốc
phòng-Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh chiến đấu.
Cơ quan cơ yếu mật mã Bộ Tổng tham mưu truyền đi bản mật lệnh: "Chuyến
hàng sẽ đến lúc 18 giờ ngày 21-12. Hàng mang mã hiệu A cộng hai, B trừ hai. Chú
ý theo dõi đón hàng đúng giờ". Theo đó, quy ước "chuyến hàng sẽ
đến" có nghĩa là tổng giao chiến bắt đầu. A là giờ cộng thêm hai, B là
ngày trừ đi hai. Có nghĩa là: "Cuộc tổng giao chiến bắt đầu lúc 20 giờ
ngày 19 tháng 12". Ngoài ra để bảo đảm các nơi có thể kịp thời nhận
lệnh, còn quy ước khi đài Tiếng nói Việt Nam phát
câu: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Xin trân trọng mời đồng bào cả
nước nghe lời Hồ Chủ tịch". Đây là tín hiệu tổng giao chiến, được đài
Tiếng nói Việt Nam phát đúng thời khắc 20 giờ ngày 19 tháng 12.
20 giờ 03 phút, ngày 19
tháng 12 năm 1946, điện
trong toàn thành phố phụt tắt, pháo đài Láng nổ
phát súng lệnh tổng công kích, chính thức báo hiệu chiến sự. Tới 20 giờ 30,
chính phủ Việt Nam đã phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Bộ trưởng Quốc
phòng-Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ban lệnh chiến đấu:
Tổ quốc lâm nguy!
Giờ chiến đấu đã đến!
Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy, tôi hạ lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung-Nam-Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.
Hi sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng!
Tiêu diệt bọn thực dân Pháp!
Quyết chiến!"
Giờ chiến đấu đã đến!
Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy, tôi hạ lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung-Nam-Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.
Hi sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng!
Tiêu diệt bọn thực dân Pháp!
Quyết chiến!"
Các chướng ngại vật, hầm hào được dựng nên
trên các phố phường nội ô Hà Nội. Những đội cảm tử quân được thành lập, sẵn
sàng dùng bom ba càng để kích nổ tiêu diệt xe tăng Pháp.
Nam nữ tự vệ khắp 36 phố phường họp cùng Vệ quốc đoàn, Công an xung phong, Tự
vệ quân... đứng lên đánh Pháp theo hiệu triệu kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quân Việt Minh với vũ khí thô sơ và ít ỏi
chống lại đạo quân thiện chiến Pháp với vũ khí tối tân đã diễn ra ác liệt trong
60 ngày đêm. Lúc đó, toàn mặt trận Hà Nội, tính cả tự vệ thì Việt Minh có
khoảng hơn 2000 cây súng với ít đạn. Mỗi tiểu đoàn Việt Minh chỉ có 2 đến 3
khẩu trung liên, từ 2
đến 3 khẩu tiểu liên và carbin, còn lại toàn là súng trường mà cũng không đủ, đạn thì thiếu và
"thối" nhiều, lựu đạn cũng ít, bom thì một số không nổ. Mỗi tiểu đội
chỉ có 3 đến 4 khẩu súng trường, còn hầu hết là mã tấu. Trong
khi đó, quân Pháp đã chiếm nhiều vị trí quan trọng như nhà máy điện, nhà máy
nước, nhà ga, cầu Long Biên... Trong chiến đấu, binh sĩ Việt Minh đã sáng tạo,
dùng chai xăng krept để đánh xe tăng, dùng chai sỏi, chai vôi bột để đánh bộ
binh, dùng pháo đùng, pháo tép để
nghi binh.
Do nhận được thông tin tình báo chính xác,
nên phía Pháp không bị bất ngờ khi cuộc tấn công nổ ra, sau
đó quân Pháp đã phản công một cách quyết liệt. Quân Pháp đóng trong thành được
tung ra để ứng cứu các vị trí bị đánh, bị chiếm. Pháp tấn công ga Hà Nội, cầu
Long Biên, nhà Bưu điện, Bắc Bộ phủ... Tổng chỉ huy và doanh trại Vệ quốc đoàn
ở Hàng Bài, Sở chỉ huy tự vệ ở nhà Đấu Xảo...
nhưng ở đâu quân Pháp cũng gặp phải sức chống cự mãnh liệt của lực lượng Việt
Minh. Tướng Valluy muốn dùng không quân tiêu diệt các ổ đề kháng,
nhưng tướng Morlière chọn cách tiến quân chiếm lần lượt từng khu phố vì như vậy
sẽ không phải tàn phá hoàn toàn thành phố.
Theo quy luật, sáng sớm và ban ngày: quân Pháp
đánh phá, xẩm tối và đêm khuya: bộ đội Việt Minh chống trả. Quân Pháp bị rơi
vào thế bất lợi, khi Việt Minh ở Liên khu I nằm trong vòng vây đánh ra, còn
Liên khu II và III tạo gọng kìm từ ngoài vòng vây đánh vào. Nhiều trận đánh lớn
diễn ra rất ác liệt, như trận Bắc Bộ phủ của Tiểu đoàn 101 Vệ quốc đoàn, trận
Hàng Đậu, Trường Ke, trận nhà Hoa Nam, trận Đồng Xuân của Tiểu đoàn 101 Đồng
Xuân, trận Hàng Thiếc của Tiểu đoàn 102, trận nhà Xô-va của Tiểu đoàn 103. Tại
nhiều đường phố, Việt Minh và quân Pháp giành nhau từng bờ tường góc phố, đóng
xen kẽ chỉ cách nhau 5 đến 3 nhà, hoặc bộ đội ở dãy số lẻ, quân Pháp ở số chẵn
như ở Hàng Giấy, Hàng Khoai...
Chiến sự
tại Liên khu I
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Việt Minh đánh
Hàng Da, phá Nhà in, đánh cháy kho xăng phía tây bắc. Quân Pháp cho xe bọc thép
và bộ binh đến đánh đơn vị quân Việt Minh đóng ở trụ sở liên lạc Việt-Pháp. Lực
lượng Vệ quốc đoàn chiến đấu đến người cuối cùng ở nhà máy điện, nhà máy nước
Yên Phụ, đầu cầu Long Biên. Giao tranh quyết liệt cũng diễn ra ở Bắc Bộ phủ, trụ sở của Chính phủ (nay là Nhà khách
đường Ngô Quyền), Bưu điện Bờ Hồ, đầu
phố Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn), ga Hàng
Cỏ, Đồn Thủy, Phà Đen, trường Bưởi (nay
là trường Chu Văn An), nhà máy bia...
Ngày 20 tháng 12 năm 1946, khu Đồng Xuân
báo chiếm được ga đầu cầu nhưng chưa diệt được các xe thiết giáp. Khu
Đông Dinh báo lấy được Nhà nước đá. Tới 9 giờ, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Triệu
tiểu đoàn 101 về, báo quân Pháp đã vào Bắc Bộ phủ. Một quyết tử quân về báo bộ
đội vẫn cố thủ Bắc Bộ phủ. Quân Pháp mới chỉ vào được Dinh Chủ tịch, còn Bộ Nội
vụ và Bưu điện vẫn cố thủ, mặc dầu quân Pháp bao vây chặt bằng hơn 10 thiết
giáp và bắn đại bác suốt đêm trước. Tới 19 giờ, tại Bắc Bộ phủ, quyết tử quân
rút ra được 2/3, 20 người bị thiệt mạng, trong đó có Chính trị viên đại đội Lê
Gia Định, nhưng đã phá được một xe tăng và 2 xe xuống hố và phá một xe jeep,
đốt 2 jeep, đốt được hết giấy tờ và lương thực... Quân Pháp thiệt hại nhiều,
thương vong hơn 100 người. Lực lượng tự vệ rút về phố Hàng Bè. Thổ phỉ ở An
Thành, đường Yên Phụ bắn ra làm nhiều người bị trúng đạn. Phi cơ thám thính bay
lượn, được thổ phỉ nổ súng báo hiệu chỉ điểm. Ở Quốc gia ấn thư cục, một
tiểu đội Việt Minh bị cô lập, phải ở lại chiến đấu đến cùng. Lực lượng ở nhà
máy đèn cũng rút hết về. Lực lượng Việt Minh ở Thị chính kho bạc rút từ sáng, 1
trung đội lên tiếp viện cầu Long Biên. Tự vệ ở Bưu điện đánh đến người cuối
cùng. Tại trụ sở Bộ Quốc phòng, trận chiến quyết liệt kéo dài tới ngày 21 tháng
12 năm 1946. Ở các khu khác, có tin bộ đội chiếm được trường Bưởi... phá được
hai thiết giáp ở phố Hàng Đậu và 11 lính Pháp chết, một xuồng máy bị đánh đắm,
2 lính Pháp chết. Tới 17 giờ, 2 phi cơ Spitfire của Pháp xuất hiện trên bầu
trời thành phố quét liên thanh, 2 xuồng máy đổ bộ ở Bến Than. Quân Pháp từ
xuồng lên tưới xăng đốt. Tới 18 giờ, phố Phùng Hưng cháy. Kinh nghiệm của chiến
sĩ cho thấy công tác phá hoại không đầy đủ, thiếu thốn đủ thứ, nạn thổ phỉ đáng
ngại hơn lính Pháp.
Ngày 21 tháng 12 năm 1946, 9 giờ, Vệ quốc
đoàn đánh lấy lại nhà máy đèn Bờ Hồ và tòa Thị chính. Bộ đội vẫn giữ được đằng
sau Bắc Bộ phủ. Quân Pháp tấn công Thị chính dữ dội bằng trọng pháo và súng
từ Nhà thờ Lớn bắn
ra, nhưng bộ đội chống cự lại, quân Pháp không vào nổi...
·
12 giờ. Một trung đội gồm tự vệ, Vệ quốc đoàn do Vũ Yên và Hoàng Phương được cử đi diệt các toán thổ phỉ.
Báo Quyết Chiến ra, được dân chúng hết sức hoan nghênh, bộ đội
cũng chiếm lại phố Khúc Hạo ở chợ Đồng Xuân. Phi cơ Spitfire của Pháp lại đến
nã liên thanh trong suốt nửa giờ, bộ đội bắn trả lại. Pháp tấn công Thị chính
dữ dội bằng trọng pháo, súng từ Nhà thờ Lớn bắn ra. Quân Pháp không vào nổi.
·
14 giờ. Ở Hà Trung có 3 chiến xa của Pháp đến, tự vệ và công
binh dùng xẻng cuốc và lựu đạn diệt được 15 quân Pháp, quân Pháp bắn ra Hàng
Phèn.
·
16 giờ. Quân Pháp đổ bộ một ca nô ở bờ sông Nhà Dầu. Thổ phỉ mặc
giả Vệ quốc đoàn vào, bộ đội bắn ra.
·
18 giờ. Hai tiểu đội bộ đội đi phá vây đầu cầu Long Biên.
·
19 giờ. Nhận được mệnh lệnh đi lấy gạo tiếp tế có Vệ quốc đoàn
đi hộ vệ. Pháp đốt xung quanh thành phố đỏ rực sáng như ban ngày, khói lửa ngút
trời.
·
21 giờ. Một tiểu đội quân Việt Minh xung phong đi tấn công đầu
cầu Long Biên.
Từ 21 tháng 12 năm 1946, quân Pháp vây bốn
mặt Liên khu I (khu trung tâm của Hà Nội). Với chủ trương không phá vây rút ra
ngoài, bộ đội trụ lại chờ quân Pháp đến để tiêu diệt. Pháp một mặt khép vòng
vây, một mặt đánh lấn ra xung quanh, cắt đứt viện trợ từ bên ngoài hòng cô lập
dân quân Việt Minh ở các phố Đồng Xuân, Đông Thành, Hoàn
Kiếm, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hồng Hà, Long Biên và vùng bãi giữa Sông Hồng...
Tiếp đó, quân Pháp liên tiếp mở các cuộc tấn công vào vành đai thành phố từ các
cửa ô hình thành thế gọng kìm từ ô Yên Phụ nối với Ngọc Hà, Kim Mã, Thụy Khuê,
ngã tư Kim Liên, Ô Cầu Dền... Các trận giao tranh rất dữ dội ở phố Hàng Da
(ngày 22/12), phố Lò Lợn, chợ Hôm (ngày 23/12), phố Hàng Bông (24/12), đường
Đại Cồ Việt (ngày 25/12), cửa ô Cầu Dền (26/12)...
Phái
đoàn ngoại giao Việt
Minh và các nước Anh, Mỹ, Tàu điều đình để kiều dân được an toàn rời vùng chiến.
Ngày 6 tháng 1 năm 1947, Trung đoàn Liên
khu 1 thành lập, được Hội nghị quân sự toàn quốc tặng trung đoàn danh hiệu
"Trung đoàn Thủ Đô", và phổ biến trung đoàn
chỉ giữ lại 500 người, còn đưa hết ra vùng tự do để chuẩn bị lực lượng kháng
chiến trường kỳ, thì nhiều người đã xung phong ở lại tiếp tục chiến đấu. Nhiều
người trong danh sách phải rút ra, đã làm thủ tục "chào tạm biệt",
nhưng rồi lẻn ở lại. Khi trung đoàn kiểm tra người ở lại, thì số quân là 1.200,
chỉ chuyển ra vùng tự do khoảng 2.000 người. Cùng ngày đại đội 2 và đại đội 4
của tiểu đoàn 56 cùng
các chiến sĩ tự vệ cứu thương ở Giảng Võ - Ô Chợ Dừa, đã đánh tan cuộc tiến
công với quy mô lớn của quân Pháp trên hai hướng Giảng Võ và Ô Chợ Dừa. Tiểu
đoàn đã tiêu diệt một đại đội Pháp, phá hủy một xe tăng, một xe ủi đất và tiêu
diệt 30 lính Pháp, nhưng đại đội trưởng Vũ Công Định cũng hy sinh.
Kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh"
của Pháp vào nội thành và các cửa ô thành phố đã không đạt dự trù, lúc này họ
cũng phải chờ quân chi viện từ Pháp sang. Giữa lúc đó, lãnh sự Trung Hoa đề
nghị Pháp và Việt Minh tạm ngừng bắn để Hoa
kiều rút khỏi thành phố. Lúc đó, các ông Nguyễn Văn Trân, Hoàng Minh Giám - Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao, Hoàng Hữu Nam - Thứ trưởng Bộ nội vụ đã
hội đàm với Tổng lãnh sự Trung Hoa Dân quốc, Tổng
lãnh sự Anh, Tổng
lãnh sự Mỹ tại một địa điểm gần ngã tư Ô Chợ Dừa. Hai bên bàn về các vấn đề cụ thể và đi
đến thoả thuận là ngừng bắn vào ngày 15 tháng 1 năm 1947 để cho Hoa kiều rút
lui ra ngoài. Nhân cơ hội này Việt Minh đã đưa một số cán bộ, lực lượng quân sự
và nhân dân chưa kịp tản cư rút ra hậu phương. Nhân dân và hàng trăm người
thuộc lực lượng chiến đấu của liên khu I đã hòa lẫn vào dòng người Hoa tản cư
công khai để bảo toàn lực lượng theo kế hoạch đã định.
Từ 6 tháng 2 năm 1947, Pháp mở cuộc tổng
công kích vào Liên khu I. Quân Pháp đánh nhà sofa, Trường Ke, phố Hàng Thiếc,
Hàng Nón, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Chiếu, Đồng Xuân. Pháp cho máy bay ném bom
ác liệt các phố Hàng Bạc, Hàng Mắm, Mã Mây vì nghi có trụ sở chỉ huy của Liên
khu I. Quân Việt Minh ở Liên khu I bị vây ép từ bốn phía. Vệ Quốc quân giành
giật với quân Pháp từng con đường, ngôi nhà, góc phố. Nhiều trận giáp lá cà đã
diễn ra giữa quân hai bên.
Ngày 14 tháng 2 năm 1947, Pháp giảm cường
độ bắn phá để chờ viện binh, chuẩn bị mở cuộc tấn công lớn nhất vào Liên khu I,
nhằm nhanh chóng kết thúc chiến sự. Ngày 15 tháng 2 năm 1947, các lực lượng
chiến đấu tại Liên khu I được lệnh rút khỏi Hà Nội ra ngoài hậu phương chuẩn bị
những bước mới cho cuộc kháng chiến lâu dài với quân Pháp.
Bao vây
chợ Đồng Xuân
Đoàn vệ út chụp hình lưu
niệm trước giờ xuất kích.
Một toán tự vệ tham gia
chặn lính mũ đỏ.
Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác cùng
hai em vệ út Phạm Đình Luận (9 tuổi) và Trang Công Lũy (10 tuổi) trong những
ngày sống chết ở Liên khu I.
Theo hồi ức của Trung tướng Vương Thừa Vũ, chỉ huy mặt trận Hà Nội, thì
quân Pháp tập trung hơn 400 quân và hàng chục xe cơ giới các loại, bao vây tiến
hành đánh chợ Đồng Xuân để đánh thẳng vào trung
tâm chỉ huy Liên khu I. Trong ba ngày 11-12-13 tháng 2 năm 1947, quân Pháp điều
phi cơ liên tiếp oanh tạc chợ Đồng Xuân và các phố Hàng Cót, Hàng Lược, Hàng
Đường, Hàng Bạc, Mã Mây... Quân Pháp liên tiếp dội bom, nã pháo vào toàn
khu Đồng Xuân, bắn nát chợ. Quân Pháp sử dụng hỏa lực
đánh theo bốn hướng. Hướng tấn công chủ yếu: dùng xe tăng dẫn bộ binh đánh vào
sân bóng sau chợ, rồi phát triển sang chỗ trú quân của Ban chỉ huy tiểu đoàn
101. Hướng thứ yếu: dùng xe tăng dẫn bộ binh theo phố Hàng Giấy đánh chiếm phố
Hàng Gạo trước cửa chợ. Hướng hỗ trợ: đánh kiềm chế Vệ quốc đoàn ở phố Trần
Nhật Duật, nếu tiến triển tốt sẽ chiếm Ô Quan Chưởng. Hướng nghi binh: sử dụng
đơn vị nhỏ cuối phố Hàng Mã, Hàng Cót, buộc Vệ quốc đoàn tại đó phải chốt
nguyên tại chỗ đối phó.
Đến ngày 14 tháng 2 năm 1947, tiểu đoàn
quyết tử 101 Đồng Xuân thuộc trung đoàn Thủ Đô sau 57 ngày đêm chiến đấu giữ
liên khu 1, quân số chỉ còn 130 người nhưng vẫn quyết tâm đánh lại quân Pháp,
giữ vững các vị trí chiến đấu. Mờ sáng 14 tháng 2, phi cơ Pháp tiếp tục oanh
tạc chợ Đồng Xuân và các phố xung quanh. Pháo binh Pháp dồn dập giội bom đạn
vào sở chỉ huy tiểu đoàn, Tiểu đoàn phó Nguyễn Hùng, Bí thư khu bộ Việt
Minh Ngô Lê Động chết
ngay tại chỗ. Chính trị ủy viên kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Đồng
Xuân Đỗ Tần và Chính trị
viên Lê Thản bị
thương nhưng vẫn bám trụ chỉ huy. Tiểu đoàn trưởng Mộng Hùng theo kế hoạch ra
chốt Ô Quan Chưởng. Quân Pháp bắn phá hơn 2 tiếng vào toàn khu và chợ. Gần 8
giờ sáng, quân Pháp tấn công bốn hướng cùng một lúc. Quân Pháp dùng đại bác,
đại liên, trung liên, súng cối bắn dọn đường, sau đó đưa xe tăng và bộ binh
tràn vào nhằm cắt đứt liên lạc giữa các vị trí với nhau và giữa tiểu đoàn với
các chốt phòng thủ với hy vọng tiêu diệt gọn tiểu đoàn 101 Đồng Xuân, rồi thọc
sâu vào chỉ huy sở trung đoàn và tiến tới làm chủ Hà Nội. Với tinh thần quyết
tử, toàn bộ lực lượng của tiểu đoàn 101 đánh trả rất quyết liệt, buộc lính Pháp
cứ vào được chợ lại phải rút ra. Khi xe tăng Pháp tiến được vào chợ, quân cảm
tử từ các quầy hàng, lừa cho xe tăng đi qua, bộ binh vừa tới, thì xông ra đánh
giáp lá cà. Cuộc chiến trong chợ diễn ra với những cuộc giao tranh kịch liệt.
Quân Pháp phải đánh ba đợt, đến đầu giờ chiều mới chiếm được chợ Đồng Xuân.
Khoảng 16 giờ, xe tăng Pháp đến án ngữ đầu
ngã tư Nguyễn Thiện Thuật - Hàng Chiếu (trước nhà cầm đồ Vạn Bảo) và ngã tư
Hàng Đường - Hàng Mã. 16 giờ chiều 14 tháng 2 năm 1947, xe tăng Pháp chỉ còn
cách chỉ huy sở tiểu đoàn 101 chiều ngang phố Hàng Chiếu. Pháp bên dãy số chẵn,
bộ đội bên số lẻ. Ban chỉ huy tiểu đoàn nhận định: quân Pháp chiến đấu cả ngày,
tinh thần mệt mỏi, chưa bám vững trận địa không thuộc. Bộ đội tuy có khó khăn
về đạn dược, nhưng mới được trung đoàn chi viện 20 người và súng đạn, tinh thần
chiến đấu càng đánh càng ngoan cường, dạn dày kinh nghiệm. Y tá trưởng Vũ Văn
Thuận hết lòng cứu chữa thương binh nên nhiều người vẫn xin ở lại chiến đấu giữ
trận địa. Tiểu đoàn hạ quyết tâm: lập lực lượng phản kích ngay trong đêm. Đêm
ấy, quân Việt Minh xuất phát lúc 22 giờ. Hai trung đội do Phạm Gia Ban và
Nguyễn Duân chỉ huy, đủ vũ khí và nhiều chai xăng, lựu đạn buộc quanh mình, lợi
dụng đêm tối tiến vào nhà địch trú quân. Các chiến sĩ do thông thuộc đường,
ngõ, đồng loạt nổ súng, quẳng lựu đạn làm lính Pháp hoảng hốt, kêu thét gọi cấp
cứu, rồi bỏ chạy tán loạn. Bộ đội đuổi theo sát lính Pháp. Bị tấn công bất ngờ,
lại không dựa được vào xe tăng nên bị cô lập, bộ binh Pháp phải tạm lui. Đến
gần 1 giờ sáng, quân Pháp bị đẩy hẳn khỏi phố Hàng Chiếu, Hàng Gạo, chợ Đồng
Xuân. Toàn trận địa trở lại nguyên vị trí ban đầu. Kết quả: 3 xe bọc thép Pháp
bị phá hủy. Bên Việt Minh cũng bị tổn thất với 15 người chết, 19 người bị
thương, nhưng đã giữ vững được vị trí, làm hành lang an toàn cho cuộc rút lui
đêm 17 tháng 2 năm 1947.
Đêm triệt
thoái khỏi Hà Nội
Đêm 17 tháng 2 năm 1947, trung đoàn Thủ đô
rút quân khỏi Hà Nội. Được trung đoàn phân công, tiểu đoàn 101 Đồng Xuân đi đầu
theo đường gầm cầu Long Biên, nếu gặp địch thì đánh mở
đường máu để trung đoàn rút ra. Nhưng hôm đó mưa phùn, giá rét, đêm tối như
mực, lính Pháp gác trên cầu co cụm lại, áo ca pốt trùm kín nên không hay biết
cả một đoàn quân hơn 1.000 người đang hành quân dưới gầm cầu, dưới mũi súng của
họ. Lực lượng của Trung đoàn Thủ đô chia thành từng đơn vị nhỏ cùng nhân dân
Liên khu phố I lặng lẽ đi dưới gầm cầu Long Biên, rẽ nước vượt sông
Hồng, sông Đuống, bí mật vượt qua vòng vây an toàn.
Phố phường xưa gạch ngói ngang đường
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Sáng hôm sau, ngày 18 tháng 2 năm 1947,
lính Pháp phát hiện, đuổi theo, nhưng bộ đội đã vượt sông Hồng về làng Thượng
Hội thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây. Riêng
Đội tự vệ Hồng Hà gồm những người dân lao động ngoài bãi sông Hồng đã chiến đấu
ròng rã 60 ngày đêm, bảo vệ và nối liền con đường tiếp tế cho dân quân Liên khu
I đã có thương vong. Đó là đảng viên Nguyễn Ngọc Nại, Tiểu đội trưởng, và 7 đồng
đội khác của anh. Sáng hôm đó, họ đã trụ vững ở bãi giữa, chiến đấu quyết liệt
với lính Pháp để thu hút hỏa lực về phía mình, bảo vệ an toàn cho cuộc rút lui
chiến lược của Trung đoàn Thủ đô và quân dân Hà Nội. Pháp trả thù kéo quân đánh
vào xã Tứ Tổng (nay là hai phường Ngọc
Thụy và Tứ Liên), là
xã đã dùng thuyền đưa trung đoàn vượt sông Hồng, đốt cháy gần 30 nóc nhà, giết
chết 27 thanh niên và chọc thủng gần 40 con thuyền. Hằng năm, người dân ở đây
vẫn lấy ngày 29 tháng 1 âm lịch làm ngày giỗ trận.
Kết
cuộc
Phía Việt
Minh
Đầu tháng 1 năm 1947, thành lập Trung đoàn Thủ Đô với lực lượng là chiến sĩ
và tự vệ Hà Nội, trung đoàn này về sau là nòng cốt của Sư đoàn Quân tiên phong
308, chỉ huy Vương Thừa Vũ (ban đầu gọi là Đại đoàn). Đạo quân được mệnh danh là "sư đoàn
thép", được các sử gia coi là một trong những lực lượng thiện chiến nhất
thế giới. (Xem Phillip Davidson, Vietnam at war,) Theo công sứ Mỹ
O'Sullivan, người Việt chiến đấu với một sự "ngoan cường và dũng cảm
chưa từng thấy", gợi lại hình ảnh binh sĩ Nhật trong Đệ nhị thế chiến
Với quân số chênh lệch, vũ khí thô sơ,
thiếu thốn, phải chống lại lực lượng tinh nhuệ được vũ trang tối tân của Pháp,
cầm chân và tiêu hao quân Pháp trong gần 2 tháng đã là một kỳ tích cho quân đội
non trẻ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quyết
tử quân Việt Nam đã thực thi chiến thuật chiến tranh đô thị cầm chân quân Pháp,
tạo thời gian để ban lãnh đạo Việt
Minh rút đi và hoạch định một cuộc chiến tranh trường kỳ, làm
thất bại quyết sách đánh nhanh diệt gọn của phía Pháp.
Những tấm gương quyết tử để Tổ quốc quyết
sinh được truy phong về sau:
Phía Pháp
Chiếm được Hà Nội với tổn thất tương đối
nhỏ (chừng vài trăm thương vong trên tổng số chừng 110.000 quân Pháp hiện
diện tại Đông Dương vào đầu năm 1947) cũng là một chiến thắng.
Quân Pháp tin tưởng sau khi chiếm được Hà Nội sẽ
có thể dễ dàng và nhanh chóng bình định được toàn bộ Đông Dương, nhưng cuộc chiến đã co giãn đến 9 năm và
kết thúc tại chiến trường Điện Biên Phủ với phá sản hoàn toàn cho
người Pháp.
Sự thật phũ phàng cho con dân nước
Việt sau khi đổ bao xương máu!
1/
2/
3/
No comments:
Post a Comment