Monday, February 19, 2018

 Ngày 19 tháng 02, 1965
·        1965 – Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo tiến hành đảo chính bất thành tại Việt Nam Cộng hòa.
Lâm Văn Phát:
 https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_V%C4%83n_Ph%C3%A1t
 https://en.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_V%C4%83n_Ph%C3%A1t
Phạm Ngọc Thảo:
 https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Ng%E1%BB%8Dc_Th%E1%BA%A3o
 https://en.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Ng%E1%BB%8Dc_Th%E1%BA%A3o

Lâm Văn Phát


Lâm Văn Phát (1920-1998), nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng.
Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân Viễn Đông do Quân đội Thuộc địa Pháp mở ra tại Đông Dương.
Ông là một sĩ quan cao cấp đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn 1963-1965 và là Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa.
Ông cũng là quân nhân cuối cùng được thăng cấp Trung tướng vào thời điểm sau cùng của Chính thể Việt Nam Cộng hòa.

Tiểu sử và Binh nghiệp:

Ông sinh năm 1920 tại Cần Thơ. Có tài liệu ghi ông tên thật là Lâm Văn Phất hoặc Phắc. 
Cha ông là một nhà giáo, do đó ông cũng có một nền giáo dục từ nhỏ và được học hết chương trình Trung học phổ thông, tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II) tại Cần Thơ.
Năm 1945, ông tham gia Lực lượng Thanh niên Tiền phong và tham gia cướp Chính quyền tại Cần Thơ. Sau khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, ông bị buộc phải trở về Cần Thơ.

Đoàn kỳ.

Thanh niên Tiền phong

Quân đội Liên hiệp Pháp:

Tháng 5 năm 1946 ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, Theo học khóa 1 Nguyễn Văn Thinh tại trường Võ bị Liên quân Viễn đông ở Đà Lạt, khai giảng ngày 15 tháng 7 năm 1946.
Ngày 1 tháng 7 năm 1947 mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. 
Cùng tốt nghiệp khóa này với ông có một số sĩ quan trẻ người Việt khác như Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Đức..., những người về sau có vai trò quan trọng trong sự nghiệp của ông.
Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp, ông đào ngũ vào chiến khu cùng một số bạn học, từng làm đến Trung đội trưởng Vệ quốc Đoàn ở Khu 8.
Một thời gian sau, ông trốn về lại Cần Thơ, ngụ tại nhà chị ruột Lâm Thị Phấn. Do sự bảo lãnh của người tình của bà Phấn, ông được bí mật đưa sang Pháp học nghề cơ khí. Không lâu sau, ông bị phát giác thân phận và quá khứ đào ngũ, nhưng nhờ sự can thiệp từ các mối quan hệ của chị ruột, ông không bị đưa ra xét xử, đổi lại phải tiếp tục đi học và khi trở về Việt Nam phải tiếp tục phục vụ cho Quân đội Pháp.

Quân đội Quốc gia Việt Nam:

Năm 1950, sau khi Quốc gia Việt Nam chính thức được thành lập, ông được thăng cấp Trung úy và được cử đi du học lớp căn bản Thiết giáp tại Trường Thiết giáp Kỵ binh Saumur Pháp, nhằm đào tạo lực lượng sĩ quan Thiết giáp nòng cốt cho Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Quân kỳ.

Cuộc diễn hành của một tiểu đoàn Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ảnh chụp tại Hồ Gươm ngày 14 tháng 7 năm 1951.
Đầu tháng 10 năm 1951, ông về nước và được cử làm Chỉ huy phó Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, đến cuối năm, được chuyển sang làm Đại đội trưởng Đại đội Thám thính đồn trú tại Gia Lâm, Hà Nội.
Tháng 5 năm 1952, ông được thăng cấp Đại úy, ba tháng sau bàn giao Đại đội Thám thính lại cho Trung úy Vĩnh Lộc, ông được điều động về công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam vừa được thành lập.
Qua năm 1953, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Chánh văn phòng cho tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia. Đến năm 1954, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa:

Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông tiếp tục phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Đầu năm 1956, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quán Tre. 
Đầu năm 1957, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến, sau khi bàn giao Trung tâm Huấn luyện số Quán Tre lại cho Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ 
Cuối năm, ông chuyển qua giữ chức vụ Tổng thanh tra Tổng Nha Bảo an và Dân vệ trực thuộc Phủ Tổng thống, sau khi bàn giao Sư đoàn 13 lại cho Trung tá Huỳnh Văn Cao.
Cuối năm 1958, ông được cử đi học lớp Sĩ quan Chỉ huy và Tham mưu (US Army Command and General Staff College) tại học viện Fort Leavenworth, Kansas, (Hoa Kỳ).
Đầu năm 1960, ông được thăng cấp Đại tá và được chỉ định vào chức vụ Tổng Giám đốc Bảo an và Dân vệ thay thế Đại tá Đặng Văn Quang. 
Ngày 8 tháng 6 năm 1961, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh..
Ngày 18 tháng 6 năm 1963, bàn giao Sư đoàn 2 Bộ binh lại cho Đại tá Trương Văn Xương, ông được chỉ định làm Tư lệnh phó Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật dưới quyền Thiếu tướng Tôn Thất Đính.

Bốn lần tham gia đảo chính:

Là một trong những sĩ quan cao cấp của Quân đội Quốc gia Việt Nam được chuyển sang Quân đội Việt Nam Cộng hòa, tuy nhiên suốt thời gian từ 1955-1963, ông chỉ được phân công công tác ở các chức vụ không có thực quyền.
Điều này có lẽ do thái độ thiếu tin cậy với quá khứ đào ngũ nhiều lần cũng như quan hệ gia đình của ông. Từ đó ông có tâm lý bất mãn và trở thành một trong những sĩ quan cao cấp đầu tiên tham gia âm mưu đảo chính đứng đầu bởi tướng Dương Văn Minh  Trần Văn Đôn.

Dương Văn Minh

Trung tướng Trần Văn Đôn
Khi Đảo chính tháng 11 năm 1963 nổ ra, ông được phân công chỉ huy một bộ phận Thiết giáp bao vây Dinh Độc Lập và ngày 2 tháng 11 ông được Hội đồng Quân nhân Cách mạng thăng cấp Thiếu tướng.
Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Không hài lòng với vai trò này, ông bí mật tham gia ủng hộ các tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm thực hiện Cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964, phế truất các tướng lĩnh Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim với lý do trung lập.

Đại tướng Nguyễn Khánh

Trần Thiện Khiêm
Sau chỉnh lý, ngày 2 tháng 2, ông được tướng Nguyễn Khánh bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III thay thế Trung tướng Trần Thiện Khiêm sau khi bàn giao Sư đoàn 7 Bộ binh lại cho người bạn cùng khóa Võ bị Viễn Đông là Đại tá Bùi Hữu Nhơn.
Đến ngày 7 tháng 4 cùng năm, ông bàn giao Quân đoàn III lại cho Trung tướng Trần Ngọc Tám. Sau đó, ông được tham chính trong Nội các Chính phủ với chức vụ Tổng trưởng Nội vụ thay thế Kỹ sư Hà Thúc Ký xin từ nhiệm.
Mặc dù vậy, với tham vọng độc tài của tướng Nguyễn Khánh, ông nhanh chóng có mâu thuẫn xung khắc với người bạn học cũ. Ngày 9 tháng 9, ông từ nhiệm chức vụ Tổng trưởng.
Chỉ 4 ngày sau, ngày 13 tháng 9 năm 1964, ông cùng với Trung tướng Dương Văn Đức dẫn lực lượng Quân đoàn IV kéo về Sài Gòn thị uy, dự định lật đổ Chính phủ Nguyễn Khánh để nắm quyền nhưng bất thành do thiếu kiên quyết và thiếu sự ủng hộ của nhiều thế lực khác nhau.
Ngày 15 tháng 9, tướng Nguyễn Khánh trở về Sài Gòn, tuyên bố cách chức ông và buộc giải ngũ tướng Dương Văn Đức và một số sĩ quan cao cấp chỉ huy đảo chính.
Tuy vậy, không ai trong số họ bị bắt giữ và vẫn được tự do.
Ngày 1 tháng 11 năm 1964, tướng Nguyễn Khánh thành lập chính phủ dân sự do ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng, ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng.
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, một lần nữa ông lại đứng ra cầm đầu cuộc đảo chính do Đại tá Phạm Ngọc Thảo tổ chức. Lần này, cuộc đảo chính được tổ chức chặt chẽ hơn và phần nào đạt được mục đích tước quyền lực tướng Nguyễn Khánh.
Tuy vậy, nhóm các tướng trẻ do Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu chống lại đảo chính.
Ngày 20 tháng 2, Hội đồng các tướng lãnh họp ở Biên Hòa, đã cử Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu nắm chức Chủ tịch Hội đồng Quân lực và đưa Bác sĩ Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng thay ông Trần Văn Hương.
Hội đồng cũng cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho ông, Đại tá Phạm Ngọc Thảo và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Cuộc đảo chính tan rã
Ngày 26 tháng 4 năm 1965, Tòa án Quân sự tuyên bố tử hình vắng mặt 4 sĩ quan chủ chốt của cuộc đảo chính.
Tuy vậy, trong khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và chết bí ẩn.
Riêng ông bị Hội đồng Kỷ luật Quân đội tuyên bố tước cấp bậc, và buộc ra khỏi Quân đội vào tháng 10 cùng năm.
Tuy nhiên đến trung tuần tháng 8 năm 1968, Tòa án Quân sự mặt trận xóa bỏ bản án ngày 26 tháng 4 năm 1965 và tuyên bố tha bổng đối với 14 sĩ quan liên can đến vụ đảo chính ngày 19 tháng 2 năm năm 1965.
Suốt thời gian từ 1965 đến 1975, ông sống thầm lặng.

1975:

Tư lệnh cuối cùng Biệt khu Thủ đô:

Vào những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, ông lại xuất hiện trong vai trò cựu tướng lĩnh trong Lực lượng thứ 3 do tướng Dương Văn Minh cầm đầu.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông tham dự lễ ra mắt của Chính quyền Tổng thống Dương Văn Minh và ngày hôm sau 29 tháng 4 năm 1975, ông được Tổng thống Dương Văn Minh thăng cấp Trung tướng và cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay tướng Nguyễn Văn Minh vừa đào nhiệm.
Trong những giờ cuối cùng, ông chỉ huy các lực lượng còn lại để phòng thủ Sài Gòn với hy vọng có thể đạt được phần nào lợi thế để đàm phán.
 Tuy nhiên, đến trưa 30 tháng 4 năm 1975, ông được lệnh buông súng từ Tổng thống Dương Văn Minh và giữ nguyên vị trí chờ bàn giao..

Vĩ thanh:

Sau ngày 30 tháng 4, ông bị Chính quyền mới đưa đi tù lưu đày (học tập cải tạo) từ Nam ra Bắc cho đến tháng 8 năm 1986 mới được trả tự do.
Sau khi ra tù, ông vượt biên đến trại tỵ nạn Singapore và được sang định cư tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ rồi di chuyển về Santa Ana, miền Nam California.
Ông sống độc thân trong một chung cư dành riêng cho người cao niên.
Ngày 30 tháng 10 năm 1998, ông từ trần tại nơi định cư. Thọ 78 tuổi.
Ông chính là nguyên mẫu được nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý xây dựng thành nhân vật "Tướng Lâm" trong tiểu thuyết Ván bài lật ngửa.

Gia đình:

Thân phụ ông là cụ Lâm Văn Phận, nguyên là một nhà giáo tại Cần Thơ.
Sau năm 1945, tham gia Việt Minh và gia nhập Đảng Lao động Việt Nam và từng có thời gian giữ chức Chủ tịch Ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ.
Sau năm 1954, tập kết ra Bắc và mất ở đó.
Ông là người con thứ 2 trong gia đình. Chị lớn của ông là Lâm Thị Phấn, sinh năm 1918, có tài liệu ghi được gả cho Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy, là một tình báo viên nổi tiếng của Việt Minh, Thiếu tá tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng Vũ trang.
Bà cũng là người được Ban binh vận giao nhiệm vụ vận động tướng Phát đầu hàng sớm vào tháng 4 năm 1975 nhưng không thành công.
Cuộc đời bà cũng được dựng thành phim với nhân vật Bạch Cúc trong phim "Người đẹp Tây Đô" của đạo diễn Lê Cung Bắc, do diễn viên Việt Trinh thủ vai Bạch Cúc.
Ông còn người em gái kế tên là Lâm Thị Phết và người em trai út tên là Lâm Văn Phiên, nguyên là Thiếu tá trong Quân chủng Không quân của Việt Nam Cộng hòa.
 Đây là một trong nhiều lý do mà Miền Nam thua trận

 Tham khảo:

·        Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Phạm Ngọc Thảo



Phạm Ngọc Thảo (19221965) là một tình báo viên bí ẩn trong suốt Chiến tranh Việt Nam.
Ông là cán bộ tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam cài vào trong đội ngũ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Ông là người có nhiều ảnh hưởng chính trị và cũng là một thành viên chủ chốt trong 2 cuộc đảo chính bất thành ở Việt Nam Cộng hòa vào những năm 19641965.

Thân thế gia đình:

Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922 tại Sài Gòn, nguyên quán Vĩnh Long, (có tài liệu là Bến Tre) trong một gia đình Công giáo toàn tòng.
Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần một địa chủ lớn có quốc tịch Pháp.
Ông Adrian Phạm Ngọc Thuần có tới hơn 4000 mẫu đất và gần 1000 căn nhà rải rác ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc, Vĩnh Long.
Ông Thuần có quốc tịch Pháp nên các con đều được sang Pháp học.
Phạm Ngọc Thảo còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo, còn gọi là Albert Thảo. Mọi người thường gọi là Chín Thảo vì ông được sinh thứ 8 trong gia đình.
Lúc nhỏ ông học một trường tư thục Công giáo nổi tiếng ở Sài gòn đó là trường Lasan Taberd(Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat- ngày nay là trường THPT Lê Quý Đôn). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội theo học trường Kỹ sư Công chính Hà Nội.

Tham gia Việt Minh:

Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ.
Khi Luật sư Phạm Văn Bạch ra miền Bắc, ông Thuần làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam Bộ (trong những năm 60 làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Dân chủ Đức).
Anh trai thứ bảy Phạm Ngọc Hùng học ở Pháp, lấy vợ Pháp rồi về Việt Nam ra chiến khu chiến đấu, làm Uỷ viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam.
Tốt nghiệp trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, ông Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suýt bị xử bắn do hiểu lầm.
Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng. Ông cùng 12 chiến sĩ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.
Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307).
Trong thời gian này ông hướng dẫn về chiến tranh du kích cho các học viên Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em ruột giáo sư Phạm Thiều)
Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ.

Giai đoạn bắt đầu hoạt động:

 Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đã bí mật ở lại.  
Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để hình thành "lực lượng thứ ba" trong trường hợp Hiệp định Geneve không được đối phương thi hành. Về việc này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Ba Duẩn rất tin cậy Phạm Ngọc Thảo và đã giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt".
Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy và Hai người khác trong Ban Đặc tình Xứ ủy là Mười Hương  Cao Đăng Chiếm.
Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng Đảng không cho phép Mai Chí Thọ  Cao Đăng Chiếm vào sống ở Sài Gòn, chỉ có Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.
Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài Gòn giữa lúc tình hình rất khó khăn: lực lượng Bình Xuyên gây rối khắp nơi. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo quy định của chế độ Việt Nam Cộng hòa đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Vì vậy, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà đi dạy học. Vợ ông cũng vậy
Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Gia đình anh theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với Giám mục Ngô Đình Thục. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo vì đã từng làm lễ rửa tội cho anh và coi anh như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục vào chiến khu để tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.
 Nhờ chính sách "đả thực bài phong", khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với "chính nghĩa quốc gia" của Ngô Đình Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của mình, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: mình là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại úy "đồng hóa".
Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.
Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên đảng Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975.

Hoạt động tình báo trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa:

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/e/e1/Ambox_wikify.svg/44px-Ambox_wikify.svg.png
Bài hoặc đoạn này cần được wiki hóa theo các quy cách định dạng và văn phong Wikipedia.
Xin hãy giúp phát triển bài này bằng cách liên kết trong đến các mục từ thích hợp khác.
Thảo còn biết "khai thác" vốn binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đã viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo.... Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và Diệm – Nhu đề cao "tầm" của ông. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương.
Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật
 Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy quân sự Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Diệm đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, ông đề nghị trực tiếp với Ngô Đình Diệm 3 yêu cầu:
- Một là ổn định tình hình Bến Tre không phải bằng bạo lực mà là chính trị, vì ông không thể hành động như những quân nhân võ biền khác. Mục đích của ông là không phải đàn áp phong trào đấu tranh của Bến Tre đang lên cao độ.
- Hai, nếu bắt được Việt Cộng, có đủ bằng chứng, cho lập phiên tòa xét xử. Với yêu cầu này, Phạm Ngọc Thảo sẽ có cớ để trừng trị bọn đầu hàng, chỉ điểm.
- Ba, Tỉnh trưởng Bến Tre được đặc cách chỉ báo cáo với Tổng thống, không qua một ban, bộ nào. Như vậy, Phạm Ngọc Thảo sẽ tránh được những kẻ gièm pha, ton hót.
Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cả ba yêu cầu đó. Về làm Tỉnh trưởng Bến Tre một thời gian, ông đã ký quyết định thả 2.000 tù nhân chính trị đang bị giam giữ, (trong đó có ông Võ Viết Thanh, sau này là Chủ tịch UBND TPHCM), liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ và lập tòa án trừng trị bọn phản bội, đầu hàng. Chính sách không cho binh lính đàn áp dân chúng tùy tiện của Phạm Ngọc Thảo đã "bật đèn xanh" cho phong trào "đồng khởi" sau này.
Nhiều phản ứng của phía chính quyền và quân đội Sài Gòn đều được Phạm Ngọc Thảo bác bỏ, rằng Ngô Tổng thống đang thí nghiệm một luận thuyết mới: Luận thuyết thân dân, phải có thì giờ để kiểm nghiệm. Do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu.
Năm 1962, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống.  

Làm tỉnh trưởng, bị ám sát nhầm:

Ngày Quốc khánh Việt Nam cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, một cuộc mít-tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội (khu Vườn Hoa ba con chim câu bây giờ). Đặng Quốc Tuấn (sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre), lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10) cùng với đồng đội tên Thiều có nhiệm vụ phá hoại buổi mít-tinh này. Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, còn lại 3 lựu đạn để ở nhà ông Thiều. Theo bàn bạc, ông Thiều ném lựu đạn trước, ông Tư Tuấn ném tiếp theo, xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã. Tuy nhiên, không có quả lựu đạn nào phát nổ. Hai ông định quay về nhà lấy thêm 3 trái lựu đạn còn lại thì bị bắt.

Tham gia các cuộc đảo chính:

Trong những năm 1962 - 1963, phong trào Đồng khởi lan rộng. Biết trước sau gì tổng thống Ngô Đình Diệm cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và giáo sư Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu đổi chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ.

Lần thứ nhất:

Tháng 09 năm 1963, Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính.
Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập.. Để chấm dứt âm mưu đảo chính này, ngày 06/09/1963, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng lãnh sự tại Ai Cập. 
Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin Thảo phản bội, thứ hai là Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an,... hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được.
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ bởi một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh. Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền.
Phạm Ngọc Thảo dù không chủ động tham gia cuộc đảo chính này nhưng vẫn được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp.
Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ. Sau đó ông được tướng Nguyễn Khánh mời làm phát ngôn viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân Cách mạng”.
Tháng 10 năm 1964, khi Trần Thiện Khiêm được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, ông được cử làm tùy viên báo chí và quân sự của Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay).

Lần thứ hai:

Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ, muốn bắt ông. Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát.
Vì vậy, ông đã đào nhiệm và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài Gòn vì một lý do vô cùng quan trọng. Theo một tài liệu mà ông nắm được, Mỹ  Nguyễn Khánh đã thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào 20/2/1965, vì vậy cuộc đảo chính sẽ tiến hành đúng ngày 19 tháng 2 với tên gọi Chiến dịch Nguyễn Huệ
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát, đại tá Bùi Dzinh và trung tá Lê Hoàng Thao đem quân (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh)  xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng  sân bay Tân Sơn Nhất.
Tướng Nguyễn Khánh được Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu. Mục tiêu quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được. Trong tờ Việt Tiến (in ronéo, phát bí mật) với bút hiệu Lê Minh, đại tá Phạm Ngọc Thảo đã viết: “Chúng tôi vì không muốn đổ máu mà hơn nữa ngay từ phút đầu đã thấy có sự chia rẽ và tranh giành nhau, nên tôi đã cho lệnh chấm dứt cuộc chính biến vào lúc 20 giờ ngày 19 tháng 2 và coi như 20 giờ làm chủ thủ đô đã chấm dứt”.
Ngày 20 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã tổ chức hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Hòa.
Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn.
Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một hình thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong).
Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam.

Bị bắt và qua đời:

 Ngày 11 tháng 6 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại quyền lãnh đạo quốc gia cho quân đội.  
Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia đã được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng)
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật, lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn.
Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước ngoài an toàn nhưng ông từ chối.
 [color]=redSau khi nhậm chức, Nguyễn Văn Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc Thảo để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, Nhơn Trạch, Biên Hòa. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, định thủ tiêu.
Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục Cường, cha tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa.
Sau đó ông chủ động xin chuyển tới chỗ khác phòng khi An ninh quân đội tới truy tìm, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Ông bị Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ tra tấn dã man và bóp hạ bộ ông cho đến chết  vào đêm 17 tháng 7 năm 1965. Khi đó ông mới 43 tuổi.
Nguyễn Ngọc Loan được cho là đã sát hại ông lúc đó. Linh mục Nguyễn Quang Lãm (chủ bút Báo Xây dựng), người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo, đã che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo). Sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết hại, Báo Xây dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo.
Linh mục Nguyễn Quang Lãm đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”.
Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”.  
Năm 2012, trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên trước câu hỏi: "Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Nguyễn Cao Kỳ đã trả lời: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.
Có ý kiến nói rằng Phạm Ngọc Thảo bị Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giết hại là bởi ông ta không tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản, nếu tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ không giết Phạm Ngọc Thảo. Bởi kinh nghiệm từ cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu không cảm thấy lo sợ những người cộng sản bằng một người không cộng sản được Mỹ và Giáo hội Công giáo hậu thuẫn để làm đảo chính lật đổ ông ta.

Di sản:

 Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà tình báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị  ngoại giao.
Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân,... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đã rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh, trên đồi Lạc Cảnh (quận Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường... Tên ông được đặt tên cho một con đường tại thành phố Hồ Chí Minh.  
Mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình, Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận liệt sĩ và phong anh hùng cho Phạm Ngọc Thảo. Ông Mười Hương đã nói: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn cũng từng nói sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ  Lê Hữu Thúy[cần dẫn nguồn]). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất bởi 3 đặc điểm chính:
1.    Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói, với nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.
2.    So với các tình báo viên khác, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965.
3.    Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của mình. Mãi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là tình báo viên.
Hai ông bà Phạm Ngọc Thảo và Phạm Thị Nhiệm có bảy người con. Vợ ông từng đi dạy học. Vợ và con ông hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của ông đều học hành thành tài (có người là bác sĩ, đang ở Quận Cam).
Ông Trần Bạch Đằng, nguyên Phó ban tuyên huấn Trung ương cục miền Nam nhận xét: "các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta"

Vinh danh:

Tên ông được đặt cho các con đường ở Quận 8, Tân Phú (Thành phố Hồ Chí Minh), Đồng Xoài (tỉnh Bình Phước), Thành phố Bến tre (tỉnh Bến Tre), Tân Biên (tỉnh Tây Ninh).



No comments:

Post a Comment