Hồi ức về ngày 30/4 (1/2)
Thứ Năm, 20 tháng 9, 2012
Sài Gòn bỏ ngỏ…
Đây là loạt bài hồi ức về biến
cố 30/4/1975 theo cách nhìn từ 3 phía: Sài Gòn - Hà Nội - Washington. Người viết
cố gắng tổng hợp các nguồn thông tin để người đọc có một tầm nhìn khái quát về
một bước ngoặt lịch sử.
Sài Gòn, sáng 30/4/1975, lần
đầu tiên dân chúng được chứng kiến tận mắt xe tăng T-54 từ miền Bắc tiến vào thủ
đô VNCH. Trước mắt, nhiều người sống trong niềm vui từ nay sẽ chấm dứt chiến
tranh. Tuy nhiên, cũng có một số người suy nghĩ hay lo lắng đến những gì sẽ xảy
ra cho chính họ trong những năm tháng sau này.
Lần đầu tiên dân Sài Gòn được
chứng kiến xe tăng T-54
Sự kiện ngày 30/4/1975 thường
được gọi qua nhiều tên, tùy theo chính kiến và góc độ chứng kiến biến cố của từng
người. Nếu là người miền Bắc, sống dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, 30/4/1975 là
“Ngày giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước”. Ngày này là kết quả trực tiếp
của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một cột mốc quan trọng trong lịch sử đất
nước.
Báo chí phương Tây dùng thuật
ngữ “Sự sụp đổ của Sài Gòn” (The Fall of Saigon) để nói về sự chấm dứt sự can
thiệp của Hoa Kỳ trong một cuộc chiến kéo dài được mệnh danh là “Chiến tranh Việt
Nam”.
Nếu là người miền Nam đã di
tản ra nước ngoài, 30/4/75 là Ngày quốc hận, là Tháng Tư Đen. Đối với người miền
Nam còn ở lại trong nước, đó là sự Đổi Đời, một thuật ngữ mới, ý nghĩa tốt hay
xấu còn tùy thái độ và hoàn cảnh của từng người đối với chế độ mới.
Đổi Đời có ý nghĩa tiêu cực
đối với những người đã phục vụ chính quyền Sài Gòn, khi đó được gọi chung là Ngụy
quân – Ngụy quyền. Tuy nhiên, Đổi Đời lại là tích cực đối với những gia đình có
người thân thuộc hàng ngũ bên kia.
Dù có gọi là gì đi nữa,
30/4/1975 là sự kiện chấm dứt chiến tranh khi Tổng thống cuối cùng của VNCH
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
***
Sau khi người Mỹ rút quân khỏi
Nam Việt Nam, viện trợ quân sự cho VNCH đã cắt giảm nhiều: tài khóa năm 1973 là
2,1 tỷ USD, năm sau rút xuống còn 1,4 tỷ và đến năm 1975 chỉ còn 700 triệu. Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đã bày tỏ sự lo ngại về viện trợ của Mỹ cho VNCH:
“Mới vài ngày trước đây là một
tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Y như là chuyện cho
tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo”.
Về phía Bắc Việt, trong tập
hồi ký Đại thắng Mùa Xuân, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã viết về động cơ thúc đẩy
miền Bắc và Quân giải phóng miền Nam mở cuộc tổng tấn công là do Mỹ đã giảm viện
trợ khiến cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn không
thể thực hiện theo như ý muốn. Đó là vì… “hỏa lực đã sút giảm gần 60% vì thiếu
bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên
liệu”.
Về phía Mỹ, Tổng thống
Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm tiền cho chiến trường
Việt Nam. Đầu năm 1975, hai năm sau khi ký Hiệp định Đình chiến Paris, Mặt trận
Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa huy động gần như toàn
bộ lực lượng gần 1 triệu quân để mở cuộc tấn công lớn trên toàn lãnh thổ miền
Nam Việt Nam.
Tất cả được bắt đầu từ thị
trấn Ban Mê Thuột trên vùng cao nguyên. Ban Mê Thuột được miền Bắc chọn làm chiến
trường ‘lãnh ấn tiên phong’ và Ban Mê Thuột cũng mở ra trang lịch sử cuối cùng của VNCH…
Ban Mê Thuột bị tấn công
ngày 10/3/1975. Thị trấn nhỏ bé này, với diện tích khoảng 370 km², dân số
300.000 người, bị thất thủ và tạo một ‘chấn động domino’, phá vỡ hệ thống phòng
thủ của quân đội VNCH và kết quả là ngày 30/4/1975 toàn bộ miền Nam sụp đổ!
Ban Mê Thuột, thị trấn yên
bình
nhưng chính nơi đây lại là
khởi đầu của sự sụp đổ
Ngày 23/3/75, Huế rơi vào
tay ‘quân giải phóng’ trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn dân thường và binh lính
tìm cách chạy thoát bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây dưới những
trận mưa pháo.
Trong 4 sư đoàn bộ binh của
quân lực VNCH, 4 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không
quân, và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 người
rút khỏi miền Trung. Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối
tháng 3, chỉ có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thủy, 70.000 binh sĩ VNCH còn
lại sau bị bắt làm tù binh, 33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn và gần 60
máy bay khác tại căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại.
Theo đài BBC (Việt ngữ), Đà
Nẵng sụp đổ mà hầu như không có một trận chạm súng nào. Khi quân Bắc Việt tiến
vào thành phố, không thấy binh sĩ VNCH đóng quanh thành phố chống cự. Các trung
tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng tan vỡ: Quảng Ngãi ngày
24/3, Qui Nhơn và Nha Trang ngày 1/4 và cảng Cam Ranh ngày 3/4. Gữa lúc người
dân miền Nam đang hoang mang, những thông tin của BBC đã góp phần làm rệu rã
tinh thần của những người cầm súng…
Ngày 23/3/1975: di tản khỏi
Đà Nẵng
Trong nửa đầu tháng 4, với
Quân đoàn 2 Bắc Việt từ phía bắc tiến vào và Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống,
các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lần lượt thất thủ. Ngày 9/4,
Quân đoàn 4 Bắc Việt định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai - tuyến phòng
thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của quân lực VNCH đã kháng cự
ác liệt để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng
của VNCH. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.
Ngày 17/4, Thượng viện Mỹ từ
chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu đô la mà chính phủ Mỹ đề nghị.
Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, Ngoại trưởng Mỹ
Henry Kissinger và một số người khác đã hy vọng rằng nó có thể giúp VNCH lấy lại
được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục Bắc Việt đàm phán.
Hai ngày sau phán quyết này
của Thượng viện, Giám đốc CIA William Colby nói với Tổng thống Ford: "Nam
Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng". Các chuyến
bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt ra khỏi
Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó.
Trong bức thư gửi Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu ngày 23/3/1975, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford viết:
White House
Ngày 22 tháng 3, 1975
Thưa Tổng thống,
Cuộc tấn công hiện nay của Bắc
Việt chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu.
Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc
không kém gì sự hủy bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
Biến chuyển này mang theo
không ít hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và
nhân dân Ngài thì đây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết đinh chính số phận
quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân
VNCH sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng
tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý
quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.
Riêng đối với Hoa kỳ thì vấn
đề cũng không kém phần cấp bách. Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm
cách hủy diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn
vô cùng to lớn, suốt mười năm qua.
Sự quyết tâm của Hoa kỳ để yểm
trợ một người bạn đang bị các lực lượng [Bắc Việt] với vũ khí hùng mạnh tấn
công, hoàn toàn vi phạm một thoả ước quốc tế [đã được ký kết] long trọng, là một
điều hết sức cần thiết.'
Riêng tôi, tôi khẳng định rằng
Hoa kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam Cộng hoà trong giờ phút tối quan trọng
này.
Với mục đích tôn trọng những
nghĩa vụ của Hoa kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với
quan tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những
hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép.
Về việc cung ứng viện trợ
quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để
thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường.
Trước khi chấm dứt, tôi xin
được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của
Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa.
Kính thư,
Gerald R. Ford
***
Ngày 20/4, các thủ tục pháp
lý được đơn giản hóa cho việc di tản người Việt bắt đầu có hiệu lực từ sân bay
Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Máy bay C-130 và C-140 liên tục lên
xuống vào ban ngày, công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải
dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại
Tân Sơn Nhất.
Leo vào Tòa Đại Sứ Mỹ trước họng súng của TQLC
Ngày 20/4 quân phòng thủ
VNCH bỏ Xuân Lộc. Không còn gì để cứu vãn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn
không còn phòng thủ từ xa, quân Bắc Việt áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi.
Sài Gòn được coi như bỏ ngỏ.
Cùng ngày 20/4, Đại sứ Mỹ
Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức vì phía Bắc Việt
đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với Tổng thống Thiệu. Tối ngày 21/4,
Nguyễn Văn Thiệu đọc một bài diễn văn từ chức dài trước Quốc hội, buộc tội Mỹ
đã bỏ rơi VNCH. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vẫn không chấp nhận nói chuyện với ông.
Buổi lễ ‘từ nhiệm’ này còn được
truyền trên hệ thống phát thanh và truyền hình cả nước. Tôi còn nhớ buổi chiều
hôm đó ngồi nghe ông Thiệu ‘tả oán’ trên TV, bài diễn văn từ nhiệm của ông đượm
màu sắc ‘than thân trách phận’, oán trách người bạn đồng minh đã từng gắn bó với
Việt Nam trong suốt thời gian qua nay bỗng lạnh lùng quay lưng, giũ áo…
Tổng thống Thiệu trao lại
quyền lãnh đạo đất nước ‘đang trên bờ vực lâm nguy’ cho Phó tổng thống Trần Văn
Hương. Tân Tổng thống Trần Văn Hương (ông là Tổng thống dân sự cuối cùng của
VNCH với một ‘nhiệm kỳ’ kéo dài đúng 7 ngày) đứng lên đáp từ. Ông Hương khi đó
đã là một ông già lụ khụ với những lời lẽ mộc mạc của một ‘ông giáo làng’, chấp
nhận làm Tổng thống trong cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước.
Thật tình khi nghe ông Hương
nói, tôi hoàn toàn mất hết sự tin tưởng vào việc VNCH có thể đảo ngược thế cờ.
Ông Hương, sinh năm 1902 tại Vĩnh Long, là một nhà giáo có uy tín, trong số học
trò của ông có cả Đại tướng Dương Văn Minh. Bước sang lãnh vực chính trị, ông
đã từng 2 lần làm Đô trưởng Sài Gòn (năm 1955 và năm 1964), 2 lần làm Thủ tướng
(cuối năm 1964 và năm 1968)…
Theo tôi, nét nổi bật trong
cuộc đời của ông Hương là chọn ở lại Việt Nam sau ngày 30/4/1975. Năm 1977, ông
được chính quyền mới trao trả ‘quyền công dân’ nhưng ông khước từ và nói rằng
ông chỉ nhận khi tất cả những quân-dân-cán-chính của VNCH cũng được hoàn trả
quyền công dân của họ. Vị nhân sĩ yêu nước, ngay thẳng và trong sạch này mất
ngày 27/1/1982, nhằm ngày mồng ba Tết Nhâm Tuất, hưởng thọ 80 tuổi.
Tại Hà Nội, thời điểm chuyển
giao quyền lực giữa Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương ở miền Nam đã mang một ý
nghĩa quyết định trong việc chấm dứt chiến tranh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau
này cho biết: "Chìa khóa là ngày 21/4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết
rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ…".
Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy
tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người trực
tiếp chỉ huy các cánh quân miền Bắc tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng
tiến công. Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Bắc Việt tung thêm cả Quân đoàn 1 (hay
còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tầu biển và hàng không vào chiến trường
cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài
Gòn tương đương 20 sư đoàn với 5 quân đoàn.
Frank Snepp, một chuyên viên
phân tách tình báo cao cấp của cơ quan tình báo Hoa kỳ, tiết lộ trong cuốn
Decent Interval, ngay sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, Ngoại trưởng Henry
Kissinger gởi cho ông Graham Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn một bức điện. Tiến sĩ Kissinger yêu cầu
ông Đại sứ chuyển lời bày tỏ lòng “kính trọng” của ông đối với vị cựu Tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa và đề nghị muốn giúp Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam.
Cũng theo Frank Snepp, Đại tướng
Dương Văn Minh (lúc này chưa có vai trò gì trong chính quyền) cũng đã góp một
phần lớn vào sức ép buộc cựu Tổng thống Thiệu phải rời khỏi nước. Tướng Minh
cho rằng sự có mặt của ông Thiệu làm cản trở tiến trình hòa bình do ông chủ
trương nên ông yêu cầu tướng Charles Timmes phải bằng mọi cách thúc bách ông
Thiệu sớm ra đi.
Xin nói thêm về Trung tướng
hồi hưu Charles Timmes. Ông là sĩ quan chỉ huy toán cố vấn Mỹ đầu tiên có mặt ở
Việt Nam từ năm 1961. Sau một thời gian ở Việt Nam, ông được tuyển dụng và trở
thành một viên chức cao cấp với nhiều thế lực của cơ quan tình báo Mỹ ở Sài
Gòn. Tướng Timmes quen biết và tiếp xúc với hầu hết các tướng lãnh kể cả Đại tướng
Dương Văn Minh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ…
Một tiết lộ khác của Oliver
Todd, trong cuốn Cruel April, Tổng thống Trần Văn Hương triệu hồi Đại Sứ Martin
vào dinh Độc Lập. Cụ Hương nêu ra nhiều lý do và nhấn mạnh với ông Martin là nếu
còn có sự hiện diện của ông Thiệu ở Sài Gòn thì chính quyền do ông lãnh đạo khó
có thể tiến hành các cuộc hòa đàm với phía bên kia. Tổng thống Hương yêu cầu nước
Mỹ nhận ông Thiệu sang sống lưu vong.
Đại sứ Martin rất phấn khởi
trước yêu cầu này. Trước hết, ông không muốn bị mang tiếng về việc ra đi của
ông Thiệu, ông muốn cho dư luận tin rằng đó là sức ép từ các thế lực trong nước
chứ không phải từ phía tòa Đại Sứ Mỹ. Ông Martin hứa: chính quyền Mỹ sẵn sàng
chấp nhận ông Thiệu sang sinh sống ở Hoa Kỳ.
Thiếu tá Nguyễn Tấn Thận, sĩ
quan tùy viên của Đại tướng Trần Thiện Khiêm (khi đó là Thủ tướng), tiết lộ
trong bài Những ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn:
“… Sáng sớm hôm sau là ngày
22 tháng Tư, tướng Charles Timmes vội vã đến tư dinh Đại Tướng Khiêm xin được
tiếp kiến. Đại Tướng đã tiếp ông hơn nửa tiếng đồng hồ. Rồi ngay chiều hôm đó Đại
Tướng Khiêm vào dinh Độc Lập gặp Tổng Thống Thiệu...
Chúng ta khó biết Đại Tướng
Khiêm nói gì với cựu Tổng Thống Thiệu nhưng sẽ không loại bỏ những gì Tướng
Timmes muốn đề nghị lên ông Thiệu là nên ra đi khỏi nước. Sau này ở hải ngoại Đại
Tướng Trần Thiện Khiêm có cho tôi biết là ngay sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức
“cụ Hương muốn Tổng Thống Thiệu và dượng Tư”[Đại tướng Trần Thiện Khiêm là chú
của Thiếu tá tùy viên Nguyễn Văn Thận – Chú thích của NNC] đi đường biển qua
Singapore. Tiết lộ này trùng hợp với việc Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã yêu cầu
ông Hoàng Đức Nhã qua Singapore gặp ông để thông báo là giới chức Mỹ muốn Tổng
Thống Thiệu phải đi lưu vong ở Singapore hoặc một thủ đô nào của các quốc gia
vùng Đông Nam Á”.
Cuối cùng hai tướng Thiệu và
Khiêm lại rời Việt Nam đi Đài Bắc tối ngày 25/4/1975, trên danh nghĩa đại diện
VNCH dự tang lễ tướng Tưởng Giới Thạch. Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu viết tay trình lên Tổng Thống Trần Văn Hương. Khi viết danh
sách, cựu Tổng thống Thiệu muốn Đại Tá Cầm đánh máy, ông này lại không biết
đánh máy nên ông Thiệu đành phải viết tay.
Đến khi có lịnh của Đại Sứ
Martin là phải mang theo máy chữ khi đến nhà Đại Tướng Khiêm, Thomas Polgar lại
quên (!). Thành ra hai văn kiện danh sách phái đoàn của Tổng Thống Thiệu và tên
điền vào mẫu parole documents (văn kiện tạm cư của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ) đều
không đánh máy, mà phải viết tay.
Kính trình Tổng Thống Trần
Văn Hương,
Thưa Cụ,
Để thực hiện công tác cụ
giao phó, tôi kính xin cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần
tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du:
1. Đại Tá Võ Văn Cầm
2. Đại Tá Nguyễn Văn Đức
3. Đại Tá Nhan Văn Thiệt
4. Đại Tá Trần Thanh Điền
5.Trung Tá Tôn Thất Ái Chiêu
6. Bs Thiếu Tá Hồ Vương Minh
7. Đại Úy Nguyễn Phú Hải [giờ
chót không có mặt – Chú thích của NNC]
8. Phục dịch viên Nghị,
(binh sĩ) [giờ chót không có mặt – Chú thích của NNC]
Ngoài ra, Cựu Thủ Tướng Đại
Tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần đem theo những sĩ quan và dân sự sau đây:
1. Trung Tá Đặng Văn Châu
2. Thiếu Tá Đinh Sơn Thông
3. Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận
4. Ông Đặng Vũ [giờ chót
không có mặt]
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm
nhờ tôi trình cụ chấp thuận ./.
Kính chào Tổng Thống
(ký tên Thiệu)
Tổng Thống Trần Văn Hương
phê thuận,
Đề ngày 25/4/75
Ký tên Trần Văn Hương
Trang tài liệu viết tay của
cựu TT Nguyển văn Thiệu
trình TT Trần văn Hương ngày
25/4/1975
Frank Snepp kể lại chuyến
lưu vong Đài Bắc của hai tướng Thiệu-Khiêm ngày 25/4/1975 trong Decent
Interval:
“Khoảng 8 giờ 30, bốn người
chúng tôi đi trên ba xe đến Bộ Tổng Tham Mưu của Nam Việt Nam nằm bên ngoài Tân
Sơn Nhứt. Khiêm có nhà riêng ở đây. Joe và tôi giấu vũ khí dưới chỗ ngồi. Chúng
tôi lo sợ một việc không lành có thể tái diễn vụ ám sát anh em ông Diệm trước
đây… trên đường đi nếu có những sĩ quan trẻ Việt Nam chận chúng tôi lại, ra lịnh
cho chúng tôi xuống xe và… định hạ thủ…”
Nguyễn Tấn Thận kể lại:
“… Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng
Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại Tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar.
Tổng Thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại
Tá Đức, Trung Tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi
chia nhau vào hai xe còn lại… Đoàn xe bắt đầu chạy hướng về cổng chánh Bộ Tổng
Tham Mưu, vừa ra khỏi cổng thì quẹo phải, đi thẳng vào cổng phi trường Tân Sơn
Nhứt.
Đoàn xe chạy vòng qua khu
dành riêng cho hãng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường
băng, tất cả xe đều tắt đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó bóng một chiếc
máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sáng, một loại
máy bay giống như DC6.
Khi tới gần chiếc máy bay,
đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người. Xe thứ hai ủi tới suýt đụng
vào xe đi trước vì trời tối. Hai xe sau tạt qua hai bên hông xe Tổng thống Thiệu.
Chiếc xe tôi ngồi vừa thắng gấp vừa bẻ tay lái kêu nghe ken két. Một cuộc biểu
diễn ngoạn mục. Dù đó là do sắp xếp hay chỉ là một “tai nạn” nhưng dưới con mắt
an ninh, họ là những thành phần phải được liệt vào hàng các tay bảo vệ yếu nhân
chuyên nghiệp.
Xe Tổng thống Thiệu bị bao
vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng
tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M16 dựng đứng bên
hông trong thế tác chiến… Chúng tôi tông cửa xe, bước xuống mau. Tổng thống Thiệu
đi trước, Đại tướng Khiêm theo sau, rồi Polgar, Timmes. Chúng tôi nối đuôi theo
sau.
Hình ảnh ông Đại Sứ Graham
Martin – một quan Khâm sai của Đại Vương quốc Hoa Kỳ – hiện ra tại chân cầu
thang máy bay như một vị thần hộ mạng, giống với hình ảnh ông thần miễu Ông Tà ở
Ô Môn quê tôi mà hồi nhỏ tôi đã tưởng tượng ra: đôi mắt xanh, tóc bạc trắng,
hai tay dài lòng thòng… ai cũng phải sợ.
Tổng thống Thiệu bắt tay ông
Đại Sứ. Hai bên trao đổi mấy lời. Tất cả leo lên mau. Tổng thống Thiệu, Đại tướng
Khiêm, tướng Timmes vào buồng danh dự. Tại đây có bốn ghế bành bọc vải trắng
(Sau nầy mới biết đó là máy bay riêng của Đại Sứ Martin). Đại Sứ Martin vào tận
buồng máy nói vài lời tiễn biệt rồi vội vã rời máy bay. Chúng tôi mạnh ai nấy
tìm chỗ ngồi ở các hàng ghế phía sau.
Vào thời điểm này, Trung tá
Nguyễn Văn Phú Hiệp là phi công chiếc máy bay Air Việt Nam 727 có lịnh ứng trực,
chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng. Trung tá Hiệp
trước kia là Trưởng phi hành đoàn trực thăng Phủ Tổng Thống. Anh Hiệp, giờ chót
không đi được, sau nầy chết trong trại tù Cộng Sản.
Cũng vào thời gian nói trên,
một vài đơn vị trưởng các đơn vi phòng thủ Thủ Đô, và các đơn vị đóng quân gần
khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt được nghe dư luận đồn đãi là có người rỉ tai:
“Ông Thiệu sẽ dùng Air Việt Nam để ra khỏi nước. . .”
Khi tất cả chúng tôi ngồi
vào chỗ rồi thì Tổng Thống Thiệu từ phía trước bước ra sau chỗ chúng tôi. Ông đứng
giữa hai hàng ghế với khuôn mặt không còn giống như hồi ở nhà Đại tướng nữa.
Nét nghiêm nghị như giận dữ hiện rõ trên khuôn mặt như tôi đã từng chứng kiến
nhiều lần trước kia. Các sĩ quan làm việc quanh ông đôi khi phải đón nhận những
phản ứng dữ dội từ ông, thay cho các đối tượng mà ông vì cần phải giữ hòa khí ở
một mức độ có thể coi được, ông thường “giận cá chém thớt” và hay “phang nhầm”
chúng tôi.
Với cái nhìn sáng quắc, mặt
đỏ gay, Tổng Thống Thiệu gằn từng tiếng: “Nè, các chú nhớ là không được nói gì
hết. Có ai hay báo chí hỏi thì trả lời là không biết gì hết! Nghe chưa!” Nói
xong ông liền trở về phía trước…
Đúng 9 giờ 15 phút, giờ
Sài-gòn, buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đạo, đem theo
hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng lãnh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc
phi cơ lượn một vòng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài Gòn, rồi hướng
về biển Đông…
Tôi bật người ra thành ghế,
hít một hơi thở thật dài, nhắm mắt lại; hai dòng lệ từ từ lăn xuống má… Xin giã
biệt quê hương… tạm biệt mọi người thân…”
Ngày 14/4/1975:
TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố
từ chức sau 10 cầm quyền
***
17 giờ ngày 26/4, Chiến dịch
Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: (1) hướng Bắc với
Quân đoàn 1; (2) hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3; (3) hướng Tây và Tây Nam với
Đoàn 232; (4) hướng Đông với Quân đoàn 4 và (5) hướng đông nam với Quân đoàn 2.
Ngày 27/4, Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Bắc Việt, lần đầu tiên trong hơn 40
tháng, làm nhiều người chết và bị thương và nhà cửa đổ nát.
Tại mặt phía Nam của Sài
Gòn, ngay từ ngày 28/4, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô không còn quân trừ bị để
phòng thủ. Họ buộc phải rút 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ
Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô. Liên tỉnh
lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH
không thể phá vỡ được các chốt chận của địch tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị
chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975.
Các đơn vị Nhảy Dù phòng ngự
tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang
Trung) đến cầu Tham Lương, Bà Quẹo, khu Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền-Lăng
Cha Cả đã cố gắng ngăn chận đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt
cách Nhảy dù tại vòng đai Bộ Tổng tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã
dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến
xa và đánh bật địch ra khỏi trận địa. Đến cuối ngày 28/4 tất cả các tuyến phòng
thủ đã bị chọc thủng, quân Bắc việt có thể đi ngay vào thành phố.
Xác T-54 trên đường Trương
Minh Giảng, gần Lăng Cha Cả
Vào đúng 5 giờ chiều ngày
28/4/1975, tại phòng Khánh Tiết dinh Độc Lập, Tổng thống Trần Văn Hương trao
quyền lãnh đạo đất nước cho đại tướng Dương Văn Minh qua cuộc dàn xếp của các lực
lượng chính trị thứ ba. Bên ngoài, trời bắt đầu đổ mưa, sấm chớp ầm ầm và thủ
đô Sài Gòn đang sống trong một buổi chiều u ám chẳng khác nào hoàn cảnh âm u của
đất nước.
Dưới đây là bản ghi chép từ
băng ghi âm tường thuật trực tiếp buổi lễ bàn giao của phóng viên Đài phát
thanh Sài Gòn:
« Thưa quý thính giả, bây giờ
là 17 giờ thiếu 5 phút, và phóng viên hệ thống truyền thanh vẫn có mặt tại
phòng khánh tiết Dinh Độc Lập. Nơi đây, buổi lễ bàn giao Tổng thống Việt Nam Cộng
Hòa sẽ diễn ra trong vòng năm phút tới. Bên trong phòng khánh tiết Dinh Độc Lập
hiện giờ đèn sáng choang và các dân biểu, nghị sĩ, cũng như tất cả nội các, xử
lý thường vụ của Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn hiện có mặt bên trong hội trường này.
Thưa quý vị thính giả, chúng
tôi đã nhận thấy ở trên hàng ghế đầu cùng là Phó thủ tướng Trần Văn Đôn, Phó thủ
tướng Nguyễn Văn Hảo, Phó thủ tướng Dương Kích Nhưỡng, quý vị cố vấn đoàn trong
đoàn chính phủ. Chúng tôi cũng nhận thấy Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm kiêm
Trưởng phái đoàn Hòa đàm tại Ba Lê là ông Nguyễn Xuân Phong ngồi ở hàng ghế thứ
nhì… ».
Xin nói thêm về ông Nguyễn
Xuân Phong, người đã ở lại Sài Gòn sau ngày 30/4/1975 để rồi sau đó đi học tập
cải tạo. Đến khi được ra trại, ông Phong về Trung tâm Nghiên cứu Dịch thuật tại
Thành phố Hồ Chí Minh để hằng đêm đi dậy các lớp tiếng Anh tại các trường ở Sài
Gòn như đám cựu giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội chúng tôi.
Ông Phong là một con người
nhã nhặn, ít nói nhưng rất thân thiện với các giáo viên đồng cảnh ngộ. Dù sao
đi nữa, ông vẫn còn ‘sang’ hơn cánh giáo viên như chúng tôi vì ông có chiếc
mobylette trong khi các thầy khác vẫn đạp xe cọc cạch đến lớp hàng đêm tại trường
Lê Quý Đôn.
Nếu không biết quá khứ của
ông Phong, người ta không thể nào ngờ ông thầy chuyên dạy các lớp luyện dịch đó
đã từng là Quốc vụ khanh đặc biệt, đại diện của VNCH trong vai trò trưởng đoàn
đàm phán tại Paris. Cuối cùng thì người thầy khiêm tốn đó cũng giã từ các lớp
đêm để đi định cư tại nước ngoài.
Trở lại với buổi tường thuật
trực tiếp lễ bàn giao chức vụ Tổng thống của Đài phát thanh Sài Gòn:
« … Như quý vị thính giả đã
biết, đất nước chúng ta đã trải qua một chuỗi dài đau thương của lịch sử, và kể
từ ngày nguyên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút lui khỏi Kontum và
Pleiku, những chuỗi ngày đen tối tiếp theo nhau và đã đưa đến khung cảnh chính
trị và quân sự rất u ám hiện tại.
Như quý vị đã biết, vào thứ
Hai 21 tháng 4, tức là cách đây một tuần, nguyên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức cũng ngay tại phòng khánh tiết Dinh Độc Lập này, và
anh bạn phóng viên của chúng tôi cũng đã trực tiếp truyền thanh hầu quý vị buổi
lễ từ chức lịch sử đó. Phó tổng thống Trần Văn Hương, theo hiến pháp, đã lên đảm
nhiệm chức Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa và nếu tính đến ngày hôm nay thì Tổng
thống Trần Văn Hương giữ chức vụ nguyên thủ quốc gia được đúng bảy ngày.
Và hôm nay là ngày 28 tháng
4, Tổng thống Trần Văn Hương với sự chuẩn chấp của Quốc Hội lưỡng viện, sẽ trao
quyền Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa cho Đại tướng Dương Văn Minh trong một vài
phút tới đây. Tổng thống Hương đã được Quốc Hội chỉ thị tìm kiếm đường lối và
biện pháp vãn hồi hòa bình, mà rồi thì ông đã giao trách nhiệm đó cho Quốc Hội
để tìm kiếm người thay ông có thể tìm thấy đường lối và biện pháp vãn hồi hòa
bình cho miền Nam Việt Nam.
Nghị quyết ngày 26 tháng
4-1975 của lưỡng viện Quốc Hội đã quyết định như vậy, và ngày hôm sau, Quốc Hội
lưỡng viện một lần nữa họp khoáng đại và bỏ thăm với số phiếu đa số tuyệt đối
chấp thuận Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
cho đại tướng Dương Văn Minh. Nói như vậy có nghĩa là Hiến Pháp đã có một vài
điều khoản không được thi hành nữa...
Đúng 5 giờ chiều, với lối
hành văn mộc mạc vốn có, Tổng thống Trần Văn Hương tuyên bố:
« … Bữa nay là cái ngày đã từ
lâu rồi quý vị phải có, mà ngày nay đã có, tức là đã đáp ứng được nguyện vọng của
tôi từ lâu rồi. Khi Tổng thống tiền nhiệm trao nhiệm vụ cho tôi, tôi vẫn biết sức
già, dầu muốn dầu không, tuổi trời đã cao, sức lực đã mòn, tức nhiên là không
thể nào đảm trách được một nhiệm vụ lớn lao trong khi mà nước nhà đã trải qua một
buổi khó khăn vô cùng không thể tưởng tượng được. Bởi vậy cho nên trong lòng
tôi vẫn mong mỏi rằng dầu thế nào cũng phải có được một người ra lãnh cái trách
nhiệm này để lo cho việc nước. Gọi là cú vét phần nào, cái gì gọi là quyền lợi,
cái gì gọi là danh dự của nước Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.
… Thưa với Đại tướng, dù muốn
dù không, một chương lịch sử đã dở qua rồi, những chương sẽ viết tới đây sẽ do
nơi tay của Đại tướng. Mà bây giờ có hỏi ngay ra rằng Đại tướng sẽ viết những
gì, tôi thấy là Đại tướng cũng băn khoăn, không thể trả lời. Nhưng tôi biết rằng
với thiện chí của Đại tướng đã sẵn có, thế nào việc làm sau này không đến nỗi
phải phụ lòng tin cậy của tất cả đồng bào, của quốc hội đã hoàn toàn đặt nơi Đại
tướng.
Thủ tướng Trần Văn Hương lên
nắm quyền
sau khi Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu ra đi
Đường đi nó có khác, nó đã
khác, bởi vì triều đại đã thay đổi. Chúng ta bây giờ không nghĩ là phải luôn
luôn đổ xương máu. Chúng ta không phải nghĩ là chúng ta phải đánh tới người chiến
sĩ cuối cùng, viên đạn cuối cùng, khi mà còn một biện pháp nào, một giải pháp
nào có thể đem lại hòa bình mà không đến nỗi tổn thương quá sức danh dự của nước
nhà. Bởi vậy cho nên đường lối có lẽ là ở trong khuôn khổ đặt sẵn như thế đó.
Thưa với Đại tướng, nhiệm vụ
của Đại tướng rất là nặng, khi Đại tướng ra gánh vác chuyện này, tôi thấy rõ
ràng là Đại tướng chẳng những có một thiện chí không mà thôi, Đại tướng còn phải
có những can trường gì mới dám đảm nhận như vậy, và tôi cũng mong mỏi thế nào
cho Đại tướng thành công. Vả lại, đặt lại vấn đề, giải pháp chiến đấu để giữ giải
pháp dung hòa, ôn hòa, nghĩa là quên hết tất cả những gì gọi là căm thù để đem
lại trước hết sự hòa giải, hòa hợp, rồi tới hòa bình để cùng nhau sống yên, mưu
đồ chuyện tái tạo nước nhà. Theo ý tôi nghĩ, con đường là con đường đó.
Thưa với Đại tướng, xóa hận
căm thù không phải là căm thù đối với ở ngoài, mà tôi cũng xin phép nói là
chúng ta cũng nên xóa căm thù tất cả những gì gọi là căm thù ở trong. Trước kia
có lẽ những chỗ sai biệt đâm ra nếu là người Việt Nam thành thật thương nước,
thì tất nhiên người đó dù muốn dù không cũng phải lo cho nước, yêu nước. Nhưng
tiếc có một nỗi đồng sàng mà có nhiều khi dị mộng, cho nên nghĩ như vậy mà cái
lòng nó nghĩ khác nhau. Việc làm khác nhau, nên sanh ra xích mích, sanh ra đến
cái chỗ có thể gọi là căm thù, thì tôi thành khẩn yêu cầu Đại tướng bao nhiêu
những việc gì có thể gọi là căm thù nội bộ, Đại tướng vui lòng ráng thế nào xóa
bỏ hết. Vả lại trong bộ máy của chế độ, đều có những người phụng sự cho chế độ
đó. Nếu chế độ kế tiếp mà còn nghĩ đến những việc trước, tìm ra chuyện ân oán
giang hồ, gây chuyện căm thù nữa, thì những người bất kỳ ở chế độ nào, tôi nghĩ
làm sao mà dám tận tâm với chế độ đó khi nghĩ đến chế độ sau này có thể trả thù
trả oán.
Cái chỗ mong mỏi của tôi là
như thế, và tôi cũng hết sức thành khẩn yêu cầu Đại tướng nên nghĩ về tiền đồ của
nước nhà, nên nghĩ về sinh mạng, sống còn của đất nước này, làm thế nào cho việc
hòa giải khởi sự trước ở trong nước này trước khi ra tới ngoài.
Còn một điểm nữa có lẽ là điểm
chót. Tất nhiên là Đại tướng sẽ ráng hết sức mình mà làm, nhưng tôi cũng nhìn
nhận lòng mình dẫu có thiện chí đến đâu nhưng sức mình nó có hạn. Đại tướng cũng
là người, Đại tướng không phải là một vị thiêng liêng nào có phép màu cho nên
chỉ phán một lời là mọi chuyện đâu đấy như ý muốn được. Tất nhiên là Đại tướng
phải ráng sức, chuyện mà Đại tướng ráng sức mà thành công hay không thành công,
đó là một việc tôi tưởng phần lớn không phải tùy nơi Đại tướng. Nhưng nếu Đại
tướng thành tâm vì nước để lo cho nước, ráng vãn hồi hòa bình lại để dân được sống
yên, làm thể nào cho máu đừng đổ, thịt đừng rơi, thì cái công của Đại tướng đối
với hậu thế sẽ lưu lại đời đời. Dầu thế nào, tôi thiết nghĩ rằng không bao giờ
mà đất nước này người ta có thể quên Đại tướng. Tôi xin cám ơn quý vị. (vỗ tay)
Sau khi nguyên Tổng thống Trần
Văn Hương đọc bài diễn văn trao nhiệm, một sĩ quan đã gỡ huy hiệu Tổng thống
hai con rồng bay và thay vào đó huy hiệu Tổng thống mới là hình hoa mai năm
cánh. Tân Tổng thống, Đại tướng Dương Văn Minh, bước lên diễn đàn, ông gọi cựu
Tổng thống Hương là Thầy:
Kính thưa Tổng thống,
Kính thưa Thầy,
Qua những lời của thầy làm
cho tôi rất cảm kích. Thầy đã ghi nhận tình thế quân sự cũng như mọi mặt bi
đát, làm cho tôi phần nào yên tâm vì cái sự khó khăn mà tôi gặp phải. Những lời
khuyên dạy của thầy hôm nay tôi sẽ ghi mãi trong lòng và thầy hãy yên tâm.
Chúng tôi đã lâu nay thấy
không còn giải quyết vấn đề của chúng ta bằng võ lực không, mà không có kèm
theo một giải pháp chính trị nào thì không thành công. Vì đó, anh em chúng tôi
đã mấy năm nay, thảo luận tìm được giải pháp chúng tôi đã chọn lựa, giải pháp
hòa giải dân tộc.
Nói như thế để thầy yên tâm.
Nếu có hận thù thì không thể lấy hận thù ra mà trả đối với tất cả mọi ai. Chúng
tôi đã chủ trương hòa giải với đối phương, không lý do nào chúng tôi không hòa
giải được với anh em một nhà. Thầy cứ yên tâm. Tôi xin hứa với thầy.
Với tinh thần đó, với tất cả
thiện chí và ý thức trách nhiệm, với ý muốn trân trọng phục vụ đất nước và nhân
dân, tôi xin nhận trách vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Xin cám ơn Tổng thống.
(vỗ tay)
Nhân dịp này tôi cũng xin
thông báo cùng toàn thể quý vị và đồng bào, là tôi đã mời luật sư Nguyễn Văn
Huyền, vốn Chủ tịch Thượng Viện, đảm nhiệm chức vụ Phó tổng thống (vỗ tay) và
giúp tôi về vấn đề hòa đàm. Luật sư Nguyễn Văn Huyền đã chấp nhận (vỗ tay). Tôi
xin long trọng giới thiệu Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền (vỗ tay).
Tôi cũng xin thông báo cùng
toàn thể quý vị và đồng bào rằng tôi đã mời Giáo sư Nghị sĩ Vũ Văn mẫu đảm nhận
chức vụ Thủ tướng chánh phủ và giáo sư Vũ Văn Mẫu đã chấp nhận (vỗ tay). Xin
long trọng giới thiệu Thủ tướng Vũ Văn Mẫu (vỗ tay).
Sau đây tôi xin phép trả lời
cùng đồng bào quốc dân.
Đồng bào thân mến, trong những
ngày qua, trước tình thế cực kỳ nghiêm trọng, nhiều đoàn thể, tôn giáo muốn tôi
đứng ra thành lập một chánh phủ mới. Tổng thống Trần Văn Hương chiếu các quyết
nghị ngày 26 và 27 tháng 7-1975 của lưỡng viện Quốc Hội đã quyết định trao quyền
tổng thống lại cho tôi. Tôi đã nhận trách nhiệm đó. Sứ mạng giao phó cho tôi rất
là rõ rệt:
1. Đạt tới thỏa hiệp ngưng bắn
càng sớm càng tốt.
2. Thương thuyết một giải
pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam trong khuôn khổ hiệp định Paris để chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình trong tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc.
…Tôi tin tưởng sẽ thành lập
được một chánh phủ như vậy trong thời gian ngắn nhất có thể mở lại một hòa đàm
với chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhận lãnh trách
nhiệm trong những giờ phút khẩn trương này, tôi chỉ có một ý muốn duy nhất là
đóng góp phần của tôi vào sự nghiệp hòa giải của dân tộc. Tôi gọi đó là sự nghiệp
của dân tộc. Vì hòa giải chỉ có thể thành tựu khi mọi đoàn thể, mỗi cá nhân dứt
khoát chấp nhận con đường hòa giải và dấn bước lên con đường đó với tất cả thiện
chí của mình. Đó là điều mà tình thế đang đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Những ngày sắp tới sẽ vô
cùng cam go. Tôi không hứa hẹn nhiều với đồng bào, nhưng trong ngắn hạn, chính
phủ sẽ hết sức cố gắng và ổn định các sinh hoạt kinh tế, xã hội, cải thiện đời
sống của đồng bào, cứu trợ nạn nhân chiến thuật, chính phủ bảo đảm tôn trọng
các quyền tự do dân chủ được xác định căn bản bởi tuyên ngôn quốc tế nhân quyền
và với điều 11 của Hiệp Định Paris.
…Một trong những biện pháp đầu
tiên là trả tự do cho những người bị giam giữ vì lý do chính trị và chấm dứt chế
độ kèm kẹp báo chí. Quan trọng hơn hết, chính phủ hòa giải hòa hợp, và riêng
tôi sẽ làm hết sức mình để đạt tới một giải pháp hợp tình hợp lý, bảo đảm quyền
sống của mọi thành phần dân tộc và các quyền tự do căn bản của mọi công dân. Sự
thành công của chính phủ sẽ tùy thuộc một phần lớn nơi sự bình tĩnh, sáng suốt
của đồng bào, nơi sự hỗ trợ tích cực mà đồng bào sẽ dành cho chính phủ.
Anh em chiến sĩ thân mến,
Tôi đã trải qua phần lớn cuộc
đời trong hàng ngũ của anh em. Hơn ai hết, tôi thông cảm tất cả những gì mà anh
em đã phải gánh chịu trong những tuần lễ bi thảm vừa qua, và giờ đây trang sử cũ
sắp lật qua, anh em đứng trước một nhiệm vụ mới, bảo vệ phần đất còn lại, bảo vệ
hòa bình. Anh em phải giữ vững tinh thần, anh em phải giữ vững hàng ngũ, anh em
phải giữ vững vị trí để hoàn thành nhiệm vụ đó (vỗ tay).
Khi nào có lệnh ngưng bắn,
anh em phải thi hành nghiêm chỉnh, điều hành sẽ đúng với các điều khoản các hiệp
định Paris gìn giữ trật tự an ninh trên phần đất của mình, bảo vệ sinh mạng và
tài sản của đồng bào, không bỏ súng, không bỏ ngũ. Trong mọi trường hợp, một
cách tuyệt đối thi hành chỉ thị của cấp trên. Mọi hành vi vô kỷ luật sẽ bị
nghiêm trị ngay tức khắc, giữ vững tinh thần, giữ vững hàng ngũ, tôn trọng kỷ
luật và góp phần lớn vào công cuộc vãn hồi nhanh chóng hòa bình.
Tôi cũng yêu cầu các công chức,
cán bộ, và lực lượng cảnh sát tiếp tục thi hành nhiệm vụ của mình và canh phòng
cẩn mật, không cho ai phá hoại.
… Sau đây, tôi có đôi lời gửi
đến Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và những người anh
em ở bên kia.
Chúng tôi thành thật muốn
hòa giải. Anh em biết rõ điều đó, hòa giải đòi hỏi các thành phần dân tộc phải
tôn trọng quyền sống của nhau, đó là tinh thần của hiệp định Paris. Anh em đã
luôn luôn chủ trương thi hành hiệp định Paris và chúng tôi cũng đã luôn luôn chủ
trương như vậy. Căn cứ trên hiệp định này, chúng ta hãy ngồi lại với nhau, để
cùng nhau tìm một giải pháp có lợi nhất cho tổ quốc Việt Nam và cho nhân dân miền
Nam. Để biểu dương thiện chí của đôi bên và để chấm dứt nhanh chóng sự đau khổ
của binh sĩ và nhân dân, tôi đề nghị chúng ta ngưng tức khắc các cuộc tấn công
lẫn nhau (vỗ tay).
Tôi mong anh em chấp nhận đề
nghị này và cuộc thương thảo sẽ khởi sự liền sau khi chính phủ được thành lập để
hòa bình sớm được vãn hồi trên đất nước thân yêu của chúng ta.
Đồng bào thân mến,
Trong những ngày qua, đồng
bào đã hoang mang lo sợ trước những diễn tiến của tình hình, nhiều người đã âm
thầm ra đi. Tôi muốn nói với tất cả đồng bào, đất nước này là quê hương của
chúng ta, hãy cương quyết và can đảm ở lại, giữa thân bằng quyến thuộc, mồ mả
ông bà tổ tiên ở lại, để cùng với chúng tôi, cùng với tất cả những người có thiện
chí, xây dựng một miền Nam mới cho các thế hệ tương lai.
Một miền Nam độc lập, dân chủ,
tự do, thịnh vượng, trên đó người Việt sẽ được sống an lành với người Việt trên
tình huynh đệ (vỗ tay).
Xin cám ơn đồng bào (vỗ
tay).
Đại tướng Dương Văn Minh nhậm
chức
Tổng thống VNCH ngày
28/4/1975
***
Những tiếng vỗ tay trong cuốn
băng ghi âm buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng thống cuối cùng của VNCH có lẽ cũng
là những tiếng vỗ tay chào mừng thắng lợi của phe thứ ba: Hòa hợp và Hòa giải
Dân tộc. Những tiếng vỗ tay đó cũng đã tắt lịm vào ngày 30/4/1975 vì chính quyền
mới hoàn toàn không chấp nhận: Chỉ có chuyện Đầu Hàng chứ không có chuyện Hòa
Giải.
Một thất bại cuối cùng không
kém phần ê chề trong một chuỗi thất bại của VNCH dẫn đến việc khai tử một quốc
gia!
Video clip: "Một ngày để
nhớ":
https://r4---sn-q4flrne6.googlevideo.com/videoplayback?id=65c64d7d86fc4e84&itag=18&source=blogger&mm=31&mn=sn-q4flrne6&ms=au&mv=m&pl=20&ei=fSuzXOyrE4XyuwWc9Z-YCQ&susc=bl&mime=video/mp4&dur=189.451&lmt=1348093253500151&mt=1555245839&ip=107.213.22.235&ipbits=0&expire=1555274749&sparams=ip,ipbits,expire,id,itag,source,mm,mn,ms,mv,pl,ei,susc,mime,dur,lmt&signature=C5E42E3D5C65015C483F1AE77FCD62C5AA2E12880A57B1D21C30F741C5C7AE71.50540EA84B297A349BBF7A24D603FE101DC9B7FA4937E91DCE05426A9D5207C8&key=us0&cpn=0SK582kmLmqS6YPp&c=WEB_EMBEDDED_PLAYER&cver=20190410
***
***
17 Comments on Multiply
chackadao wrote on Apr 19,
'11
My rut quan 1972, chi 2 nam
sau 1975 mat nuoc. Nguyen V Thieu vien co My rut vien tro dua den mat mien Nam
la khong the chap nhan duoc. So sanh voi Cong san ton tai 35 nam sau khi Lien
Xu sup do, Cong San cung bi cat vien tro, vay 35 nam qua Nguyen Van Thieu luu
vong, khong lam duoc cai coc kho gi cho dat nuoc, chet tren xu nguoi.
scommando wrote on Apr 19,
'11
chackadao said “My rut quan
1972, chi 2 nam sau 1975 mat nuoc. Nguyen V Thieu vien co My rut vien tro dua
den mat mien Nam la khong the chap nhan duoc. So sanh voi Cong san ton tai 35
nam sau khi Lien Xu sup do, Cong San cung bi cat vien tro vay
35 nam qua Nguyen Van Thieu
luu vong, khong lam duoc cai coc kho gi cho dat nuoc, chet tren xu nguoi”.
Vậy cái thân của chackadao
có làm được cóc khô gì cho đất nước chưa mà đi khinh chê tổng thống Thiệu? Hay
chỉ biết tạo 1 cái blog trống để đi rình mò khắp các blog, báo thông tin về cho
"chủ"?
chauxuannguyen wrote on Apr
21, '11
scommando said “Vậy cái thân
của chackadao có làm được cóc khô gì cho đất nước chưa mà đi khinh chê tổng thống
Thiệu? Hay chỉ biết tạo 1 cái blog trống để đi rình mò khắp các blog, báo thông
tin về cho "chủ"?”
Hoan hô bạn scommando !!!
Thân ái,
Chau Xuan Nguyen
bayhoang79 wrote on Apr 20,
'11
Anh Chính Ơi! Nhắc tới ngày
Quốc Hận 30 tháng 4 là chúng tôi không bao giờ có thể quên được! Có biết bao kỷ
niệm đau thương đã xảy ra sau cái ngày đó, nói không hết! Nhưng cũng nhờ cái
ngày đó mà dân tộc Việt chúng ta được di cư tới một nước Tự Do Dân Chủ nhất Thế
Giới!
andropause wrote on Apr 20,
'11
Bài review rất xúc tích. Anh
Chinh chắc phải tham khảo nhiều để viết bài này? Ngày 30/4 thật là một ngày
không thể quên đối với cả hai phía.
nam64 wrote on Apr 21, '11,
edited on Apr 21, '11
Cho em Ròm này xin bài này về
nha, để gom chung vào những tài liệu của Ròm từng sưu tầm được trên mạng. Cám
ơn anh nhiều.
nguyenngocchinh wrote on Apr
21, '11
nam64 said “Cho em Ròm này
xin bài này về nha, để gom chung vào những tài liệu của Ròm từng sưu tầm được
trên mạn .Cám ơn anh nhiều.”
It's OK, Nam Ròm.
trangluong wrote on Apr 21,
'11
Cám ơn anh đã góp thêm một
cái nhìn về ngày lịch sử tang thương này!
Xin gởi một vòng hoa tang
khó cho những người nằm xuống và những nạn nhân của ngày 30.4.75
chauxuannguyen wrote on Apr
21, '11, edited on Apr 21, '11
trangluong said “Cám ơn anh
đã góp thêm một cái nhìn về ngày lịch sử tang thương này!
Xin gởi một vòng hoa tang
khó cho những người nằm xuống và những nạn nhân của ngày 30.4.75”
Xin gởi một vòng hoa tang
khó cho những người nằm xuống và những nạn nhân từ ngày 20.07.1954 đến ngày
30.4.75. Sửa bạn Trang Lương 1 tí cho đầy đủ... Muốn đầy đủ hơn thì.... Xin gởi
một vòng hoa tang khó cho những người nằm xuống để bảo vệ nền tự do dân chủ
phôi thai của người VN chúng ta và những nạn nhân từ ngày 20.07.1954 đến ngày
30.4.75.
trangluong wrote on Apr 21,
'11
Ai muốn gởi hoa cho ai thì gởi
mà bác CXN!
chauxuannguyen wrote on Apr
21, '11
trangluong said “Ai muốn gởi
hoa cho ai thì gởi mà bác CXN!”
Chào bạn Trang Luong,
Đồng ý 100%, đó là ý nghĩa của
tự do,
Thân ai,
Chau Xuan Nguyen
Happy Easter
ks2083 wrote on Apr 22, '11
Cám ơn anh. Bài viết làm tôi
sống lại những ngày tháng đầy biến cố của 36 năm về trước, tưởng như một khúc
phim chậm, rõ ràng từng nét một với những nỗi đau xót, kinh hoàng của một người
vừa bị mất quê hương, một mất mát lớn lao không gì bù đắp lại được.
Chúc anh một lễ Phục Sinh an
bình.
chauxuannguyen wrote on Apr
22, '11
ks2083 said “Cám ơn anh. Bài
viết làm tôi sống lại những ngày tháng đầy biến cố của 36 năm về trước, tưởng
như một khúc phim chậm, rõ ràng từng nét một với những nỗi đau xót, kinh hoàng của
một người vừa bị mất quê hương, một mất mát lớn lao không gì bù đắp lại được.
Chúc anh một lễ Phục Sinh an
bình.”
Chào các bạn,
Tôi ko có mặt ở SG ngày đó,
vì tôi bước chân lên phi cơ qua Úc du học ngày 16.02.1975 (mùng 4 Tết). Nhưng
bên Úc, liên tục mỗi ngày đọc báo Úc về việc triệt thoái Tây Nguyen, Dà Nẵng,
Huế thất thủ, rồi Long Khánh... rất bồn chồn nhưng không làm dc gì cả. Tôi nghĩ
nếu tôi còn ở SG lúc đó thì chắc cũng... ngậm ngùi cho đất nước lắm. Bây giờ vẫn
còn ngậm ngùi, tiếc thương cho một Hòn Ngọc Viễn đông bị thiểu số người man rợ
(lời của Dương thu Hương) cầm đầu là thằng siêu lừa HCM: "Đồng bào miền Bắc
phải hy sinh để giải cứu dân miền Nam bị kiềm kẹp bởi Mỹ - Ngụy"
Do dân trí thấp, phương tiện
thông tin ko cao nên 86 triệu người bị lừa. Tôi quyết tâm dùng mạng để nâng cao
dân trí càng nhiều người dân càng tốt để CS ko còn lừa bịp dc dân tộc tôi.
Thân ái,
Chau Xuan Nguyen
nguyenngocchinh wrote on Apr
22, '11
chauxuannguyen said “Tôi ko
có mặt ở SG ngày đó, vì tôi bước chân lên phi cơ qua Úc du học ngày 16.02.1975
(mùng 4 Tết)”
CXN là một trường hợp may mắn,
đi Úc trước vài tháng, còn tôi thì lại ở từ Mỹ về Sài Gòn trước vài tháng! Hai
trường hợp trái ngược nhau thật thú vị!
chauxuannguyen wrote on Apr
30, '11
nguyenngocchinh said “CXN là
một trường hợp may mắn, đi Úc trước vài tháng, còn tôi thì lại ở từ Mỹ về Sài
Gòn trước vài tháng! Hai trường hợp trái ngược nhau thật thú vị!”
I bet you do not find it as
interesting as I do when i found out about VIR, well kept secrete. Pls drop me
a line on tcdrafting@bigpond.com
Thanks and regards,
Chau Xuan Nguyen
nhavietnam wrote on Apr 23,
'11, edited on Apr 24, '11
Mời các Bạn ghé qua YOUTUBE
ôn lại lịch sử cùng Tôi:
+ NHỮNG KẺ BỊ PHẢN BỘI, BỎ
RƠI, VÀ LÃNG QUÊN
+ TRẢ LẠI TỰ DO CHO DÂN VIỆTNAM
+ KHÔNG VỀ VIỆTNAM
nguyenngocchinh wrote on Aug
2, '11
'Sài Gòn Bỏ Ngỏ...' đã đăng
trên Văn thơ Lạc Việt:
4 nhận xét:
Anna Nguyen06:37 20 tháng 9,
2012
Từ hệ quả của năm 1975 cho tới
nay, những ai là người gánh chịu thiệt thòi và đau đơn nhất?????
Trả lời
Ngoc Chinh Nguyen07:35 20
tháng 9, 2012
Thiết nghĩ Anna hỏi như vậy
tức là đã trả lời rồi đấy!
Trả lời
bussoni12821:41 28 tháng 4,
2014
Hai chữ "Bỏ ngõ"
là ấn tượng nhất.! "Bỏ ngõ" gần như đồng nghĩa với chỗ thinh không,
không có vật chướng ngại gì cản trở !.
Không biết tự bao giờ, trong
tiếng Việt định nghĩa rằng đi vào những chốn "bỏ ngõ" được xem là
"Đại thắng" trong một cuộc "chiến tranh thần thánh" vĩ đại
! Nghe như vậy có cảm tưởng như những người rừng bập bẹ tập nói tập viết thứ tiếng
của người văn minh nên còn loạc choạc chăng ?
Trở thành loại tiếng khó hiểu
với lớp người già sống ở Nam phần kể từ sau 300475
Trả lời
cuchuoi12:09 5 tháng 4, 2017
Đọc trong này xong,không biết
cái thành phần của ; " Lực Lượng Thứ ba " là những người nào ???
Trả lời
No comments:
Post a Comment