NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN TRƯỚC
1975
NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN TRƯỚC 1975
Từ lâu, tôi đã có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên
cho các đường phố tại Sài Gòn vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta dành được độc
lập từ tay thực dân Pháp. Vì đây là một công việc quá xuất sắc và quá hoàn thiện,
nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công trình do sự đóng góp công sức và
trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia,
nhiều nhà văn, nhà báo…
Bản đồ Saigon trước 75
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi
qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác
của lịch sử này đã được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn
Phát, Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Sài Gòn.
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sài Gòn
Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, tôi có dịp góp phần
trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Sài Gòn Tây
(Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Sài Gòn Đông
(Sài Gòn) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ
trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì ngập nước sau cơn mưa, đường thì có ổ
gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường thì dân xây cất
trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc lòng tên hơn 300 con đường.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:
•Boulevard Charner
•Boulevard Galliéni
•Boulevard Kitchener
•Boulevard Norodom v.v
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính
Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài Gòn được
lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng
thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên
hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi.
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường
sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân
Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2
con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy còn thấy
không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp
rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ là phần
hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút
hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Phòng Hoạ
Đồ.
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng Đô
Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm
1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận
được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên đường trên họa đồ, khu nào
thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên gì và vị trí gắn
bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc
đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với địa thế, và
các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa tổng quát
lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa tình vừa lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước,
vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán
riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là ông có ý ấy:
•Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng
ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc
công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
•Đường đi ngang qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
•Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương
Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sài Gòn.
Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công Lý và Thống Nhất giao
kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
•Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch
Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20
vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của
ngài.
•Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ
Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi
nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ,
Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan
Thanh Giản tuẫn tiết.
•Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc
Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước
giữ nước của các ngài.
•Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn
nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
•Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
•Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến
Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch
sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
•Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng cho tôi, khi nói
chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn
truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt,
khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều
làm bằng. Vậy phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa
có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua
công viên đẹp nhất Sài Gòn, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng
đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên
thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
•Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên
một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự
Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
•Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài Gòn thì, (trớ trêu thay?), lại
mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ
nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ Trung Học công lập lớn
nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai
bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa
Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
•Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ
Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng có lý hơn nữa có lẽ
là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ
“Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường
có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.
Ông Nhà Văn – Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Thuần Phong Ngô Văn Phát
Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô Văn Phát đã về hưu nên tôi
không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết
thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đã làm được việc quá xuất
sắc và hi hữu này.
Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ,
sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa
đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường,
từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của
Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại trường Pétrus ký Sài Gòn.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân
Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ
ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne
(Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với
thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn
Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa,
Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.
Huỳnh Ái Tông, Lý Trương Quang, Bùi Văn Sớm, Nguyễn Văn Trung, Lê Thị
Mai,Nguyễn Thị Bích Vân, gia chủ, KTS Vinh. Hàng ngồi: gs Thuần Phong Ngô Văn
Phát …
Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân
No comments:
Post a Comment