Những cái tên bình dị về Núi & Đèo (2/5)
Núi & Đèo (2)
(Tiếp theo)
Đi từ đồng bằng lên cao
nguyên bằng đường bộ chúng ta sẽ phải qua những đoạn đường đèo xuyên các rặng
núi. Việt Nam có khoảng hơn 30 đường đèo lớn nhỏ cũng như dài ngắn. Trong phạm
vi bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến những cái tên bình dị nhưng cũng kỳ lạ
của núi và đèo mà tôi đã từng nghe đến hoặc có dịp đi qua trong những chuyến
cross-country xuyên Việt vào cuối thập niên 90.
Đến Nha Trang, đoàn sinh
viên Mỹ khám phá một điểm du lịch sinh thái mới trên Hòn Hèo, chính thức đón
khách du lịch từ cuối năm 1998. Hòn Hèo là núi đảo cao nhất Nha Trang (873 m)
bên cạnh các Hòn Phủ Mái Nhà, Hòn Răng Cưa, Hòn Tiên Du… trong dãy Phước Hà
Sơn, có 3 mặt giáp biển, một mặt giáp xã Ninh Phú.
Kho tàng ngôn ngữ Việt Nam
quả là phong phú nhưng cũng không kém phần dí dỏm. Riêng chỉ ở Nha Trang cũng
đã có những cái tên như Hòn Tre, Hòn Vợ, Hòn Chồng, Hòn Mun, Hòn Tằm, Hòn Đỏ… rồi
thì ở Phan Thiết có Hòn Rơm; Phú Yên có Hòn Rùa; Rạch Giá có Hòn Sơn; Kiên
Giang có Hòn Phụ Tử, Hòn Nghệ; Cà Mau có Hòn Khoai; Hải Phòng có Hòn Dâu; Thanh
Hóa có Hòn Ne… và ở tít ngoài Biển Đông có Hòn Ngư, Hòn Tro…
Cách Nha Trang 37 km có Hòn
Bà là một khu rừng nguyên sinh, độ cao 1.574m, có khí hậu của vùng ôn đới thuộc
huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Tại đây, năm 1915, bác sĩ Yersin đã dựng nhà
để ở và trồng cây canh-ki-na là cây được dùng làm nguyên liệu chế ra thuốc ký
ninh trị bệnh sốt rét. Hòn Bà hiện là khu du lịch với nhà nghỉ, rừng hoa và hệ
thống cáp treo.
Theo ‘chúa đảo’ Đinh Ngọc
Thi, người phụ trách Hòn Hèo, cái tên ngộ nghĩnh của núi đảo này xuất phát từ
loại dây mây được khai thác làm gậy (hèo), nột lọai ba-tong người già hay dùng
để di chuyển. Cũng theo lời anh, ‘đảo danh’ Hòn Hèo đã đi vào văn chương dân
gian. Anh dẫn chứng:
Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi
Hòn Hèo đội mũ thì trời sắp
mưa
Muối Hòn Khói, ruộng Đồng
Hương
Hòn Hèo mây bạc, nước nguồn
Cửa Bô
Rồi lại có cả bài hát:
Hòn Hèo đội mũ
Mây phủ Đá Bia
Cóc nhái kêu lia
Trời mưa như đổ.
Anh chê em nghèo khổ
Kiếm chỗ sang giàu
Rồi mai sau anh sụp
Như cái đầu cầu chợ Dinh.
Để thưởng thức cảnh đẹp của
suối Hoa Lan trên Hòn Hèo, khách phải đi đường bộ qua đèo Rù Rì đến cầu cảng Đá
Chồng, sau đó mất khoảng 40 phút đi tàu ra đảo rồi leo 374 bậc thang để lần lượt
ghé 3 tầng thác nước ở độ cao 778 mét.
Sinh viên Mỹ tại Suối Hoa
Lan trên Hòn Hèo
Đèo Rù Rì, lại một cái tên rất
dân giã, là đường đèo cuối cùng tại miền Nam, nối liền Nha Trang với Ninh Hòa,
nơi có món nem nổi tiếng. Người ta giải thích tại đoạn đường đèo dài 2 km này
trước kia có nhiều cây “rù rì” nên có tên như vậy. Người khác lại cho rằng rù
rì là tên một loài chim có tiếng kêu thảm thiết và sau mỗi lần kêu đều có tiếng
“rù” thật dài trong cổ họng.
Tôi lại nghĩ khác, có phần
tiếu lâm: đây là đoạn đường đèo ngắn nhưng rất nguy hiểm nên khi vượt đèo người
ta chỉ nói chuyện “rù rì” chứ không còn giữ giọng điệu bình thường! Bằng chứng:
xung quanh đèo Rù Rì có bãi tha ma, trên đỉnh đèo còn có tượng Đức Mẹ Maria giơ
tay ban phước cho vùng đất có ngọn đèo nguy hiểm này.
Đèo Rù Rì
Có một bãi rác lớn trên đèo
Rù Rì lẫn lộn với bãi tha ma. Chúng tôi đã gặp những con người không phải chỉ sống
với rác một giờ, một ngày mà họ đã trải qua nhiều năm, nhiều tháng, thậm chí cả
một đời phải sống chung với rác. Họ cho biết, mỗi ngày có từ 50 đến 60 xe ép
rác, chuyển từ 300 đến 400 tấn rác về đây.
Những người sống bên rác gắn
bó với cái cào có hai chấu, một chiếc bao trên vai, một ngọn đèn soi trên trán
và một đôi ủng dưới chân. Ngày ngày, dù nắng mưa, dù gió rét, cứ khoảng 5 giờ
chiều họ túa ra bãi rác và đợi những chiếc xe chở rác về. Họ lăn lộn với rác đến
sáng để bươi móc, săn nhặt những chiếc bao nilông, những mảnh nhựa vỡ, chút dây
kẽm, dây điện và hàng trăm thứ linh tinh không tên khác.
Bãi rác trên đèo Rù Rì
Ngoài Rù Rì, nếu đúng là ngọn
đèo mang tên một loài chim có tiếng kêu rù rì, còn có một ngọn đèo lại mang tên
một loài chim thuộc loại “vua của các loài chim”: Phượng Hoàng. Đèo Phượng
Hoàng, còn gọi là Đèo M’Drak, có chiều dài 12 km, nằm trên quốc lộ 26, đoạn
giáp ranh giữa tỉnh Khánh Hòa với Đắc Lắc. Thủ phủ của Đắc Lắc là thị trấn Ban
Mê Thuột, nơi tôi đã có một thời gian sinh sống thời niên thiếu.
Tháng 3/1975 đã xảy ra một
cuộc đụng độ lớn giữa quân đội hai miền Nam-Bắc trên đèo Phượng Hoàng. Lính nhảy
dù của VNCH đã được thả xuống đây trong nỗ lực tái chiếm Ban Mê Thuột và đèo
Phượng Hoàng cũng là đường rút lui đầy máu và nước mắt của quân và dân từ cao
nguyên đổ xuống miền duyên hải Nha Trang trước khi Sài Gòn sụp đổ.
Có người nói ngọn đèo Phượng
Hoàng chỉ là một cái tên đã được thi vị hóa. Thực tế chẳng thấy bóng chim phượng
hoàng mà chỉ toàn loài quạ đen. Trên đỉnh đèo, quạ kêu inh ỏi cộng thêm với những
chiếc am nhỏ để tưởng niệm những người đã mất khiến cho đèo Phượng Hoàng mang một
bầu không khí ảm đạm, chết chóc khi nghĩ đến dòng người di tản đổ đèo năm 1975.
Đèo Phượng Hoàng là ranh giới giứa Khánh Hòa & Đắc Lắc
Phong cảnh và những dấu tích
lịch sử quan trọng khiến cho đèo Phượng Hoàng có một sức hút đặc biệt đối với
du khách khi có dịp ngược đồng bằng lên với vùng cao nguyên đất đỏ. Đó là chưa
kể những người đến đây vì những kỷ niệm một phần đời có liên quan đến xứ “bụi
mù trời, buồn muôn thuở” Ban Mê Thuột và Nha Trang “miền quê hương cát trắng”.
Tôi biết đến Nha Trang vào
những năm cuối cùng của thời trung học. Học xong Đệ Nhị tại trường Trung học
Ban Mê Thuột tôi phải xuống Nha Trang để thi Tú tài 1 vì BMT hồi đó chưa có hội
đồng thi. Xong Đệ Nhị, tôi lại vòng về Đà Lạt để tiếp tục học năm Đệ Nhất tại
trường Trần Hưng Đạo. Có lẽ cuộc đời học sinh của tôi có sao “thiên di” chiếu mệnh
vì phải phiêu bạt đến nhiều thành phố.
Bây giờ, dù đã đến Nha Trang
nhiều lần, nhưng tôi vẫn giữ những ký ức của tuổi học trò thời mới lớn: Nha
Trang là thành phố biển sinh động với nhịp sống hối hả hơn Ban Mê Thuột rất nhiều.
Tôi nhớ mãi một câu chuyện
có phần tiếu lâm khi làm “sĩ tử” tại miền quê hương cát trắng. Tại Ga Nha Trang
có nhiều gánh đậu hũ bán dạo, có cô mời khách bằng câu: “Đậu không cụ?”. Khi
đó, trong lòng thắc mắc nhưng không dám hỏi tại sao cô lại mời như vậy. Mãi sau
mới biết là cô… nói lái!
Tại Nha Trang ngày xưa có rất
nhiều quân trường của Không quân, Hải quân và Biệt động quân nhưng tôi muốn nhắc
đến Trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế với bức tượng người lính cầm súng đứng theo thế
“thao diễn nghỉ” dựng trên vách núi. Xa xa là dãy núi Hòn Khô, trông mường tượng
như một cô gái đang nằm… Thế nên mới có hai câu thơ bất hủ của một thi sĩ nào
đó:
“Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ ai”
Ngày nay, bức tượng người
lính không còn nữa. Cứ tưởng anh lính đứng trên núi ngàn năm, ngờ đâu người
lính biến mất khi miền Nam sụp đổ. Nghĩ cho cùng, cuộc đời này chẳng bao giờ có
sự vĩnh viễn vì quy luật của tạo hóa là sự thay đổi, tiến hóa không ngừng.
Đèo Phượng Hoàng
Từ Nha Trang muốn lên “phố
núi” Pleiku thuộc tỉnh Gia Lai phải vượt qua hai địa danh mang những tên rất
quái dị: dốc Đầu Lâu và đèo Măng Giang (Mang Yang). Người địa phương giải
thích, theo tiếng Gia Rai, “măng” có nghĩa là cổng còn “giang” là trời. Chắc
người ta muốn nói đèo Măng Giang cao ngất như cổng lên trời.
Như vậy, ngoài “cổng trời”
trên Tây Nguyên, nếu đi khắp Việt Nam ta còn có dịp qua những “cổng trời” ở Quản
Bạ trên cao nguyên đá Đồng Văn, “cổng trời” nằm trên đèo Kéo Cao của ngọn núi
Phia Đây, có độ cao gần 1.000 m so với mặt biển tại Cao Bằng…
Không thể không nhắc đến trại
giam “Cổng Trời”, nơi giam giữ các trọng tội hình sự và các tù nhân tôn giáo
trong đợt xóa sổ năm 1959 tại miền Bắc và sau đó mở tung cánh cửa một lần nữa
vào năm 1976 để đón những tù nhân cải tạo từ miền Nam gửi ra [1].
Có người lại gọi Măng Giang
là dốc “Mang Rơi” vì khi qua đây là chấp nhận để tất cả những gì mình có “rơi”
lại phía sau lưng và đương đầu với mọi khó khăn trước mặt ở phía bên kia dốc.
Đó là tâm trạng của những người, vì cuộc sống đòi hỏi, phải lặn lội lên miền đất
“khỉ ho, cò gáy” để mưu sinh.
Trong các đèo ở Tây nguyên
thì có lẽ Măng Giang là nơi có nhiều tai nạn nhất trên quốc lộ 19 nên có biển
báo “Đèo Măng Giang - Cua gấp nguy hiểm, lái xe chú ý giảm tốc độ”. Đường đèo
khá rộng nhưng ngay tại đỉnh đèo có dốc thẳng đứng, nhiều bác tài lạ đường cứ
nhấn ga bon bon, không kịp đề phòng khi gặp khúc cua gấp.
Đèo Măng Giang
Sau khi vượt đèo Măng Giang
xe chúng tôi đi qua rất nhiều vườn trồng cà phê, một thế mạnh của vùng cao
nguyên. Rất may, khi đó đang vào thời điểm cà phê nở hoa trắng xóa trên nền lá
xanh um. Xe dừng lại để sinh viên tỏa vào vườn, chiêm ngưỡng hoa cà phê bằng mắt
và cả bằng mũi: hoa cà phê thơm, mùi hương dịu nhẹ, thoang thoảng. Có sinh viên
còn nhận xét một cách dí dỏm: mùi hoa cà phê khác hẳn mùi cà phê khi uống!
Nhân dịp lên Pleiku, đoàn
sinh viên Mỹ ghé vào Dakto, một địa danh nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam.
Những cái tên thời chiến như Dakto, Charlie, Snoul, Krek, Toumorong… đã đi vào
thơ, nhạc như trong bài hát Người ở lại Charlie của Trần Thiện Thanh [2]:
Toumorong, Dakto, Krek,
Snoul
…
Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ
Lào thức sâu
Anh! Cũng anh vừa ở lại một
mình, vừa ở lại một mình
Charlie, tên vẫn chưa quen
người dân thị thành.
Chiến trường Dakto vào Mùa
hè đỏ lửa năm 1972 giờ chỉ còn trơ lại những ngọn đồi trọc xác xơ cây cối. Chuyến
ghé Dakto được coi như một cuộc hành hương về chiến trường xưa đồng thời cũng
là dịp tốt để sinh viên có thể “mắt thấy, tai nghe” sinh hoạt buôn làng của người
Sedang bên dòng Dakto có cây cầu treo bắc ngang.
Cầu treo bằng dây mây bắc
ngang sông Dakto
Trong khi người Sedang thoăn
thoắt bước đi trên cầu, đám sinh viên dò dẫm từng bước trên mặt cầu rung rinh,
chao đảo theo từng bước. Cầu được thiết kế hoàn toàn bằng dây mây, bề ngang chỉ
có 3 tấm ván, nhiều chỗ chỉ còn 2, nhìn qua khe hổng trên mặt cầu dòng nước
sông Dakto vẫn lững lờ chảy. Chắc chắn đó là một trong những kỷ niệm khó quên đối
với những người trẻ đến từ một thế giới
khác…
Sinh viên trên chiếc cầu
treo
Tỉnh láng giềng Kon Tum có một
đường đèo cũng mang tên Măng nhưng lại là Măng Đen nằm trong địa phận huyện Kon
Plong. Với độ cao 1.100 mét, rừng nguyên sinh, rừng thông đỏ cùng hàng chục hồ
và thác nước, Măng Đen hiện đang được quy hoạch thành khu du lịch quốc gia, được
mệnh danh là "Đà Lạt thứ hai" hay "Đà Lạt của Kon Tum".
Đèo Măng Đen
Nằm giữa tỉnh Gia Lai và
Bình định là Đèo An Khê, dài khoảng 20 km. An Khê dài, quanh co nhưng không dốc
bằng đèo Măng Giang. Qua đỉnh đèo, huớng xuống Quy Nhơn, có ngay một khúc cua
tay áo rất nguy hiểm.
Trên đèo An Khê đã diễn ra một
trận đánh lịch sử vào tháng 6/1954. Quân đội Pháp vì lo ngại nguy cơ bị bao vây
như ở Điện Biên Phủ nên quyết định nhanh chóng bỏ căn cứ An Khê để rút về
Pleiku cách đó 80 km. Binh đoàn cơ động 100 được lệnh hành quân bằng cơ giới
theo Quốc lộ 19 và đã bị đánh chặn. Tổn thất của người Pháp lên đến 500 và khoảng
600 người bị thương.
Đèo Măng Giang và đèo An Khê
là hai con đèo lớn nhất trên Quốc Lộ 19 từ ngã ba Bà Di lên cửa khẩu Lệ Thanh,
huyện Đức Cơ, Gia Lai. Măng Giang có độ dài thua xa đèo An Khê, phong cảnh cũng
không thể sánh bằng An Khê. Từ trên đỉnh đèo An Khê bạn có thể phóng tầm mắt
bao quát một phần tỉnh Bình Định với các huyện Tây Sơn, An Lão, Tuy An...
Đường vào thị xã An Khê
Như đã nói, vừa ra khỏi
thành phố Nha Trang là gặp ngay đèo Rù Rì, sau đó đến đèo Rọ Tượng, còn có tên
là Ruột Tượng, ranh giới giữa huyện Ninh Hòa và Vĩnh Xương thuộc tỉnh Khánh
Hòa. Ít người biết trong lòng đất bên dưới đèo Rọ Tượng là đường hầm dành cho
xe lửa trên tuyến đường sắt Bắc-Nam.
Nguyễn Đình Tư trong Non nước
Khánh Hòa giải thích về cái tên Rọ Tượng: ngày xưa vùng này có nhiều voi, còn
được gọi là tượng. Người dân thường làm những chiếc rọ đặt trên đèo để bắt voi…
(?). Lại có một lối giải thích khác cho rằng vì có khúc rộng ở giữa nhưng thắt
lại ở hai đầu nên đường đèo này được gọi là “ruột tượng” (?).
Đèo Rọ Tượng băng qua núi Đá
Vách thuộc huyện Ninh Hòa. Từ Nha Trang, khi qua khỏi đèo sẽ gặp sườn núi vòng
sâu vào bên trong thành một hình móng ngựa gồm Hòn Son (660m), Hòn Khô (329m)
Hòn Chùa (682m). Hiện vẫn còn dấu tích thành Thạch Lũy của người Chiêm Thành.
Dưới chân thành có một hồ nước trong veo sâu thăm thẳm, xung quanh hồ, đá được
xếp thành bờ rất đẹp.
Đèo Rọ Tượng
Tiếp nối đèo Rọ Tượng là đèo
Bánh Ít cũng thuộc huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà. Đèo Bánh Ít và núi Ổ Gà (cao
gần 400 m) là hai địa danh quen thuộc của người dân Ninh Hòa. Núi Ổ Gà địa thế
hiểm trở nên từ năm 1945 trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp đã trở thành một mật
khu của Việt Minh. Người dân tỉnh Khánh Hòa thường nhắc đến 4 địa danh nổi tiếng:
“Mưa Đồng Cọ, gió Tu Hoa, cọp Ổ Gà, ma Hòn Lớn”.
Phía bên phải đèo Bánh Ít là
một đồi tròn cao non 200 m trông giống như cái bánh ít lột trần nên có lẽ vì vậy
đèo mang luôn cái tên Bánh Ít. Có người lại kể theo tương truyền thời xa xưa một
bà già hằng ngày ngồi trong túp lều tranh ngay trên đỉnh đèo bán bánh ít. Bánh
ít của bà ngon có tiếng khiến khách qua đường thường ghé ăn bánh ít và xin nước
uống.
Đèo Bánh Ít
Trên đọan đường từ Ninh Hòa
đi Tuy Hòa dài 91km còn có đèo Cổ Mã dẫn ra biển Đại Lãnh. Đèo Cổ Mã nằm gần
núi Đại Lãnh trên Quốc lộ 1A, thuộc địa bàn xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hoà. Tại đây có hầm xe lửa dài 402m, từ km 1284+262 ở phía nam ga Ninh
Hoà và vào thời Nguyễn đã có trạm bưu điện dưới chân đèo.
Tên đèo nằm giữa cao nguyên
và duyên hải tại vùng này quả thật là “khác người”. Về tên gọi Cổ Mã, sách Non nước Khánh Hoà giải thích
vì hình núi ở đây giống như cổ con ngựa. Chắc có lẽ phải nhìn từ trên cao hoặc
đi từ ngoài biển vào trông mới thấy cổ ngựa.
Dưới chân đèo Cổ Mã còn có một
bãi tắm tuy nhỏ, vắng người nhưng thật lý tưởng cho những ai thích hòa mình vào
thiên nhiên. Nhiều người cho rằng bãi biển Đại Lãnh gần đó, dù đã được Tổ chức
Du lịch thế giới đánh giá là “tầm cỡ thế giới”, nhưng quả thật không bằng tắm ở
Cổ Mã hoang sơ, vắng lặng và gần gũi với thiên nhiên hơn.
Đèo Cổ Mã
(Còn tiếp)
***
Chú thích:
[1] Đọc Trại giam Cổng trời,
Mặc Lâm, Đài Á châu Tự do (RFA):
Phần 1: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-heaven-gate-prison-part-1-mlam-12242010115316.html
Phần 2: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/The-heaven-gate-prison-part-2-mlam-12252010101354.html
[2] Video clip Người ở lại
Charlie do Thanh Lan & Duy Quang trình bày:
***
3 nhận xét:
backy5411:14 26 tháng 1,
2013
Hay quá. Cám ơn anh Chính.
Làm tôi nhớ lại những ngày ở
Dakto và Tân Cảnh.
Và lần sau cùng tôi từ Nha
Trang vượt đèo Phượng Hoàng vào Ban Mê Thuột một chiều tối tháng 3/74 ảm đạm buồn
hiu hắt.
Trả lời
nguoigia online08:55 27
tháng 1, 2013
Bài viết hay quá, entry nào
của anh cũng khiến NG nhớ nhung thật nhiều... Cảm ơn anh.
Trả lời
bố susu11:36 27 tháng 1,
2013
bài viết có rất nhiều thông
tin để tham khảo
đọc blog của chú có rất nhiều
thông tin bổ ích
cám ơn chú đã chia sẻ
Trả lời
No comments:
Post a Comment