The Sympathizer (2/3)
Những điều muốn nói…
(Tiếp theo)
Suốt 23 Chương trong “The
Sympathizer” (gần 400 trang) được viết theo dạng của một “bản tự khai” hay còn
gọi là “tự thú” (confession) của viên Đại úy “nằm vùng”, khai cho “Cấp Chỉ Huy”
(Commandant) sau khi anh bị bắt trong lần trở về Việt Nam khi không có lệnh của
“tổ chức”.
Đây là hình thức thường thấy
trong các trại cải tạo sau năm 1975, qua đó người ta tự khai với “tổ chức” những
điều đã làm và dĩ nhiên phải có phần “soi rọi bản thân” để rút ra những sai lầm
trong quá khứ. Một bản tự khai như vậy sẽ phải dùng đại danh từ “Tôi” (hay “bản
thân tôi”).
Cũng vì thế trong suốt cuốn
truyện, nhân vật chính chỉ xưng… “Tôi”. Văn phong của “The Sympathizer” là lối
tự truyện, hoàn toàn độc thoại và không có “gạch đầu dòng” cho những đối thoại.
Đây là một cách viết rất khó mà đa số các nhà văn đều tránh. Nhưng phải nói,
Nguyễn Thanh Việt khá thành công trong lối đặc tả vừa nghiêm trang nhưng cũng
có không ít chất hài hước.
Tác giả cho biết, anh muốn
viết khác với những gì mà người đọc mong chờ từ một nhà văn thuộc nhóm thiểu số
(da vàng hoặc da đen) trong “làng văn” tại Hoa Kỳ mà đa số (người viết cũng như
người đọc) là những người da trắng. Về nội dung, anh muốn viết về thân phận của
con người trong cuộc chiến vừa qua. Cái nhìn đó xuất phát từ cả 3 phía: Hà Nội,
Sài Gòn và Washington.
Nguyễn Thanh Việt thừa nhận
mình đã nhiều lần bị từ chối đăng bài trước khi được giải Pulitzer. Trên trang
Facebook của mình, anh cho biết hàng trăm lần các bài viết, các tác phẩm phê
bình và văn chương của anh bị từ chối in. Anh còn nhấn mạnh: “Trong suốt thập kỷ
qua, tôi đã giữ danh sách những lời từ chối in tác phẩm, để tránh việc mình gửi
tác phẩm ấy cho người đã từng từ chối nó”!
Bìa sách “The Sympathizer”,
Nhà xuất bản Grove Press, 2016
Ba Chương đầu của cuốn truyện,
người đọc sống trong tâm trạng rối bời của Sài Gòn “hấp hối”, chờ thất thủ. Phần
lớn những chi tiết đã được chúng tôi đề cập đến trong Phần 1 của bài viết, “The
Sympathizer (1): “Kẻ mằm vùng” hay “Cảm tình viên”, http://chinhhoiuc.blogspot.com/2016/05/the-sympathizer-1-ke-nam-vung-hay-cam.html
Ở Chương 3, đại gia đình của
“Ông Tướng” gồm cả bà con, họ hàng, viên Đại úy “nằm vùng” và Bốn, người bạn nối
khố của anh đã từng “uống máu ăn thề” từ hồi còn 14 tuổi. Tổng cộng lên đến 92
người và họ đã rời Sài Gòn trên chiếc phi cơ vận tải C-130 Hercules, trực chỉ đảo
Guam. Chiếc phi cơ quân sự này được tác giả ví một cách khôi hài như “một xe
rác chở rác có gắn cánh” (a garbage truck with wings attached).
Cuốn truyện đi vào một chi
tiết rất “kịch tính”: ngay khi phi cơ chở người di tản đáp xuống Guam, một chiếc
xe cứu thương màu quân đội đã chực sẵn để chở xác của Đức và Linh (vợ con của Bốn).
Họ đã chết ngay trên máy bay vì một nguyên nhân “không rõ”. Bốn trở thành một
người chồng mất vợ, người bố mất con ngay trên chuyến bay đi tìm tự do! Và đó cũng
là lý do khiến anh trở nên “chống cộng” một cách điên cuồng.
Chuyến bay định mệnh đã được
truyền hình trên khắp nước Mỹ ngay chiều hôm đó và khán giả ngồi trước truyền
hình được thấy những khuôn mặt đưa đám của người di tản, trong đó Bốn sụt sùi
đưa tiễn vợ con và những người khác cũng than khóc trong một đám tang lớn hơn:
họ đã mất tổ quốc!
Tại Guam, một “thị trấn lều
vải” (tent city) được dựng lên để đón hàng ngàn người di tản, Ông Tướng bị thất
lạc vali nên vẫn còn giữ trên mình bộ quân phục có gắn sao. Ông có thiện ý đi ủy
lạo người di tản, đa số là dân thường, gồm đàn bà, trẻ con… Thật bất ngờ, ông bị
họ tấn công và nguyền rủa, cả về thể xác lẫn tinh thần.
Đám đông người di tản bùng
lên một cơn giận dữ, họ trút hết lên đầu Ông Tướng và cả người sĩ quan tùy viên
trong bộ quần áo dân sự. Họ thốt lên những lời cay đắng vì chỉ mới một ngày trước
đó tại Sài Gòn, “ông Thủ tướng cũng là tư lệnh Không quân đã kêu gọi quân đội
và cả nhân dân chiến đấu cho đến người cuối cùng”.
Xin mở ngoặc ở đoạn này
(trang 53) lấy từ sự kiện có thật về Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ đã có một buổi
nói chuyện tại Nhà thờ Tân Sa Châu, gần Lăng Cha Cả vào ngày 25/4/1975. Khi đó,
ông cam kết một cách hùng hồn rằng sẽ không bỏ nước ra đi để ở lại bảo vệ Sài
Gòn… Chức vụ của ông là Thủ tướng (1965-1967) và Phó Tổng thống (1967-1971) chứ
không phải Thủ tướng vào những ngày cuối tháng 4. Sau khi tuyên bố, ngày 29/4/1975 Tướng Kỳ đã
lái máy bay trực thăng ra Đệ thất Hạm đội, quên hẳn những gì đã tuyên bố tại
Sài Gòn.
Sự phẫn nộ của người di tản
trên đảo Guam được thể hiện qua những lời trách móc, rủa xả đổ lên đầu Ông Tướng:
“Chồng tôi đâu? Sao ông có mặt ở đây mà chồng tôi không có? Nhiệm vụ của ông là
bảo vệ đất nước như chồng tôi chứ?... Cha tôi đâu? Anh tôi đâu?...”.
Cũng tại đảo Guam, Ông Tướng
đưa cho người sĩ quan tùy viên xem một bức hình trên trang báo sau khi Sài Gòn
thất thủ. Hình chụp một sĩ quan cánh sát VNCH nằm chết dưới chân bức tượng hai
người lính Thủy quân Lục chiến trước tòa nhà Quốc hội. Nơi đây, trên đường ra
phi trường di tản họ đã dừng lại chào bức tượng theo đúng lễ nghi quân cách.
Cũng chính nơi đây, Trung tá
Ngyễn Văn Long tự sát ngày 30/4/1975 và phóng viên ngoại quốc cuối cùng đã có
cơ hội chụp để cả thế giới được chứng kiến việc tuẫn tiết của một sĩ quan VNCH.
Ông Tướng nói, Trung tá Long mới thật sự là “người anh hùng cuối cùng của cuộc
chiến”.
Tấm gương Trung tá Long là tất
cả những gì tương phản với hành động trốn chạy của các vị tướng và viên chức
chính phủ khác. Trong bản “tự khai” của mình, kẻ nằm vùng viết: “Một vị anh
hùng thực sự” (a real hero). Theo lời anh, khi lập danh sách di tản cho ngành cảnh
sát anh có thấy tên của vị Trung tá nhưng anh đã bỏ qua. Dĩ nhiên, đây chỉ là một
chi tiết được “hư cấu” để Nguyễn Thanh Việt đưa vào tiểu thuyết.
Bìa sau “The Sympathizer”
Nhìn chung, “The
Sympathizer” không hẳn là tác phẩm “hoàn hảo” vì, dầu sao đi nữa cũng có những
khiếm khuyết không thể tránh khỏi trong văn chương. Năm 1955, Graham Green viết
“The Quiet American” cũng lấy bối cảnh Sài Gòn giữa giai đoạn đầu nền Đệ nhất Cộng
hòa trong buổi giao thời Pháp đi, Mỹ đến. Truyện của ông có những đoạn đề cập đến
các địa danh mà chính người Việt cũng phải nhíu mày thắc mắc vì những cái tên lạ
hoắc: Dakow, Tanyin…
Kỳ thật, “Dakow” chính là
Dakao nơi có chùa Ngọc Hoàng mà mới đây Tổng thống Obama đã đến thăm… còn
“Tanyin” lại là Tây Ninh, nơi có Thánh thất của đạo Cao Đài. Nhà văn nước ngoài
có thể viết sai các địa danh nhưng ở “The Sympathizer” người đọc cũng gặp những
trường hợp tương tự như của Graham Green.
“One made a right out of the
gates down Thi Xuan left on Le Van Quyet, right on Hong Thap Tu in the
direction of the embassies, left on Pasteur, another left on Nguyen Dinh Chieu,
right on Cong Ly, the straight to the airport” (trang 24)
Đó là lộ trình di tản ra phi
trường của gia đình Ông Tướng những ngày cuối tháng 4/1975. Biệt thự của ông chắc
nằm ờ Quận 3, trên đường Bùi Thị Xuân (hoặc Thi Sách) chứ Sài Gòn làm gì có đường
“Thi Xuân”? Rồi lại quẹo trái sang đường Lê Văn Duyệt (đường Cách mạng tháng 8
ngày nay) chứ làm gì có đường “Le Van Quyet”?
Người đọc nước ngoài không
thắc mắc gì về tên những con đường nhưng, đối với độc giả người Việt đã một thời
gắn bó với Sài Gòn, chắc chắn những cái tên đó rất quan trọng vì nó đã thuộc về
kỷ niệm. Mong rằng ấn bản tiếp theo cần được chỉnh sừa hoàn thiện và nhất là bản
dịch tiếng Việt cần được lưu ý đến những chi tiết nhỏ nhặt này.
Ảnh Nguyễn Thanh Việt trên
Facebook do Lin-Manuel Miranda chụp
Trở lại chuyện di tản. Từ đảo
Guam, người di tản được chuyển vào đất liền Hoa Kỳ bằng phi cơ dân sự, tác giả
mô tả một cách hài hước là “có ghế ngồi thật sự, có cửa sổ” để so sánh với chiếc
phi cơ quân sự lúc rời Việt Nam. Họ được tập trung gần San Diego, California, tại
một trại lính cũ có tên Camp Pendleton, với tiện nghi dĩ nhiên là hơn hẳn ở đảo
Guam chỉ toàn lều do Thủy quân Lục chiến Mỹ dựng lên một cách vội vã.
Cũng từ Pendleton, viên Đại
úy “nằm vùng” bắt đầu liên lạc với “tổ chức” qua địa chỉ bà cô của Mẫn đang sống
tại Paris. Giữa những dòng thăm hỏi trong thư là thông tin được báo cáo cho Mẫn,
viết bằng “mực vô hình” (invisible ink) như trong những truyện gián điệp khác.
Có một hôm Ông Tướng tâm sự
với người sĩ quan tùy viên là Hà Nội chắc chắn đã tung vào dòng người tỵ nạn những
điệp viên làm việc cho họ. Cách hay nhất để trả lời cho nghi vấn này, kẻ nằm
vùng trả lời là anh tin như vậy. Anh lý luận: “chỉ có gián điệp mới không thừa
nhận sự hiện diện của những gián điệp khác”. Ngay tối hôm đó anh báo cáo với
“bà cô” bên Pháp qua thư về suy nghĩ dè dặt của Ông Tướng…
Với bằng tốt nghiệp đại học
Mỹ lúc trước, kẻ nằm vùng kiếm được một công việc tại thành phố Los Angeles còn
gia đình ông tướng được một Đại tá người Mỹ, trước đây là cố vấn của ông, đứng
ra bảo trợ. Ông thuê một căn nhà nhỏ ở ngoại ô LA gần Hollywood. Anh báo cáo với
tổ chức là viên tướng đang trong tình trạng thất nghiệp, chỉ biết uống rượu hay
bia để giải sầu.
Tranh vẽ của Yuko Shimizu
trong bài điểm sách “The Sympathizer” của Philip Caputo
(The New York Times)
Tuy là tiểu thuyết gián điệp
giả tưởng, “The Sympathizer” cũng mang những nét triết lý trong việc phân tích
bản chất đối nghịch của người Phương Đông và Phương Tây dựa trên lý thuyết của
Kipling: “East is East and West is West and never the twain shall meet”.
Trong báo cáo của mình, kẻ nằm
vùng đã làm hẳn một bản phân tích cá tính giữa Đông và Tây. Chẳng hạn như về mặt
tâm lý, người phương Đông đa số giữ sự tôn trọng chính quyền trong khi phương
Tây lại tỏ ra độc lập trước quyền lực. Phương Đông thường yên lặng trong khi
phương Tây tỏ ra lắm lời.
Phương Đông thường bi quan khi
nhìn tách trà “vơi một nửa” (teacup is half empty) trong khi phương Tây lại thấy
“ly nước vần còn đầy một nửa” (glass is half full). Người phương Đông luôn “nói
vâng trong khi lòng lại nói không” (say yes when I mean no), ngược lại, người
phương Tây “nói những điều mình muốn nói và hãy làm những điều tôi nói” (say
what I mean, do what I say).
Tôi nghĩ, quan trọng hơn cả
là “cái tình” của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Tuy
không trực tiếp nói đến “chữ tình” trong suốt cuốn truyện của Nguyễn Thanh Việt
ta thấy tâm lý các nhân vật lúc nào cũng hành động quanh “chữ tình”.
Đó không phải là tình yêu mà
là tình bạn sống chết có nhau của bộ ba: Mẫn - Kẻ nằm vùng và Bốn. Cho dù khác
chính kiến giữa Quốc gia và Cộng sản nhưng cả ba luôn hành động như những kẻ đã
từng “uống máu ăn thề” để đối xử với nhau trên một nền tảng của tình bạn chí cốt.
Nếu không vì chữ tình, kẻ nằm
vùng sẽ sống thoải mái tại đất Mỹ vì “tổ chức” không đòi hỏi anh đi theo đoàn
“phục quốc” trở về Việt Nam. Anh không đành lòng để người bạn thân tên Bốn lao
vào cõi chết nên anh phải đi theo để “bảo vệ” người mà anh quý hơn ruột thịt.
Người ta không chọn anh em
ruột thịt khi ra chào đời nhưng người bạn mà mình quý mến hoàn toàn là sự chọn
lựa tự nguyện của bản thân. Đó không phải là “tình đồng chí” theo kiểu Cộng sản
mà là “tình đồng đội chí cốt” giữa hai con người.
Mối tương quan giữa Vị Tướng
và viên Đại úy tùy viên tuy là một sự gắn bó theo “hệ thống quân giai” nhưng
luôn có tinh thần của người phương Đông: lấy tình người để giải quyết. Trong hầu
hết các trường hợp, hai người đã xử sự theo một cách “nhân bản” giữa người và
người.
Có thể nói, những phân tích
cặn kẽ về sự khác biệt đó là một trong những nền tảng để dựng nên “The
Sympathizer”. Cũng chính phân tích giữa Đông & Tây giúp người đọc nước
ngoài hiểu được chiến tranh Việt Nam theo cái nhìn của một tác giả người Việt.
Còn người Việt chúng ta - dù
ở Sài Gòn hay Hà Nội, dù già hay trẻ - có thể “soi rọi bản thân” để tiếp cận với
một cách nhìn mới của một tác giả người Việt thuộc thế hệ thứ hai đã tạo ra bước
đột phá trong văn chương với giải thưởng Pulitzer.
Quan trọng hơn cả, Việt Nam
không phải chỉ có chiến tranh như cách nhìn lâu nay đã sói mòn của người Mỹ.
Nguyễn Thanh Việt đã đem đến cho người đọc một cách nhìn nhân bản hơn, trong đó
có cả buồn-vui theo một trong những cách nhìn của người Việt.
Cách nhìn đó, dĩ nhiên sẽ
gây nhiều tranh cãi từ cả người đọc bản chính bằng tiếng Anh và bản dịch tiếng
Việt. Dù sao đi nữa, “The Sympathizer” là cuốn tiểu thuyết “hư cấu” dựa vào nhiều
chuyện có thật nên cần đọc và đáng đọc.
Hình trên FB Viet Thanh
Nguyen
2 nhận xét:
Nặc danh22:52 25 tháng 7,
2016
Về: Bài Tóm lược và Nhận định
(phần 1 và 2) của Nguyễn Ngọc Chính.
Tôi khởi sự đọc The
Sympathizer từ đầu tháng 7/2016 nhưng đã sắp hết tháng mà mới tới Chương 15 vì
tuy là một tiểu thuyết tôi chắc chắn VIET THANH NGUYEN đã dựa vào thời sự trong
các thời điểm được đề cập tới ở VN và Mỹ cũng như những nhân vật và tình huống
có thật. Chính vì vậy mà tôi thường bỏ quyển "chuyện" xuống để suy
nghĩ xem những nhân vật phóng tác đó có thể là ai và thời sự mà tác giả dùng
làm phông nền có "xác thực" như tôi được biết không.
Đọc kỹ phần 1 và 2 xong, tôi
RẤT CẢM ƠN Nguyễn Ngọc Chính đã tóm lược, nhận định cũng như chỉ ra(dẫn chứng)những
nhân vật, tình huống hư cấu và thời sự liên quan kể đến trong The Sympathizer>
Lý do: vì nhờ vậy mà tôi hiểu rõ nội dung của cuốn tiểu thuyết từ Chương 1 đến
Chương 14.
Ở Mỹ, nghỉ hưu, tôi thường đọc
các Book Review (Tóm lược, Nhận định về các tiểu thuyết best sellers xuất bản ở
Mỹ mỗi tuần) của báo Washington Post và New York Times (2 trong 5 nhật báo nổi
tiếng nhất ở Mỹ) và tôi thấy khả năng về Tóm Lược và Nhận Định về sách truyện của
NNChính ngang ngửa với những tay bút phê bình bậc "sư" của hai nhật
báo đó. Cách đây 53 năm tôi là thầy dậy tiếng Anh của NNChính nhưng đã từ lâu mỗi
lần gặp lại NNChính (lần chót nhất là thượng tuần tháng 6/2016 ở Saigon và
Chính đã cho tôi xem cuốn The Sympathizer Chính vừa nhận được), tôi đều nhủ thầm:
"Con hơn cha là nhà có
phước. Trò hơn thầy vận nước sẽ hưng".
Bùi Dương Chi. Cựu thầy giáo
tiếng Anh ở Ban Mê Thuột Việt Nam và Fairfax Virginia Hoa Kỳ.
Trả lời
Ngoc Chinh Nguyen05:58 11
tháng 8, 2016
Em cám ơn thầy.
Trả lời
Le Tung Chau13:16 21 tháng
1, 2019
KẺ NẰM VÙNG - THE
SYMPATHIZER - by Viet Thanh Nguyen - Lê Tùng Châu dịch sang Việt ngữ và thêm
chú thích
bắt đầu từ tháng 11 / 2018,
mỗi tuần đăng 2 kỳ, mỗi kỳ 8 trang.
Kính mời bạn đọc gần xa.
Trả lời
No comments:
Post a Comment