Thursday, May 6, 2021

Chủ nghĩa tư bản – Tầm quan trọng của Công sản

 

http://www.caidinh.com/trangluu/vanhoaxahoi/xahoi/chunghiatuban.htm

 

Chủ nghĩa tư bản – Tầm quan trọng của Công sản

Nhờ những phương tiện thông tin toàn cầu, trong thế giới hôm nay, chúng ta có cảm tưởng thế giới của chúng ta nhỏ lại như cái làng, cái xã thủa nào. Vì mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành ra tối thiểu từ 15 đến 30 phút, ngồi trước cái tivi nhỏ bé đặt trong căn nhà ấm cúng, chúng ta có thể biết được tin tức khắp thế giới. Nhân họa như chiến tranh. Thiên họa như lũ lụt, động đất, sóng thần, hoả hoạn. Và thật nhiều các tin tức khác trên toàn thế giới. So với trên một thế kỷ trước, hay hiện nay trong các chế độ độc tài, thì nhiều những biến cố xẩy ra ở trong một làng, xã, quận, tỉnh hay trong một quốc gia, chúng ta cũng không biết, vì không được thông tin, hay chưa có những phương tiện để tiếp nhận thông tin như xã hội hôm nay.

Theo Peter Barnes viết trong Chủ Nghĩa tư bản phiên bản 3.0. Hướng dẫn cách giành lại Công sản. Cho biết, hiện nay trên hành tinh chúng ta đang sống có trên 6 tỷ người, trong số trên sáu tỷ người, chỉ được con số lẻ của sáu tỷ, khoảng từ 5 đến 7 trăm triệu được sống trong bầu khí tự do, theo chủ nghĩa tư bản, được hưởng một số quyền tương đối về con người, được làm chủ một số tài sản. Nhưng như Mỹ Quốc có trên ba trăm triệu dân, thì tổng sản lượng tài sản chung của cả quốc gia, chỉ nằm trong tay một thiểu số có 5% dân số. Tổng sản lượng của 5% này nắm trong tay 95% Công sản cả nước. Còn 95% dân số chỉ làm chủ vỏn vẹn 5% tài sản của cả quốc gia. Mức chênh lệch, bất công quá cách biệt. Nên chủ nghĩa tư bản cũng còn có giai cấp chiếu trên, chiếu dưới. Tương tự như giai cấp thượng lưu và giai cấp cùng đinh trong các chế độ phong kiến thủa xưa; nay là giai cấp giầu có, có quyền lực, và giai cấp vô sản. Ngoài ra, có những Công sản mà đáng ra mỗi con người khi đã sinh ra đều được có quyền hưởng, nhưng vì không biết, đã bị giới có nhiều quyền, nhiều tiền, tước đoạt một cách mặc nhiên.

Peter Barnes is an American entrepreneur, environmentalist, and journalist.

Chủ Nghĩa tư bản phiên bản 3.0

Chúng ta nên biết về Công Sản, vì đây là quyền lợi thiết thân của mỗi người được hưởng từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, vì không biết, ta đã bị tước đoạt mất. Giới tước đoạt là một thiểu số 5 phần trăm các công ty, ngân hàng đang nắm vận mệnh tài chánh trên toàn cầu. Dưới đây là những Công Sản thuộc về quyền của mỗi người:

 

– Thiên nhiên như: không khí, nước, DNA, quang hợp, hạt giống, đất trồng, sóng radio, khoáng sản, động vật, thực vật, chất kháng sinh, đại dương, ngư trường, nước ngầm, sự yên tĩnh, đầm lầy, rừng, sông, hồ, năng lượng mặt trời, năng lượng gió.

– Cộng đồng: đường phố, sân chơi, lịch, lễ nghi, đại học, thư viện, nhà bảo tàng, bảo hiểm xã hội, luật, tiền, tiêu chuẩn kế toán, thị trường vốn, thể chế chính trị, thị trường của nhà nông, chợ đen, mạng rao vặt.

– Văn hóa: ngôn ngữ, triết học, tôn giáo, vật lý, hóa học, nhạc cụ, nhạc cổ điển, Jazz, ba lê, hip-hop, thiên văn học, internet, tần số truyền thông, truyền hình, y khoa, sinh học, toán học, phần mềm.

 

Chỉ cần đề cập đến thứ Công Sản tự nhiên khi con người chưa có thì Tạo Hóa đã ban sẵn cho con người như: không khí để thở, nước sạch để dùng, năng lượng mặt trời, gió, và vô vàn những tài nguyên có sẵn trên đất, hay nằm sâu trong lòng đất, giữa biển khơi, con người dần dà tìm kiếm và khám phá ra. Ta mới cảm nhận được những kỳ công của Tạo Hóa. Nhưng những kỳ công này cũng đòi hỏi con người phải xử dụng hợp lý, vun bồi, tô điểm thêm vào những kỳ công đã được tạo dựng, không sử dụng thái quá, và tệ hại hơn nữa là, phá hủy những cái đẹp của công trình tạo dựng cho con người và các sinh vật.

Dưới đây chúng ta nên nhìn lại chủ nghĩa tư bản đã lần lượt diễn tiến qua những giai đoạn như thế nào?

 

1.- Tạm gọi là chủ nghĩa tư bản phiên bản 1.0

 

Từ chủ nghĩa tư bản khan hiếm đến chủ nghĩa tư bản thặng dư.

Vào khoảng năm 1950, chủ nghĩa tư bản bước vào một gia đoạn mới. Trước đó nạn nghèo đói rất phổ biến ở Mỹ. Tiền công thấp, công việc vất vả, và sự thất nghiệp chực chờ ập xuống hầu hết các gia đình. Vào những năm 1930, tỷ lệ thất nghiệp lên đến 25%.

Tình hình này đã thay đổi trong thời kỳ tiếp theo sau thế chiến thứ II. Năm 1958, nhà kinh tế học John Kenneth Galbraith viết một cuốn sách bán rất chạy nhan đề The Affluent Society (xã hội sung túc) trong đó ông cho thấy đối với hầu hết người Mỹ, sự khan hiếm hàng hóa nay đã lui về quá khứ. Ông nhận xét.

“người dân thường nay đã hưởng được những tiện nghi, thực phẩm, các phương tiện giải trí, phương tiện đi lại cá nhân và nước máy tư gia, mà cách đây một thế kỷ, thậm chí người giầu cũng không có”. “Sự thay đổi này lớn đến nỗi có nhiều thứ, người ta thậm chí không nhận ra đó chính là nhu cầu cá nhân của mình. Người ta chỉ bắt đầu ý thức khi những nhu cầu đó được tổng hợp, giải thích, và khuyến khích bởi ngành quảng cáo và bán hàng, và nhờ vậy mà hai ngành này trở thành những nghề quan trọng và tài năng nhất của chúng ta”. (Trích chủ nghiã tư bản Phiên bản 3.0 của Peter Barnes).

John Kenneth Galbraith OC, also known as Ken Galbraith, was a Canadian-American economist, public official and diplomat, and a leading proponent of 20th-century American liberalism.

The Affluent Society

Trước năm 1950, nền kinh tế không cung ứng được đầy đủ những thứ người ta cần. Nói cách khác, cầu vượt cung, và có thể gọi giai đoạn đó là chủ nghĩa tư bản khan hiếm. Và có thể đặt cho nó là chủ nghĩa tư bản phiên bản 1.0

 

2.- Chủ nghĩa tư bản phiên bản 2.0

 

Sau thay đổi này, chúng ta chuyển qua chủ nghĩa tư bản thặng dư.

Trong phiên bản này, các công ty sản xuất hàng hóa không hạn chế; vấn đề của họ là tìm được người mua. Phải tiêu tốn một khoảng GDP lớn để làm cho người ta muốn mua những sản phẩm họ không cần. Và thời hạn trả chậm được kéo dài thoải mái, để có thể bán được những sản phẩm đó.

Có thể mô tả bước chuyển biến lịch sử này một cách khác. Cách đây một thế kỷ, cái chúng ta thiếu nhất chính là hàng hóa. Vì vậy cũng dễ hiểu khi người ta hy sinh hết mọi thứ để làm ra hàng hóa cho được, và chủ nghĩa tư bản rất sành sõi việc này. Ngày nay chúng ta đã thừa mứa với những sản phẩm cho nhiều nhu cầu, và những cái chúng ta thiếu cũng đã khác trước. Theo tôi, trong các tầng lớp trung lưu, những thứ khan hiếm nhất là thời gian, quan hệ, và cộng đồng. Đối với người nghèo hàng hóa vẫn thiếu, nhưng không phải thiếu vì sản xuất không đủ, thiếu là do người nghèo không có đủ tiền để mua. Nói cách khác, cái thiếu quan trọng nhất chính là thu nhập.

Cũng vậy, trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, đất đai, tài nguyên, và điểm đổ chất thải đầy rẫy; cái thiếu nhất chính là vốn huy động được. Vì vậy người ta đã đặt ra những luật và lệ để dành ưu tiên nhất cho vốn. Tuy nhiên, sang thế kỷ 21, tình hình đã khác đi. Như nhà kinh tế học Joshua Farley đã nhận định,

“Nếu chúng ta cần thêm cá trong bữa ăn, thì cái thiếu không phải là thuyền đánh cá, mà chính là cá. Nếu chúng ta cần thêm gỗ, cái thiếu không phải là xưởng cưa, mà chính là cây”. Chúng ta coi, hay đặt tên cho thời kỳ này là phiên bản 2.0.

Joshua Farley

Ecological economics, development economics, economic globalization

3.- Sẽ chuyển đến chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0 trong tương lai.

 

Hiểu qua chủ nghĩa tư bản từ khởi đầu đến cuối thế kỷ 20, có nhiều bất cập, bất công, qúa lạm dụng Công Sản; tận dụng khai thác công sản thiên nhiên, và thải quá nhiều khí thải Carbon vào khí quyển, đổ xuống dòng sông những chất cặn bã làm ô nhiễm dòng nước, ô nhiễm nguồn nước ngầm, hủy diệt môi trường. Chủ Nghĩa kinh tế tư bản Phiên bản 1.0 từ đầu đến giữa thế kỷ thứ 19. Bước sang chủ nghĩa kinh tế tư bản phiên bản 2.0 cho đến ngày nay, đã làm thay đổi diện mạo và cơ cấu của trái đất. Mặc dầu đã được cảnh báo rằng, trái đất đang gặp nguy hiểm, nó vẫn tiếp tục như cũ, tựa như một động cơ hơi nước bất kham không có bộ điều tốc. Nó đã xây nên hàng núi của, nhưng rất nhiều của cải đó được lấy ra từ Công Sản mà chúng ta chưa nhận biết ra, và phần lớn trong số đó cũng chẳng giúp chúng ta có thêm hạnh phúc. Những tác nhân chính của chủ nghĩa tư bản, là do các công ty chuyên tối đa hóa lợi nhuận, thực chất đã vượt ngoài tầm kiểm soát, và thành quả từ nỗ lực của các công ty này.

 

Tại sao chủ nghĩa tư bản thặng dư lại hành xử như vậy?

Có thể là do chúng ta cứ toàn thuê những giám đốc điều hành xấu, nhưng tôi lại không nghĩ như vậy. Lỗi chính là do hệ điều hành, mà cũng còn do lỗi của các cơ quan công quyền không quan tâm đủ về địa hạt luân lý đạo đức của xã hội. Tạo lý cớ cho các giám đốc điều hành phải hành động, không nghĩ gì đến thế hệ tiếp theo, mà chỉ nghĩ đến lời lỗ trong quý sau. Điều này cho thấy, nếu chúng ta muốn thay đổi những kết quả của chủ nghĩa tư bản phiên bản 2.0, chúng ta phải nâng cấp hệ điều hành giữa các công ty và công quyền.

Trên hành tinh nhỏ bé có sự sống của chúng ta hôm nay, có nhiều chủng loại, có những loài đã bị tận diệt vì con người, và con người thì sinh sôi nẩy nở đến con số trên 6 tỷ. Nếu chúng ta, những nhà tư bản, những đại công ty, những ngân hàng lớn, không nghĩ đến hậu vận của các thế hệ sau, hậu vận của trái đất, mà chúng ta chỉ nghĩ đến lợi nhuận. Chắc chắn trái đất này sẽ bị lâm nguy, các thế hệ sau của chúng ta sẽ gặp khốn đốn. Vì càng ngày, các nước có công nghiệp lớn càng thải nhiều khí thải vào bầu trời, nhiệt độ trái đất nóng dần, băng tan, mực nước biển dâng lên, khí hậu thay đổi bất thường gây hạn hán và bão lụt. Càng thải nhiều chất cặn bã xuống các dòng sông, càng hủy diệt nhiều môi trường sống của các sinh vật khác, và cũng hủy diệt chính môi trường sống của con người.

 

Công Sản là chi?

 

Công Sản là tài sản Tạo Hóa đã ban sẵn cho con người cùng muôn loài được hưởng từ khi vũ trụ được tạo thành, ngày nay con người khai thác và xử dụng thái quá, không tôn trọng nhau mà chỉ nghĩ đến lợi nhuận của một thiểu số, của công ty mà quên đi số đông chiếm đến 95% dân số của thế giới, nhất là số dân đông đảo này lại nằm ở chiếu dưới, hạng ba trên địa cầu. Không khí, nước sạch, trái đất là của chung mọi người, các công ty và những người giầu có không được quyền tước đoạt của họ. Trả cho họ bầu trời trong lành, có mưa thuận gió hòa, đừng vắt cạn kiện dòng nước. Khai thác rừng có kế hoạch và phải gây lại rừng để tránh mưa lũ và lụt lội. Không bao giờ thải các chất thải gây ô nhiễm xuống các dòng sông, các công ty phải xử lý các chất cặn bã hợp lý, không vì lợi nhuận mà gây hại cho các thế hệ về sau.

Mỗi người cần một nơi ở trên địa cầu, vì đất đai Tạo Hóa đã dành sẵn cho họ, phải cho họ một chỗ để ở. Không vì quyền lợi của các công ty, vì đô thị hóa mà tước đoạt nơi ở của họ.

Chế độ phong kiến cổ xưa, rồi chế độ Cộng Sản không đem lại công bằng cho xã hội, ấm no hạnh phúc cho con người.

Nhưng chế độ Tư Bản có đem lại công bằng và hạnh phúc ấm no, cho chính những người dân của đất nước họ hay không?

Đây cũng là những vấn đề vô cùng nan giải và phức tạp trong chế độ Tư Bản hôm nay, sau cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới vừa qua.

Chỉ có một thiểu số khoảng 5% các nhà tỷ phú, các công ty cổ phần lớn, các ngân hàng đã nắm đến 95% tài sản của nước Mỹ. Chính họ đã tạo ra cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới, làm cho giới cầm quyền phải điên đầu, vận động quốc hội biểu quyết, dùng công quỹ quốc gia, mà công quỹ của quốc gia là do người dân nghèo phải đóng thuế, để bù lỗ cho các công ty, ngân hàng, hầu vực dậy nền kinh tế. Lời bạc tỷ thì người giầu bỏ vào túi riêng, lỗ bạc tỷ thì chính quyền huy động dân đóng thuế bù lỗ.

Đó là chưa kể tài nguyên thiên nhiên Trời đã ban sẵn cho con người từ khi tạo nên vũ trụ, như bầu trời, không khí, các tần số phát thanh, truyền hình; nguồn nước ngầm, biển khơi, rừng. Những Công Sản thiên nhiên trên đã bị những đại công ty, những nhà tỷ phú khai thác không trả tiền, không nghĩ đến những tác hại và trách nhiệm trong hiện tại, và còn di lụy đến các thế hệ về sau như: thải bừa bãi khí CO2 vào khí quyển, làm cho địa cầu nóng lên, băng đá ở miền bắc cực tan dần, mực nước biển dâng cao, gây cho nhiều phần đất trên thế giới bị ngập lụt.

Các nhà máy lớn thuộc loại đại kỹ nghệ, của các đại công ty, ngoài việc thải khí thải lên bầu trời, còn thải các chất cặn bã xuống các dòng sông, gây ô nhiễm dòng nước, làm cho các sinh vật sống dưới nước, có những sinh vật đã bị tuyệt chủng. Những động vật sống trên cạn gần các dòng sông bị bệnh tật. Và cuối cùng đến cộng đồng dân cư sống gần khu vực các nhà máy, dòng sông ở chung quanh, cũng bị nhiều biến chứng như ung thư, thế hệ trẻ khi sinh ra mang những dị tật.

Nạn khai thác rừng bừa bãi vì lợi nhuận, không nghĩ đến bảo vệ rừng có kế hoạch, trồng rừng, gây nên cảnh khi mưa lũ bị bào mòn các chất màu mỡ ở mặt đất, gây cảnh sa mạc hóa, đồi trọc, đồng không. Tận diệt nhiều thứ động vật hiếm quý.

Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, thải quá nhiều khí thải vào bầu trời (người ta tính chỉ một mình nước Mỹ thôi, đã thải ra 35% khí thải lên bầu trời). Thử tính xem, các nước kỹ nghệ khác Âu Châu, Nhật Bản, Đại Hàn, Ấn Độ, và cường quốc kỹ nghệ mới Trung Cộng, phun khói từng giây phút lên không gian, thì thử hỏi, bầu khí quyển chúng ta đang sống rồi sẽ bị ngột ngạt đến chừng nào.


ợng khí CO2, mà Tàu cộng được phép thi so với thế-giới (Hiệp ước Paris do Obama ký)

Công sản Trời ban cho nhân loại, đã bị những người ở chiếu trên, những nhà tỷ phú, các công ty xử dụng độc quyền, xử dụng bừa bãi, xử dụng mà không hề nghĩ đến các thế hệ sau chúng ta. Đây thật là một tai họa, nếu ở trong chế độ tự do tư bản không sớm nghĩ đến và đưa ra được một quy luật để bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn những kho tàng Trời ban cho loài người, không phân biệt ranh giới giầu nghèo, thì thế giới chúng ta đang sống sẽ tự bị hủy diệt, dù cho ngày gọi là tận thế chưa đến

Bùi Văn Đ

Cái Đình - 2009

No comments:

Post a Comment