Friday, September 28, 2018

Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) phần 1

(Xin quý vị giữ lại bài viết này trong máy. Đề phòng bản văn bị xoá.)

Bản điều trần của Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA)
Về việc đảng Cộng-sản Việt-NamLãnh đạo nhà nước cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc
Ngày 10-11-2001
Bí ẩn về việc đảng Cộng-sản lãnh đạo nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ,
lãnh hải cho Trung-quốc.
 
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
Dr. Trần Ðại-Sỹ, 5, place Félix Éboué 75012 PARIS, FRANCE,
Tél. 33.1.43 07 51 46 hay 33.6 63 79 92 16.
E-mail1= 
Trandaisy@yahoo.fr
E-mail2= 
Ifa532@yahoo.fr

Đôi lời của IFA  với người Việt.
Trong mấy tháng giữa năm 2001, nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại đều rúng động vì tin nhà nước hay nói đúng hơn là đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc. Đau đớn nhất cho người Việt là địa danh lịch sử, đi vào tâm tư, là niềm tự hào của họ là cửa Nam-quan, suối Thiên-tuyền (Phi Khanh) nay đã ở trong lãnh thổ Trung-quốc. Ngay cả hang Pak-bo, là thánh địa của đảng Cộng-sản, trước kia ở rất xa biên giới  Hoa-Việt trên 50 km, nay đứng ở sát  lãnh thổ Trung-quốc.
Trong suốt 25 năm qua Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, vì ký khế ước làm việc với:
·     Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP)
·     Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (Comité médical Franco-Chinois=CMFC),
Trong đó có điều căn bản là:
·     "Không được viết, được thuật những gì với báo chí về Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại. Không được tham gia các đoàn thể chính trị chống đối Trung-quốc, Việt-Nam"

Nên không bao giờ ông tiết lộ bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe trong những lần công tác tại Trung-quốc hay Việt-Nam. Tuy nhiên ông đã bị một cơ quan  X (chúng tôi dấu tên) triệu hồi để điều trần về vụ này ngày 10-11-2001. Theo luật lệ hiện hành, mà Bác-sĩ Trần  phải tuân theo. Rất mong các vị đứng đầu CEP-CMFC thông cảm với chúng tôi.

Lập trường của chúng tôi (IFA):
Dù theo cổ sử, dù theo khảo cổ, dù theo Quốc-tế công pháp thì hai quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa), Trường-sa (Nam-sa) đều thuộc Việt-Nam. Trung-quốc chỉ mới nhảy vào vòng tranh chấp khi được Thủ-tướng Phạm Văn Đồng của nước VNDCCH ký văn kiện nhượng cho năm 1958 mà thôi. Còn Phi-luật-tân, Mã-lai càng không có một chút lý nào để đòi chủ quyền tại đây. Vấn đề quá rõ ràng, không cần bàn tới. Trong khi điều trần, Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ đã đứng trên quan điểm này.
Cuộc điều trần khá dài, nên Bác-sĩ Trần ngắt ra thành từng đoạn, để cử tọa đặt câu hỏi. Vì cử tọa là những người có kiến thức rất rộng, rất cao về vùng Á-châu, do thế Bác-sĩ Trần không đi vào chi tiết. Sau cuộc điều trần, vô tình một vài yếu nhân trong cử tọa làm tiết lộ. Vì các bản bị lộ không thống nhất, nên độc giả rất dễ hiểu làm. Mãi tới hôm nay (10-1-2002) chúng tôi mới được phép phổ biến toàn văn, cũng như những câu hỏi, câu trả lời (trừ một vài câu hỏi)        

Kể từ hôm Gs Trần Đại-Sỹ, điều trần (10-11-2001) cho đến hôm nay (10-1-2002) chúng tôi đã nhận được:
·     1723 thư do Bưu-điện chuyển.
·     2431 E-mail:
     * 1124 về 
Institut.Franco-Asiatique@Wanadoo.fr,
     * 532 về 
Trandaisy@Yahoo.fr
·     còn lại về TQJV.
Đa số bằng Việt-ngữ, còn lại bằng Anh-ngữ, Pháp-ngữ, Hoa-ngữ. Nội dung thư chia ra:
·     Nhiều nhất là xin hình, tài liệu bổ túc.
·     Thắc mắc.
·     Công kích.
·     Thảo luận.
·     Xin bản Hiệp-ước: Pháp ký với Thanh-triều 1887, và Hoa-Việt(1999 và 2000).
Chúng tôi xin nhắc lại, đây là một bài điều trần mật. Đánh giá về độ chính xác của bản điều trần là các vị cử tọa hôm đó, và IFA chịu trách nhiệm trước cơ quan X.
·     Sự việc đã chấm dứt, chúng tôi không thể tái thảo luận. Xin ngừng gửi ý kiến tới.
·     Chúng tôi cũng không cần nghe, đọc bất cứ sự công kích nào.
·     Chúng tôi không thể cung cấp tài liệu, hình ảnh cho bất cứ đòi hỏi nào.
Chúng tôi đã yêu cầu Gs. Trần Đại-Sỹ cũng phải nghiêm chỉnh tuân theo nguyên tắc này.
Xin nhắc lại, bài viết của Gs. Trần Đại-Sỹ bằng tiếng Pháp. Văn phòng của chúng tôi dịch sang các tiếng của CE: Anh, Đức, Ý, Na-uy, Thụy-điển, Đan-mạch, Hòa-lan, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha để chuyển cho tất cả các vị cử tọa. Gs. Trần Đại-Sỹ e rằng những bản dịch không đúng ý của mình, nên đã cẩn thận đính kèm các bản dịch trên bằng một bản tiếng Việt. Ông ghi chú:
 
"Thưa ngài...
Dưới đây là bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng của Ngài về bài điều trần của tôi. Tôi sợ rằng bản dịch có đôi điều không đúng ý. Vì vậy tôi xin đính kèm một bản tiếng Việt. Hiện khắp châu Âu, nơi nào cũng có trí thức gốc người Việt định cư. Vậy nếu Ngài có điều gì thắc mắc, xin trao bản tiếng Việt và tiếng nước Ngài, cho một người Việt, tại nước Ngài để so sánh. Như vậy sẽ không sợ bị hiểu lầm".
Nhưng khi một vài vị cử tọa, nhờ người Việt so sánh. Các vị (gốc VN) ấy, vẫn còn chút lòng son với đất nước, bèn sao lấy một bản, rồi chuồn cho báo chí, cho Internet. Do đó có rất nhiều sai lạc, hoặc bị cắt, hoặc bị thêm vào nhiều đoạn.
Sau khi biết rằng bản điều trần mật bị lộ, chúng tôi xin cơ quan X. cho phổ biến toàn văn. Chúng tôi không thể gửi đến từng cá nhân, mà chỉ gửi đến các cơ quan truyền thông Việt-Hoa. Nếu Quý-vị phổ biến xin:
·     Giữ  nguyên bản, không thêm bớt.
·     Phổ biến toàn bộ hình đính kèm.
Trân trọng
(IFA)

Kính thưa Ngài ...
Kính thưa Quý Ngài ...
Kính thưa ông Giám-đốc ...
Kính thưa Quý-liệt-vị,
Thực là hân hạnh, khi mới ngày 17-3 vừa qua, chúng tôi được cử đến đây để trình bầy những vụ việc đang diễn ra tại vùng Á-châu Thái-bình dương. Hôm nay chúng tôi lại được gửi tới trình bầy về diễn biến trong vụ việc chính phủ Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN) cắt nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc (THNDCHQ), gọi tắt là Trung-quốc. Đây là một việc cực kỳ tế nhị, cực kỳ khó khăn cho tôi, làm thế nào giữ được tính chất vô tư. Vì:
  • Thứ nhất, tôi gốc là người Việt, hơn nữa thuộc giòng dõi một vị Vương đứng hàng đầu trong lịch sử Việt, vì ngài thắng Mông-cổ liên tiếp trong ba lần, vào thế kỷ thứ 13. Mà nay tôi phải nói về những người đem lãnh thổ Việt nhượng cho Trung-quốc, khó mà diễn tả lời lẽ vô tư cho được.
     
  • Thứ nhì, ngoài chức vụ giáo-sư Y-khoa ra, tôi là một tiểu thuyết gia, đã viết trên mười bốn nghìn trang, thuật huân công của các anh hùng tộc Việt trong việc dựng nước, giữ nước. Mà suốt trong năm nghìn năm lịch sử, chỉ duy năm 1540, giặc Mạc Dăng-Dung cắt đất dâng cho triều Minh của Trung-quốc; bị tộc Việt đời đời nguyền rủa. Vậy mà nay phải chứng kiến tận mắt lãnh thổ Việt bị cắt cho Trung-quốc.
     
  • Thứ ba, các sinh viên Việt-Nam muốn du học Pháp, thường bị vài tổ chức đòi phí khoản 20 nghìn USD mỗi đầu người. Một vị Đại-sứ của Việt-Nam tại châu Âu, mời tôi về nước, (tất cả chi phí do tiền của IFA) để giúp sinh viên Việt-Nam du học Pháp. Với sự hướng dẫn của tôi, từ nay sinh viên muốn du học Pháp, họ đã biết rất rõ những gì phải làm, những gì phải chứng minh. Họ không phải tốn một đồng nào cả. Thế nhưng khi trở về Pháp, lúc lên phi cơ tại phi trường Tân-sơn-nhất, tôi bị ba sĩ quan cao cấp của Công-an chờ sẵn, hạch sách, khám xét trong hoảng 98 phút, bằng những câu hỏi có tính cách nhục mạ, ngớ ngẩn, lời lẽ cục súc. Tôi cho đây là một hình thức khủng bố, khủng bố tôi, và khủng bố cả người bạn tôi đang là một Đại-sứ của VN, đã mời tôi. Ông Đại-sứ này được Quý-vị kính trọng về tư cách và về kiến thức. Thưa Quý-vị, hôm đó tôi chỉ cười nhạt, khinh rẻ, vì tôi biết rất rõ kiến thức, mục đích của họ. Trong khi họ không đủ khả năng bịa ra  bất cứ tội gì để kết tội tôi. Hơn nữa tôi giữ trong tay một ủy nhiệm thư, theo Công-pháp Quốc-tế, họ không thể công khai vị phạm. (1)
     
Chú giải, (1)
(1), Trong lần về Việt-Nam này, chúng tôi thuê xe đi Lạng-sơn. Khi tới trạm biên giới mới, chúng tôi xin sang lãnh thổ Trung-quốc mới (Nam-quan cũ) thì bị Công-an Việt-Nam từ chối. Chúng tôi đặt vấn đề: Chúng tôi mang thông hành Liên Âu, có visa hợp pháp vào Việt-Nam, thì chúng tôi có quyền ra khỏi Việt-Nam chứ? Công-an cửa khẩu trả lời rằng: Ông có visa ra vào cửa khẩu Tân-sơn-nhất, Nội-bài, chứ không có quyền rời Việt-Nam bằng cửa Hữu-nghị. Chúng tôi xin chụp hình cửa khẩu mới, thì họ không cho. Chúng tôi đành trở về, rời Tân-sơn-nhất, đi Quảng-châu. Từ Quảng-châu đi Nam-ninh. Từ Nam-ninh thuê xe tới Bằng-tường là đất Trung-quốc với ải Nam-quan. Rồi vào Nam-quan cũ. Đứng trước vùng đất thiêng của tổ tiên, nay vĩnh viễn trở thành đất của người. Tự nhiên tôi bật lên tiếng khóc như trẻ con. Viên sĩ quan Công-an Trung-quốc tưởng tôi là người Hoa. Anh ta hỏi:
- Tiên sinh có thân nhân tử trận trong dịp mình dạy bọn Nam-man bài học à?
Tôi lắc đầu, khóc tiếp. Anh an ủi:
- Thôi, người thân của Tiên-sinh đã hy sinh dưới cờ thực, nhưng nay bọn Nam-man đã dâng đất này tạ tội rồi. Tiên sinh chẳng nên thương tâm nhiều.
Tôi kiếm tảng đá ngồi ôm đầu khóc. Anh Công-an bỏ mặc tôi. Khóc chán, tôi trở sang Bằng-tường, kiếm một cơ sở mai táng (xây mộ, làm mộ chí). Tôi mượn họ khắc trên một miếng đá bóng nhân tạo (granite) bài thơ bằng chữ Hán xin phiên âm như sau:
TRƯỜNG HẬN NAM QUAN
 1. Thử địa cựu Nam-quan,
 2. Biên địa ngã cố hương.
 3. Kim thuộc Trung-quốc thổ,
 4. Khấp, khốc, ký đoạn trường.

 5. Lê Hoàn bại Quang-Nghĩa,
 6. Thường Kiệt truy Bắc phương,
 7. Hưng Ðạo đại sát Ðát,
 8. Lê Lợi trảm Vương Thông.

 9. Nam xâm, Càn-Long nhục,
10. Gươm hồng Bắc-bình vương.
11. Ngũ thiên niên dĩ tải,
12. Hoa, Việt lập dịch trường.
Nam-quan thứ 3 của Trung-quốc, xây sau 1953,

13. Mao, Hồ tình hữu nghị,
14. Nam, Bắc thần xỉ thương,
15. Huyết lệ vạn dân cốt,
16. Hồng-kỳ thích ô hoang.
Ðại-Việt vong quốc nhân Trần Ðại-Sỹ
Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001
Tôi đem tảng đá này, gắn vào một vách núi ngay cạnh đường, chỗ núi Kẹp, trên độ cao khoảng 2-3m. Công-an, cán bộ Trung-quốc xúm lại xem. Nhưng họ chỉ hiểu lơ mơ ý trong thơ mà thôi. Xin tạm dịch:
 1. Ðất này xưa gọi Nam-quan,
 2. Vốn là biên địa cố hương của mình.
 3. Hiện nay là đất Trung-nguyên,
 4. Khóc chảy máu mắt, đoạn trường ai hay?
 5. Vua Lê thắng Tống chỗ này,
 6. Thường Kiệt rượt Tiết cả ngày lẫn đêm,
 7. Thánh Trần sát Ðát liên miên,
 8. Lê Lợi giết bọn Thành-sơn bên đồi,
 9. Càn-Long chinh tiễu than ôi,
10. Quang-Trung truy sát muôn đời khó quên.
11. Năm nghìn năm cũ qua rồi,
12. Chợ biên giới lập, đời đời Việt-Hoa.
13. Ông Hồ kết bạn ông Mao,
14. Sao răng lại cắn, máu trào môi sưng.
15. Vạn dân xương trắng đầy đồng,
16. Ðể lại trên lá cờ Hồng vết nhơ.
(Người nước Ðại-Việt vong quốc tên Trần Ðại-Sỹ,
khóc đề thơ ngày 6 tháng 9 năm 2001)
Câu 5, Vua Tống Triệu Quang-Nghĩa sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng sang đanh VN, bị vua Lê (Hoàn) đánh bại.
Câu 6, Năm 1076, vua Tống Thần-tông sai bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang đánh Đại-Việt, bị Thái-úy Lý Thường Kiệt đánh đuổi.
Câu 8, Tước của Vương Thông là Thánh-sơn hầu.
Câu 10, Vua Quang-Trung còn có tước phong là Bắc-bình vương.
Câu 14, Hồi 1947-1969 Chủ-tịch Trung-quốc là Mao Trạch Đông, Chủ-tịch Việt-Nam là Hồ Chí Minh kết thân với nhau. Việt-Hoa ví như răng với môi. Vì sợ môi hở răng lạnh nên ông Mao phải giúp ông Hồ. Năm 1979, Đặng Tiểu Bình đem quân tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc Việt-Nam, nên người ta đổi câu trên thành: Răng cắn môi máu chảy ròng ròng.
Tôi chợt nhớ một chuyện, mấy năm trước, mỗi khi qua đây tôi đều tìm đến suối Phi-Khanh. Tôi lò mò đến suối Phi-Khanh. Ngọn suối Phi-Khanh này không xa Nam-quan làm bao, không nổi tiếng bằng Ải Nam-quan, nhưng đối với dân địa phương thì lại là một vùng đất linh của lịch sử. Nhìn thấy suối Phi-Khanh bây giờ thuộc Trung-quốc, tôi khóc như một người điên. Anh sĩ quan Công-an nói với nhân viên phụ trách quan thuế:
- Tội nghiệp cho vị tiên sinh này! Chắc con của ông ấy tử trận trong lần mình dạy tụi Nam-man bài học! Ông ấy thương tâm quá rồi.
Tôi nghe anh ta nói, lại khóc to hơn. Cái suối Phi-Khanh này ra sao?
 
Câu chuyện suối Phi-Khanh như thế này:
Nhà Minh lấy cớ giặc Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần (1400), sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh sang đánh (1406). Thăng-long (Đông-đô) thất thủ, rồi Tây-đô (Thanh-hóa) cũng thất thủ. Cha con  giặc Hồ chạy đến cửa biển Ky-la. Có một lão ông ra bái yết nói:
"Chỗ này tên Ky Lê, trên núi có động Thiên-cầm; đều là điềm không tốt, xin đừng lưu ở đây".
Hai cha con họ Hồ giết ông lão ấy, rồi quả nhiên bị bắt.
Chữ Ky có nghĩa là trói, buộc. Nguyên tổ tiên Hồ Quý Ly là con nuôi ông Lê Huấn, mới đổi ra họ Lê. Nay gặp cửa Ky Lê nghĩa là trói bọn Lê. Còn hang Thiên-cầm thì Thiên là trời, cầm là đàn. Cái hang này khi  gió thổi vào tạo thành âm thanh như tiếng đàn. Nhưng ông lão đó khuyên Hồ Quý Ly rời đi vì cầm tuy viết khác, nhưng cùng âm với cầm là bắt. Hang Thiên-cầm nghĩa là hang trời bắt.
Tháng 6 năm Đinh Hợi, 1407, Trương Phụ sai Hoành-hải tướng quân Lỗ Bân, Đô-đốc thiêm-sự Liễu Thăng bắt giải Quý-Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng, Triệt, Uông, cháu là Nhuế, Mỗ, Phạm, em là Quý-Tỳ; con Quý-Tỳ là Vô Cữu, ngụy tướng quân Hồ Đỗ, Đoàn Bồng; ngụy Hành-khiển Nguyễn Nghiện Quang, Lê Cảnh Kỳ, Nguyễn Phi Khanh sang Kim-lăng.
(Thời còn niên thiếu, nho sinh Nguyễn Phi Khanh được quan Tư-đồ Trần Nguyên-Đán tuyển làm gia sư cho các con. Trong các con của quan Tư-đồ có cô Trần Thị Thái đang tuổi dậy thì. Lửa Phi-Khanh gần rơm Thái thì phải bén là lẽ thường. Thế rồi cô Trần Thị Thái mang bầu. Nho sinh Phi-Khanh sợ tội bỏ trốn. Quan Tư-đồ sai người đi bắt về, rồi gả con gái cho. Bà Thái ông Khanh sinh ra Nguyễn Trải. Thời thơ ấu Nguyễn Trãi được ông ngoại yêu thương dạy dỗ tận tình  hơn tất cả các cháu. Sau khi giặc Hồ Quý-Ly cướp ngôi nhà Trần, Nguyễn Phi Khanh ứng thí, rồi được bổ làm quan).
Nguyễn Trãi thương xót cha, đi theo đoàn tù binh để phụng dưỡng. Lúc tới Nam-quan thì quan nhà Minh đuổi những người theo tiễn sang Trung-quốc trở lại. Cha con khóc lóc tiễn biệt nhau, Phi-Khanh khuyên con hãy trở về lo phục quốc. Tương truyền, bình nước Nguyễn Trãi mang theo để cho cha uống đã hết, tại cửa ải không tìm đâu ra nước, ông lang thang vào bãi cỏ bên đường, ngửa mặt nhìn trời, rồi khấn:
"Nếu trời xanh chưa nỡ hại nước Việt tôi, cho tôi đuổi được giặc, phục hồi cố thổ thì xin cho tôi bầu nước tiễn cha".
Uất khí bốc lên ông dậm chân, thì dưới chân vọt ra một nguồn nước. Ông uống nước đó, rồi hứng đầy bầu dâng cho cha. Từ đấy dân Nam-quan gọi suối ấy là suối Phi-Khanh. Khi vụ án Lệ-chi viên xẩy ra, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, thì suối ấy đổi tên là Thiên-tuyền. Rồi khi vụ án được vua Lê Thánh-tông giải oan, suối ấy lại mang tên Phi-Khanh truyền đến nay.
Suối vẫn còn đây! Phi-Khanh ở đâu? Nguyễn Trãi ở đâu? Trên không mây vẫn bay, sương mờ vẫn giăng trên núi, nước vẫn chảy. Nhưng đất đã đổi chủ. Tôi cảm ứng cầm bút vạch trên tảng đá bài thơ cổ phong (quá buồn tôi làm thơ, để bầy tỏ sự đau đớn, chứ tôi không phải là thi sĩ), rồi lại trở sang Bằng-tường khắc bài thơ lên mảnh granite, và gắn lên tảng đá trong vách núi gần suối. Bài thơ như sau:
PHI-KHANH TUYỀN
 1. Ngụy Hồ thất nhân tâm,
 2. Minh xử Trương Phụ xâm.
 3. Nhị đô giai thất thủ,
 4. Quân, thần nhục Thiên-cầm.
 5. Thử địa Ức Trai thệ,
 6. Uất khí biệt phụ thân,
 7 Nam-quan khốc tống biệt,
 8. Thiên tứ nhất linh tuyền.
 9. Lục bách niên vân tải,
10. Việt Dân tưởng anh huân,
11. Kim thuộc Trung-quốc thổ,
12. Ẩm thủy thương ngã tâm.
Đại-Việt, vong quốc nhân Trần Đại-Sỹ,
Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001.

 
Tạm dịch:
Giặc Hồ làm mất dân tâm,
Minh sai Trương Phụ đem quân đánh mình,
Quân thua thất thủ hai kinh,
Vua tôi bị bắt ở quanh Thiên-cầm.
Ức-Trai hiếu tử tiễn cha,
Nam-quan thề quyết không tha giặc trời.
Hay đâu linh khí muôn đời,
Phun ra ngọn suối, tuôn hoài nước thiêng.
Sáu trăm năm cũ ai quên,
Đại công quét sạch giặc Minh chỗ này.
Bây giờ, suối vẫn còn đây,
Đau lòng vì suối đã thay chủ rồi.
(Người nước Đại-Việt vong quốc tên Trần Đại-Sỹ,
khóc đề ngày 6 tháng 9 năm 2001)
Hết chú giải 1, trở lại bản điều trần

  • Tháng 9 vừa qua (2001), Đảng Cộng-sản Việt-Nam liệt tôi vào danh sách 80 người phản động nhất, vì năm 1997 tôi đã viết một bài tiết lộ những chi tiết tuyệt mật về cuộc viếng thăm Trung-quốc của Tổng Bí-thư Đỗ Mười, Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Nhất là cuộc họp mật của hai nhân vật này với Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân. Tôi viết dưới hình thức hai hước cho tờ báo Văn-nghệ Tiền-phong ở Virginia, USA, số Xuân 1998. Nội dung của bài đó là một phần bài thuyết trình của tôi với Quý-vị cuối năm 1997 (Phụ bản 3 đính kèm). Như Quý-vị biết về Cộng-sản, khi họ kết tội ai phản động, có nghĩa là toàn đảng phải dùng hết khả năng tiêu trừ người ấy. (2)
     
Chú giải, (2)
Tôi không tin chỉ với bài này mà họ kết tội tôi nặng như vậy. Tôi biết rất rõ ai chủ trương, ai kết tội tôi. Nhưng tôi chưa muốn nói ra. Trong bài viết trên, tôi đã tiết lộ những điều tuyệt mật về cuộc hội đàm, khiến họ sợ hãi mà thôi. Điều tuyệt mật đó là vụ: ông Lê Đức-Anh bị Trung-quốc đánh thuốc độc, bị bán thân bất toại. Rồi cũng do Trung-quốc trị cho. Nay tôi tiết lộ thêm, những vụ đầu độc cùng một phương pháp:
·        Một ký giả Việt tên Tô Văn, thuộc loại nghiện hút, vô tư cách, thường được gọi là Cậu-chó. Ông ta từ Hoa-kỳ sang Pháp, theo tên Trương Như Tảng, cùng kéo nhau sang Bắc-kinh, định dâng Việt-Nam cho Trung-quốc (Nhưng Tảng không cho ông đi). Trung-quốc biết là bọn lưu manh không nhận, bọn họ trở về nói láo được Trung-quốc chi 4 tỷ đô la để đánh VC! Ít lâu sau Tô Văn được bán thân bất toại để bảo mật.
 
·        Ông Lê QT, một lãnh tụ kháng chiến có thực lực. Lực lượng kháng chiến này do Trung-quốc yểm trợ. Sau ông có ý ly khai Trung-quốc. Ông đang ở tuổi trẻ, không bệnh tật, (ông không hề bị huyết áp cao, đái đường cũng như mỡ cao trong máu), ông cũng bị đột quỵ, tai biến mạch máu não, rồi được Trung-quốc trị khỏi. Sau đo ít lâu, ông từ trần đột ngột khi ăn cơm tại một nhà hàng nhỏ ở ngoại ô Paris.
 
·        Trong kỳ đại hội 8, giữa đại hội, ông Lê Mai, Thứ-trưởng Ngoại-giao, ông Đào Duy-Tùng ứng viên Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản cũng bị hạ độc bằng cùng một phương thức. Nhưng tôi không biết ai đã làm công việc đó.
 
·        Gần đây nhất một Bác-sĩ Việt-Nam, tỵ nạn tại Pháp, từng dính dáng với nhóm Trương Như Tảng. Sau đó đã tỵ nạn lần thứ nhì sang Canada, năm trước đây (2000), nghe tin Bác-sĩ Dương Quỳnh-Hoa từ Việt-Nam qua Pháp. Ông lén từ Canada sang Paris gặp bà này, mưu kiếm ít xôi thịt từ Bắc-kinh. Khi trở về Canada, ông cũng bị đột quỵ và tiêu dao miền Cực-lạc.
Tôi chỉ cử mấy tỷ dụ, nếu tính tất cả những người Việt bị giết bằng phương pháp này, lên tới con số 37!
Ngắt đoạn 1,
Có 2 câu đánh số 1-2, hỏi về những nhân vật bị đầu độc, loại thuốc đầu độc. Không phổ biến.

Kính thưa Quý-vị:
Tuy tôi đã tuyên thệ tại đây hồi tháng ba vừa qua (3-2001). Nhưng hôm nay tôi xin tuyên thệ một lần nữa:
"Tôi xin tuyên thệ với tất cả danh dự của tôi rằng: Tôi không thù, không ghét những người tại Việt-Nam họ đã nộp lãnh hải, lãnh thổ cho Trung-quốc. Tôi cũng không vì lòng yêu nước Việt mà oán ghét họ. Tôi không hận những người Việt chủ trương khủng bố tôi khi họ mời tôi về Việt-Nam giúp đỡ họ. Những lời tôi trình bày hôm nay hoàn toàn vô tư".

1. NHỮNG TRANH CHẤP BIÊN GIỚI TRONG QUÁ KHỨ..
Trước hết tôi xin trình bày một vài nét về tranh chấp lãnh thổ Việt-Hoa trong quá khứ gần đây nhất:
  • Trong thời gian từ 1010 đến 1225, dưới triều Lý, bên Trung-quốc là triều Tống. Đại-Việt là nước nhỏ, hằng năm phải tiến cống Trung-quốc một số sản vật tượng trưng: Voi, ngà voi, hương liệu, đôi khi một vài vật dụng bằng vàng, bạc. Trong thời gian trên, trước sau có 18 lần đụng độ, tranh chấp biên giới. Trong 18 lần đó, có sáu lần quân Việt vượt biên đánh sang Trung-quốc. Quan trọng nhất là cuộc tiến quân năm 1075-1076, quân Việt tiến tới vùng thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu, Hồ-Nam hiện thời. Sau đó Trung-quốc mang 40 vạn quân và 50 vạn dân phu sang trả thù. Quân Trung-quốc đã tiến chiếm lãnh thổ Đại-Việt tới cách thủ đô Thăng-long (Hà-nội) có 25 cây số, rồi bị đánh bật về biên giới. (3)
     
Chú giải, (3)
Về việc đánh Tống có sáu lần, thì trong đó có năm lần đánh sang lãnh thổ Trung-quốc và một lần kháng chiến chống quân Tống xâm-lăng.
1.1, Lần thứ nhất,
Năm 1022, do vua Lý Thái-tổ ban chỉ, Khai-Thiên vương tổng chỉ huy, đánh sang trại Như-hồng của Tống đốt kho đụn rồi rút về. Cuộc xuất chinh để trừng phạt quân Tống tại đây thường vượt biên sang trấn Triều-dương của Đại-Việt cướp bóc. Trấn Triều-dương nay thuộc tỉnh Hạ-long. Trại Như-hồng thuộc Quảng-Tây Nam-lộ. Đại-Việt toàn thắng. Cuộc chiến tranh có tính cách trừng phạt một khê-động. Tống triều im lặng.
1.2, Lần thứ nhì,
Năm 1028, tướng Tống là Lý Tự đem quân vượt biên, cướp phá trên lãnh thổ Việt. Việt ra quân đánh tràn sang châu Thất-nguyên của Tống. Cuộc ra quân do Khai-Quốc vương lãnh đạo, tổng chỉ huy là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa và phò-mã Thân Thừa-Quý. Mục đích chiếm lại mấy châu động đã mất về Tống, do các biên thần Tống chủ trương. Giết chết Lý Tự. Toàn thắng. Cuộc chiến có tính cách tự vệ, dằn mặt các biên thần Quảng-Tây. Tống triều không chủ trương.
1.3, Lần thứ ba,
Dưới thời vua Thái-tông, do Khai-Quốc vương lãnh đạo (1053), mục đích chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, bị người Hán chiếm mất (Nay thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam), rồi đẩy dân Việt về sống ở vùng Bắc-cương thành 207 trang-động. Cuộc khởi binh thành công, đưa Nùng Trí-Cao lên làm vua, lấy lãnh thổ vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu lập thành nước Đại-Nam. Cuộc ra quân này, đã tôi đã thuật chi tiết trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. Nhưng khi Nùng Trí-Cao thành công, y lại trở mặt với Đại-Việt. Nên khi quân Tống đánh Cao, Đại-Việt không tiếp cứu, Cao bị bại. Cuộc chiến tranh có tính cách toàn diện. Đại-Việt không ra mặt khai chiến với Tống. Tống biết, nhưng không dám trả thù.
1.4, Lần thứ tư,
Cũng do Khai-Quốc vương lãnh đạo, diễn ra dưới thời vua Thánh-tông. Vùng tấn công là Khâm-châu. Người tổng chỉ huy là công-chúa Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái (1059-1060). Mục đích cuộc Bắc phạt này là chiếm lại một số trang động do các bộ tộc thiểu số tự trị; bị Tống lấn chiếm, hoặc chiêu dụ các động chủ phản Việt, đem cả đất lẫn dân theo Tống. Sau khi chiếm lại các trang đã mất, trả đất cho các tộc bị mất, quân Việt tiến sâu vào vùng Tả-giang, Hữu-giang, chiếm hơn mười ải, giết nhiều tướng Tống. Tống cực kỳ phẫn uất, nhiều đại thần khuyên vua Tống Nhân-tông đem quân sang đánh Đại-Việt để trừng phạt; nhân đó chiếm nước đặt làm quận huyện. Ngặt vì bấy giờ phía Tây, Tống đang mắc họa với Hạ, phía Bắc thì Liêu chiếm đất, đòi cống vàng lụa; vả vua Tống cũng sợ binh hùng tướng mạnh của Đại-Việt, nên bàn hòa. Công-chúa Bình-Dương đòi nhiều điều kiện khắt khe mới chịu rút quân. Tống cũng phải nhượng. Thắng toàn diện. Chiến công oanh liệt trên thuật trong bộ Nam-quốc sơn-hà. Đến đây chiến cuộc leo thang. Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống, nhưng để cho công chúa Bình-Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái làm.
1.5, Lần thứ năm,
Diễn ra dưới thời vua Nhân-tông vào năm 1075, bấy giờ vua mới chín tuổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu phụ chính. Vua còn thơ, chư sự lớn nhỏ đều do Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định. Nguyên do: Vua Tống Thần-tông dùng những cải cách về kinh-tế, nông-nghiệp, binh-bị, tài-chánh của Vương An-Thạch từ năm 1066, đã được chín năm, khiến binh lực trở thành hùng hậu, quốc-sản sung túc. Nhà vua muốn nhân đó tiến quân lên Bắc đánh Liêu, chiếm lại đất cũ, để rửa nhục. Nhưng Vương An-Thạch lại khuyên nên đánh Đại-Việt trước. Sau khi bại Đại-Việt, thì Chiêm-thành, Chân-lạp, Ai-lao, Xiêm-la, Đại-lý phải quy hàng. Bấy giờ dùng nhân lực, tài lực sáu nước, đem lên Bắc, thì thắng Liêu dễ dàng. Vua nghe theo, bí mật cho các châu Nam biên luyện binh, tích trữ lương thảo. Cuộc chuẩn bị được ba năm, thì bị Đại-Việt biết được. Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định: Ngồi yên đợi giặc, sao bằng mình ra tay trước. Mục đích cuộc hành quân là phá hết các kho lương thảo, vũ khí, thành trì, cầu cống, diệt các đạo quân mới huấn luyện của Nam thùy Tống. Thế là cuộc Bắc phạt nổ ra vào cuối năm 1075. Quân Việt tiến đánh 18 ải dọc biên thùy Tống, rồi công phá các  châu Khâm, Liêm, Ung, Dung, Nghi, Bạch, cùng diệt viện quân ở núi Đại-giáp (Nay thuộc lãnh thổ Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu, Hồ-Nam). Nhiệm vụ chu toàn rồi, quân Việt rút về. Thắng toàn diện. Đến đây Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống. Cả hai bên cùng đem toàn lực ra đối phó với nhau.
Cuộc ra quân của Việt lần này quá lớn lao, phá nát kế hoạch cải cách của Tống ở Giang-Nam. Quá uất hận, Tống chịu nhục; nhường Hạ ở phía Tây, cắt đất dâng cho Liêu ở phương Bắc... để cho rảnh tay, rồi họ mang quân nghiêng nước sang định chiếm Đại-Việt đặt làm quận huyện (1076-1077). Nhưng Tống lại bị thất bại phải rút quân về, và chịu hòa. Người có hùng tâm, tráng-chí, lãnh đạo là một thiếu phụ ở tuổi ba mươi, đó là Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan). Còn người Tổng chỉ huy cuộc vượt biên Bắc phạt là Lý Thường-Kiệt, Tôn Đản, Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên. Tôi đã thuật trong bộ Nam-quốc sơn hà.
1.6, Lần thứ sáu,
Sau cuộc Bắc phạt, và giữa lúc cuộc kháng Tống của Đại-Việt, chiến cuộc đang diễn ra cực kỳ khốc liệt (1076), Vương An-Thạch bị cách chức Tể-tướng, giáng xuống tri Giang-ninh phủ, lĩnh Trấn-Nam quân tiết độ sứ, Đồng-bình chương-sự. Lúc Vương độ giang, bị một nhân sĩ bắt con sâu bỏ lên xe rồi làm bài thơ mỉa mai như sau:
Thanh-miêu, trợ-dịch lưỡng phương nông,
Thiên hạ ngao ngao oán tướng công.
Ðộc hữu hoàng trùng thiên cảm đức,
Hữu tùy xa giá, quá Giang-Ðông.
Dịch :
Thanh-miêu trợ dịch hại canh nông,
Thiên hạ nhao nhao oán tướng công.
Chỉ có sâu vàng theo tiễn biệt,
Cùng trên xa giá, quá Giang-Ðông.
Có người ví cái thất bại của Vương An-Thạch cũng đau đớn như cái thất bại của Hạng Võ xưa, khuyên Thạch nên tự tử: Khi Hạng-Vương mưu đuổi hươu ở Trung-nguyên, bị thất bại, lui về Nam; lúc qua sông này tự cảm thấy xấu hổ, đã tự tử, mà hậu thế kính phục. Tôi khuyên ông cũng nên tự tử để lưu danh muôn thủa.
Nhưng Thạch không đủ can đảm.
Tiếc thay, một cuộc cải cách về kinh-tế, binh-bị, tài-chánh, xã-hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ; bị tan vỡ, bị hủy bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại-Việt của Vương An-Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung-quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung-quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng muôn đời mặt trời vẫn ở phương Đông, chứ không ngả về Tây như hồi thế kỷ thứ 18 cho đến nay và bao giờ..???...???
Sau cuộc ra quân của Đại-Việt, trên từ vua Tống Thần-tông cho tới các quan đều uất hận. Tống xuất quân nghiêng nước, 40 vạn binh, 50 vạn dân phu (phụ lực quân) sang đánh trả thù (1066-1067). Nhưng khi quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ tiến đến cách Thăng-long 50 dặm (25 cây số) thì bị đánh bật về Bắc. Sau đó Tống rút quân chịu hòa.
Tuy Tống chịu hòa, nhưng còn giữ của Đại-Việt các châu Quảng-nguyên, Tô-mậu mà bọn động trưởng Lưu Kỷ, Vi Thủ-An đem cả dân lẫn đất theo Tống. Quan trọng nhất là châu Quảng-nguyên có mỏ vàng. Năm 1078, Việt sai sứ sang Tống đòi đất. Tống không trả. Mãi năm 1081, Việt trả tù binh trong trận 1075-1077, Tống mới trả châu Quảng-nguyên. Năm 1084, Việt sai Binh-bộ thị-lang Lê Văn Thịnh (Thị lang tương đương với ngày nay là một giám-đốc) nghị hòa với các đại thần Tống, Tống chịu trả cho Việt thêm 6 huyện, 3 động. Việt tặng Tống con voi lớn. Danh sĩ Trung-quốc nhân chuyện này làm thơ than:
Nhân tham Giao-chỉ tượng,
Khước thất Quảng-nguyên kim.
(Vì tham voi Giao-chỉ,
Chịu mất vàng Quảng-nguyên).
Hết chú giải 3

2. VỤ NHƯỢNG ÐẤT DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ.
  • Trong suốt thời gian từ 1010 đến 1539, ngoại giao Việt-Hoa khi đẹp, khi xấu. Hai bên xẩy ra nhiều cuộc chiến, chính sự Đại-Việt khi thịnh, khi suy, nhưng phía Việt chỉ chịu cống Trung-quốc một số sản phẩm tượng trưng, chứ không bao giờ nhượng đất, nhượng dân.
     
  • Cho đến năm 1540, giặc Mạc Đăng-Dung cướp ngôi nhà Lê, nhà Minh sai tướng Mao Bá Ôn, Cừu Loan đem 22 vạn quân tới biên giới lấy lý do Hưng diệt kế tuyệt (trung hưng triều Lê bị diệt, dựng lại dòng họ Lê bị tuyệt). Mạc Đăng-Dung đem một số tùy tùng lên ải Nam-quan, tự trói mình sang Trung-quốc, quỳ lạy các tướng Minh, xin đầu hàng, chịu lệ thuộc Minh, dâng nộp sổ sách về đất đai, quân dân, quan chức. Lại cũng dâng các động Tê-phù, Kim-lặc, Cổ-sâm, Liễu-cát, An-lương, La-phù. Đây là lần duy nhất trong lịch sử Việt, mà bọn Mạc cắt đất cho Trung-quốc. Suốt từ năm 1540 cho đến nay, sử sách, cùng tất cả người Việt đều nguyền rủa Mạc Đăng-Dung bằng tất cả những lời lẽ nặng nề nhất. Tuy Mạc dâng đất cho Trung-quốc, nhưng vẫn giữ lại cửa ải Nam-quan, làm ranh giới giữa Hoa-Việt. (4)
     
Chú giải, (4)
Về vụ việc này sách Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), phần Chính-biên, quyển 27 chép:
Canh Tý, năm thứ 8 (1540). (Mạc, năm Đại-Chính thứ... Minh, năm Gia-Tĩnh thứ 19)
...
Tháng 11, mùa đông, Mao Bá Ôn nhà Minh đóng quân ở ngoài cửa ải. Mạc Đăng-Dung đến cửa quân tướng Minh, xin hàng và đem đất 5 động hối lộ nhà Minh.
Trước kia, tướng Minh là bọn Cừu Loan và Mao Bá-Ôn đã đến Quảng-tây, trưng tập các lang binh của thổ quan ở các tỉnh Lưỡng-Quảng, Phúc-kiến và Hồ-quảng. Lại truyền hịch đi Vân-nam sai tập họp binh lính, để chờ đợi nhật kỳ xuất quân.
Bọn Cừu Loan lại bàn:
"Chia chính binh làm ba đội tiểu binh, từ Quảng-tây đi các xứ Bằng-tường, Long-châu và Tư-minh.
Chia kỳ-binh làm hai toán tiểu binh: Toán xuất phát từ châu Quy-thuận gọi là Sơn-tiểu, toán xuất phát từ núi Ô-lôi gọi là Hải-tiểu.
Kể cả chính binh và kỳ binh trên đây cộng 22 (ChbXXVII, 32)  vạn người.
Lại chia quân Vân-nam ở ghềnh Liên-hoa làm ba toán Tiểu binh, mỗi toán gồm 21.000 người. Tất cả đều lên đường  đồng thời xuất phát".
Lại truyền hịch sang ta dụ bảo về nghĩa phục hưng nước đã mất, nối lại dòng họ đã tuyệt, sự đánh dẹp chỉ nhằm một mình cha con Đăng Dung là kẻ có tội; còn ai biết đem quận huyện nào ra hàng, thì liền được trao cho chức quan ở quận huyện ấy để cai quản. Ai bắt hay chém cha con Đăng Dung mà ra hàng, thì cứ tính theo từng tên tội nhân một, mỗi tên là được thưởng 2 vạn nén vàng và được cho làm quan đến phẩm trật cao sang.
Tướng Minh lại dụ bảo cha con Đăng Dung nếu tự trói nộp mình đợi tội, thành khẩn dâng hết các sổ sách về đất đai và nhân dân thì được tha cho tội chết.
Bọn Bá-Ôn đóng quân dựng đồn ở gần  nơi biên giới.
Bấy giờ Đăng Doanh chết rồi, Đăng Dung được tin, cả sợ, sai sứ giả đến cửa quân tướng Minh, trần tình, nguyện xin ra khỏi bờ cõi, đầu hàng, và kính cẩn vâng theo lịnh trên phân xử.
Lời lẽ của Đăng Dung rất là khiêm nhún, thiết tha. Bọn Bá-Ôn vâng theo lời chiếu của vua Minh, ưng thuận, hẹn đến mồng 3 tháng 11  cho Đăng Dung sang làm lễ đầu hàng.
Bọn Bá-Ôn thiết lập MaÏc-phủ và tướng-đài ở Nam-quan chờ đợi. Đến kỳ đã định, Đăng Dung để Phúc-Hải ở lại coi giữ việc nước, còn mình cùng với người cháu là Văn Minh cùng bè đảng là bọn Vũ Như-Quế hơn 40 người do đường Nam-quan đi sang: ai nấy buộc dây thao vào cổ , đi chân không, gieo mình vào nơi Mạc-phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách, đất đai và nhân dân do mình cai quản.
Đăng-Dung lại xin dâng đất các động Tỳ-phù, Kim-lặc, Cổ-sâm, Liễu-cát, La-phù, An-lương thuộc châu (ChbXXVII, 33) Vĩnh-an ở Yên-quảng để lệ thuộc vào Khâm-châu nhà Minh. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã ban từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao.
Bọn Bá-Ôn vâng theo lời chiếu của vua Minh dụ bảo Đăng Dung hãy cho đái tội, về nước, chờ đợi mệnh lệnh phân xử sau.
Đăng-Dung lại sai Văn Minh và Nguyễn Văn Thái đem tờ hàng biểu sang Yên-kinh.
Lời cẩn án - Sử cũ chép đầu hàng nhà Minh, xin nộp các động Ty-phù, Kim-lặc, Cổ-sâm, Liễu-cát, La-phù và An-lương thuộc châu Vĩnh-an ở (ChbXXVII, 34) Yên-quảng cho lệ thuộc vào Khâm-châu. Nay xét Khâm-châu chí của nhà Thanh, chỉ thấy chép đời Gia-Tĩnh (1522-1566), Đăng Dung nộp trả năm động Ty-phù, La-phù, Cổ-sâm, Liễu-cát và Kim-lặc mà thôi, chứ không thấy nói đến động An-lương. Lại tra cứu đến Quảng-yên sách thì thấy động An-lương hiện nay là phố An-lương thuộc châu Vạn-ninh nước ta. Có lẽ về động An-lương, Đăng Dung chưa từng dâng nộp, mà chỉ là do sử cũ chép sai sự thật đó chăng?
Lại xét - Trong năm Mạc Minh-Đức thứ 2, tức là năm Minh Gia-Tĩnh thứ 7 (1528), sử cũ chép Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận: vua Minh nhận. Từ đó, Nam, Bắc lại cho sứ giả đi lại thông hiếu. Nhưng, nay tra cứu bản đồ nước ta thì có Quy-hóa châu và Thuận-châu. Hai châu này hiện nay thuộc tỉnh Hưng-hóa. Trong Đại-Thanh nhất thống chí tuy có chép châu Quy-thuận nguyên thuộc phủ Trấn-an tỉnh Quảng-tây nhà Thanh đấy thật, nhưng hai châu mà sử cũ gọi là Quy, Thuận có lẽ tức là Quy-hóa và Thuận-châu đó thôi.
Lại xét - Minh sử thông giám kỷ sự: hồi năm Mạc Đại-Chính thứ 9 (1538), Mạc Đăng-Dung được tin quân Minh sang đánh, cả sợ, sai sứ xin hàng, nói dối là họ Lê không có người kế tự, cha con Đăng-Dung có công với nước, được mọi người suy tôn. Còn Đăng-Dung sở dĩ không dâng được biểu chương, cho sứ sang tiến cống, là chỉ vì  trước kia bị Trần Cung chiếm cứ Lạng-sơn làm nghẽn đường, đến sau lại bị quan giữ biên cương đóng cửa ải, không tiếp nhận.
Nay, từ năm Gia-Tĩnh thứ 7 (1528) đến năm thứ 17 (1538) trải hàng 10 năm chưa từng có sứ đi thông hiếu, thế mà sử cũ ở năm Gia-tĩnh thứ 7, đã vội chép rằng: "Đăng-Dung tính chuyện cắt đất dâng nộp hai châu Quy, Thuận, từ đó Nam, Bắc lại cho sứ giả đi lại thông hiếu". Về việc này, những điểm sử cũ chép đó đều xa sự thực, nên nay rút bới đi mà chép phụ vào đây để tham khảo.
(KHĐVSTGCM, bản dịch của viện Sử-học Việt-Nam, NXB Giáo-dục, 1998, trg. 113-117)
Hết chú giải (4)
Hình chụp tháng 8-2001, trên núi Tô-thị, thành nhà Mạc còn lưu di tích.
Nhờ dâng đất, được Minh triều bao che, con cháu Mạc Đăng-Dung còn cát cứ vùng biên giới Cao-bằng, Lạng-sơn một thời gian.
Chiếu Vidéo trong 5 phút về núi Tô Thị tại Lạng-sơn.

Tượng nàng Tô-thị tại quận Đồng-đăng, tỉnh Lạng-sơn, ghi lại di tích người chinh phụ bế con chờ chồng, rồi hóa đá.
Hồi Tổng bí-thư Lê Duẩn cầm quyền, để xóa bỏ văn hóa tộc Việt, phát huy văn hóa Mác-xít, tượng bị đem nung làm vôi.
Hình chụp tượng mới tạc lại.
Ca dao có bài hát:
Con cò bay lả bay la,
Bay ra ruộng lúa, bay vào Đồng-đăng,
Đồng-đăng có phố Kỳ-lừa,
Có nàng Tô-thị, có chùa Tam-thanh,
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.



Không phải chùa Tam-thanh mà là động Tam-thanh. Hồi 1979, Hồng-quân sang "dạy" Việt-Nam bài học, đã san bằng Lạng-sơn. Chưa hả giận, họ còn dùng đại pháo bắn phá động Tam-thanh. Cửa động trước ở chỗ cột cờ, với hàng trăm bài thơ lưu niệm của danh sĩ Việt. Nay cửa động bị phá, cửa động mới tụt lùi vào trong.
 
Ngắt đoạn 2, không có câu hỏi nào.



No comments:

Post a Comment