Xe tăng: Tank
Cách nay đúng 102 năm, Anh dùng Xe tăng lần đầu trong Đệ nhất
thế chiến
Ngày 15 tháng 09, 1916
·
1916 – Chiến tranh thế giới thứ nhất: Loại
vũ khí bí mật của Quân đội Anh là xe tăng lần
đầu tiên được sử dụng trong trận Somme tại Pháp.
Xe tăng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xe tăng
Xe
tăng chủ lực T-14 Armata của Nga trong lễ duyệt binh 9-5-2015
Lược sử hoạt động
Phục vụ Từ năm 1916
Thông số
Phương tiện bọc thép Thép hoặc các loại vỏ
giáp khác dành cho chiến xa
Xe tăng, thường được gọi tắt là tăng, là loại xe chiến
đấu bọc thép, có bánh xích được thiết kế cho chiến đấu
tiền tuyến kết hợp hỏa lực cơ động, chiến thuật tấn công và khả năng phòng thủ. Hỏa lực này thường
được cung cấp bởi 1 súng chính
cỡ nòng lớn trong 1 tháp pháo quay
với súng máy, trong khi có áo giáp nặng và di chuyển trên mọi địa hình nhằm
cung cấp sự bảo vệ cho xe tăng và tổ lái, cho phép thực hiện
tất cả các nhiệm vụ chính của xe bọc thép quân đội trên chiến trường..
Thiết
kế
Sơ đồ một
loại xe tăng:
1. Xích;
2. Nòng pháo;
3. Ốp xích nơi treo các tấm thép "váy" phía ngoài xích để chống trái phá chống tăng;
4. Các ống phóng lựu cho hệ thống bảo vệ tích cựcvà tạo màn khói bảo vệ;
5. Tháp pháo;
6. Khoang động cơ, hộp số;
7. Cửa nắp tháp pháo;
8. Khe súng máy;
9. Vỏ thân xe;
10. Súng máy mũi xe
1. Xích;
2. Nòng pháo;
3. Ốp xích nơi treo các tấm thép "váy" phía ngoài xích để chống trái phá chống tăng;
4. Các ống phóng lựu cho hệ thống bảo vệ tích cựcvà tạo màn khói bảo vệ;
5. Tháp pháo;
6. Khoang động cơ, hộp số;
7. Cửa nắp tháp pháo;
8. Khe súng máy;
9. Vỏ thân xe;
10. Súng máy mũi xe
Do đặc trưng chức năng chiến đấu nên xe tăng được đánh giá qua
rất nhiều các thông số kỹ thuật – chiến thuật mà chúng nằm trong các nhóm tính năng chính
như sau:
·
Hoả lực: là số lượng, chất
lượng, cỡ nòng của pháo trên xe: bao gồm nhiều thông số như tốc độ bắn nhanh, độ
chính xác, tầm bắn xa nhất, tầm bắn gần nhất, sức công phá của đạn... Các xe
tăng hiện đại thường trang bị 1 pháo bắn
thẳng nòng trơn hoặc có khương tuyến cỡ nòng từ 100 đên
125 mm (Trong đại chiến II cỡ nòng thông dụng từ 75–100 mm) 1–2 khe
súng máy đằng mũi 1 đại liên tháp pháo. Đạn có nhiều loại đạn nổ, xuyên thép, đạn
chống tăng, và tên lửa có điều khiển bắn qua nòng pháo
·
Vỏ thép: đây là thông số về
tính được bảo vệ của xe gồm các yếu tố về số lượng, chất lượng, độ dày, vật liệu,
hình dáng và vị trí bố trí của các lớp vật liệu vỏ thép để bảo vệ xe... Các xe
tăng hiện đại ngoài nhiều lớp vỏ thép và các vật liệu tổng hợp còn các lớp treo
bảo vệ bằng thuốc nổ (còn gọi là giáp phản ứng nổ, viết
tắt là ERA) và các lớp vật liệu chống
phóng xạ cho trường hợp chiến tranh hạt nhân và hệ thống tuần hoàn và
lọc khí chống vũ khí hoá học, sinh học.
·
Tính cơ động: Là
tính năng rất quan trọng quyết định hiệu quả chiến đấu của xe tăng, bao gồm các
thông số như tốc độ tối đa, tốc độ chiến đấu trên các địa hình, khả năng vượt vật
cản, khả năng vượt dốc, khả năng vượt sông, tầm hoạt động xa nhất, tính việt
dã...
Hiện nay, các loại xe tăng nổi tiếng được sản xuất tại một số
nước là các cường quốc quân sự và kinh tế trên thế
giới và cũng là các nước có truyền thống sử dụng xe tăng
trong chiến tranh như Nga (Liên Xô), Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Israel, và
gần đây là Trung
Quốc, Ấn Độ...
Mỗi quốc gia tùy quan điểm, kinh
nghiệm và điều kiện của mình chế tạo xe theo ưu tiên riêng cho
các tính năng của xe tăng.
Các
điểm mạnh, yếu và chiến thuật sử dụng xe tăng
Điểm mạnh
Xe tăng có các điểm mạnh thể hiện ở 3 chức năng chiến thuật:
chức năng tấn công thọc sâu, chức năng chống tăng và chức năng trợ chiến bộ
binh.
·
Chức năng tấn công thọc sâu: Xe
tăng là xe vũ trang mạnh di chuyển bằng xích, thực tế là loại xe việt dã chạy mọi
địa hình không cần đường sá, xe có thể vượt các chướng ngại và các địa hình, địa
chất phức tạp với vận tốc khá cao, có hoả lực mạnh, độ bảo vệ tốt và tương đối
độc lập trong hoạt động do đó xe tăng là loại vũ khí tấn công thọc sâu cơ động
tiện dụng, phổ biến nhất của lục quân: bên tấn công tung các đơn vị xe tăng
đánh vào khoảng không gian chiến thuật phía sau tuyến phòng thủ của
đối phương, thọc sâu chia cắt các đơn vị của địch phá vỡ hậu tuyến phòng ngự và
các cơ cấu liên lạc, hậu cần, chỉ huy của đối phương làm đối phương tan vỡ hoảng
loạn hoặc bị rơi vào vòng vây, nhất là khi quân tấn công dùng nhiều mũi xe tăng
kết hợp bộ binh cơ giới đánh chia cắt và hợp vây quân phòng thủ. Đây chính là
các kịch bản của chiến tranh chớp nhoáng của quân đội Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới lần thứ hai với
các đơn vị xe tăng thiết giáp tập trung cấp sư đoàn, tập đoàn quân xe tăng đánh
thọc sâu chia cắt đã tạo các chiến thắng vang dội nhanh chóng, hiệu quả rất lớn
trong giai đoạn đầu của chiến tranh trên bộ tại chiến trường châu Âu.
·
Chức năng chống tăng: Cũng
chính vì khả năng thọc sâu cơ động cực kỳ nguy hiểm trong tấn công của xe tăng
nên để đối phó lại, quân phòng ngự cũng phải duy trì một lực lượng xe tăng thiết
giáp hùng hậu, tập trung tại hậu tuyến phòng ngự của quân mình làm lực lượng dự
bị để cơ động phản công chống lại và hoá giải các mũi thọc sâu của xe tăng đối
phương. Đây chính là kịch bản của trận Vòng cung Kursk nơi có trận đấu xe tăng lớn
nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Như vậy sức mạnh chủ yếu của xe
tăng là sức mạnh tiến công cơ động và nhờ sức tiến công cơ động đó xe tăng cũng
được dùng làm phương tiện chủ yếu để phòng thủ tích cực phản công chống lại sức
tấn công cơ động của đối phương.
·
Chức năng trợ chiến cho bộ binh: Xe
tăng cũng có thể được sử dụng như các ụ pháo di động để trợ chiến cho bộ binh
trong việc đánh quân địch phòng ngự trong công sự và trận địa kiên cố liên
hoàn. Nhưng chỉ nên dùng chức năng này khi thật cần thiết không nên lạm dụng vì
có thể gây tổn thất lớn cho lực lượng xe tăng vì không phát huy được các điểm mạnh
mà còn dễ bị quân phòng ngự khai thác các điểm yếu của mình.
Điểm yếu
Điểm yếu rất quan trọng của xe tăng là tầm quan sát của kíp
chiến đấu kém. Vũ khí đánh
gần kém do xạ giới bị hạn chế bởi các vỏ bọc thép ở tháp
pháo sự cơ động bị chậm do phụ thuộc vào tốc độ quay
của tháp pháo. Những xe tăng kiểu cũ có lớp vỏ giáp trên
đỉnh tháp pháo mỏng, không được trang bị vũ khí phòng không (súng
máy, tên lửa đất đối không tầm ngắn) đều bất lực
trước máy bay cường kích và trực thăng chống tăng của đối phương.
·
Xe tăng hoàn toàn bất lực trước máy bay, trực
thăng của đối phương vì tầm quan sát rất kém và vũ khí của
xe tăng không phải là để chống lại mục tiêu trên không[cần dẫn nguồn]. Do đó
để tránh thương vong cho xe tăng khi tác chiến phải có lực lượng không
quân yểm trợ hữu hiệu hoặc lực lượng phòng không đủ
mạnh để bao bọc bảo về khoảng không cho xe tăng tác chiến, lực lượng phòng
không này vừa phải chống máy bay hiệu quả vừa phải có sức cơ động cao đi kèm xe
tăng do đó tại các cường quốc quân sự thế giới đã chế tạo các loại xe tăng
phòng không[cần dẫn nguồn] trang
bị radar và tên lửa, pháo phòng không để
đi kèm trong đội hình tấn công của xe tăng-cơ giới ví dụ như Flugabwehrkanonenpanzer
Gepard của Đức, 9K22
Tunguska, Buk M2 của Nga hay Type 95 SPAAA của Trung
Quốc.
·
Xe tăng kém hiệu quả tác chiến ở nơi rừng núi và thành phố: Tại
nơi có rừng, núi, thành phố, pháo của xe tăng sẽ khó xoay trở vì vướng địa
hình. Điển hình là trong thành phố khi bộ binh đối phương ở trên nhà cao tầng
khiến pháo chính không nâng bắn lên cao được (góc nâng nhỏ -15 đến 30 độ). Xe
tăng bị quân địch ẩn nấp dễ dàng tiếp cận tiêu diệt bằng vũ khí nhẹ vào các điểm
yếu: nóc, hông..
·
Yếu kém trong đánh gần: vì tầm quan sát yếu và vũ khí xe tăng
không hiệu quả khi bị bộ binh địch áp sát nhất là ngày nay khi bộ binh được
trang bị các vũ khí chống tăng cá nhân rất hiệu quả là súng
phóng lựu chống tăng hay các loại tên lửa chống tăng dẫn đường. Điển hình
như RPG-7, RPG-29, 9M133
Kornet, FGM-148
Javelin..
Chiến
thuật sử dụng xe tăng
Vì các điểm mạnh yếu nêu trên cho nên cần phải sử dụng xe tăng
hợp lý theo đúng chiến thuật:
·
Dùng lực lượng xe tăng tập trung theo các nhiệm vụ tác chiến độc
lập và đúng chức năng là lực lượng tấn công cơ động thọc sâu, hạn chế dùng đơn
lẻ phân tán làm các nhiệm vụ phụ trợ cho bộ binh.
·
Xe tăng tấn công trong đội hình có bộ binh hoặc bộ binh cơ giới đi kèm để khắc phục tầm
quan sát kém và có bảo vệ từ trên không.
·
Không nên sử dụng xe tăng trong việc đánh các mục tiêu trong
thành phố, rừng núi, sẽ dễ dàng bị bộ binh địch áp sát và tấn công (Quân đội Nga phải
chịu tổn thất lớn về thiết giáp khi sử dụng xe tăng trong Chiến tranh Chesnia lần thứ nhất, 1994–1996),
tránh dùng xe tăng đánh các tuyến phòng thủ kiên cố của địch vì xe tăng không
phát huy được tính cơ động của mình vì các hệ thống vật cản và mìn chống tăng địch
giăng sẵn và là nơi tập trung các lực lượng chống tăng của địch.
·
Tốt nhất chỉ nên sử dụng xe tăng vào chức năng thọc sâu và chống
tăng: Theo kinh nghiệm của chiến tranh hiện đại nhất là trong thế chiến thứ hai thì
nhiệm vụ đánh chọc thủng các vỏ cứng của tuyến phòng thủ kiên cố của đối phương
nên được thực hiện bởi bộ binh với mật độ tập trung cao của pháo
binh và với sự giúp đỡ của không quân. Sau khi đã chọc thủng được
tuyến phòng thủ, đã mở ra khoảng không gian chiến thuật thì lúc đó mới giao nhiệm
vụ phát triển tấn công đánh cơ động thọc sâu cho các lực lượng xe tăng thiết
giáp có sự yểm trợ từ trên không của không quân và có bộ binh cơ giới đi kèm.
Lịch
sử phát triển của xe tăng
Ra đời
trong thế chiến I
Chiến tranh thế giới thứ nhất là một cuộc chiến tranh trận địa
điển hình hay còn gọi là chiến tranh chiến hào là loại chiến tranh mà "dễ
phòng thủ, khó tấn công".
Quân đội hai bên cố thủ trong hệ thống chiến hào nhiều tầng lớp,
dày đặc dây thép gai và bãi mìn. Lúc đó chưa có phương tiện hiệu quả để tiến
công sắc bén. Để đánh chiếm một đoạn tuyến phòng thủ của đối phương quân tấn
công phải chịu thương vong rất lớn và cũng không thể phát triển tấn công nhanh
chóng và hiệu quả. Ngược lại quân phòng ngự có thể nhanh chóng tái lập phòng
tuyến mới phía sau chiến tuyến của mình. Chiến tranh có hình thức giằng co hai
bên ép dần chiến tuyến của nhau, chiến tuyến thay đổi chậm chạp, ổn định. Đánh
nhau rất ác liệt thương vong lớn nhưng ít có các trận đánh quyết định thắng bại
dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của xã hội
các nước đối kháng đối với gánh nặng của chiến tranh...
Năm 1916 người Anh nghĩ ra loại xe tấn công đầu tiên mà để giữ
bí mật khi sản xuất và vận chuyển vũ khí mới họ gọi là "tank" (cái
thùng sắt) đó là các mẫu xe tăng Mark I, Mark II, Mark III, Mark IV mỗi
loại xe được sản xuất theo 2 phương án: "xe đực" có pháo (nòng pháo
nhô ra nên gọi là "đực"), và "xe cái" không có pháo chỉ có
lỗ châu mai để bắn súng máy nên gọi là "cái". Xe tăng đầu tiên
lấy động cơ từ
các động cơ ô tô đương
thời nhưng chuyển động bằng xích cho phép xe đi được trên các địa hình phức tạp
nhưng chậm hơn người đi bộ, vỏ thép thì dùng đinh tán. Các mẫu xe đầu tiên có
hình dạng kết cấu rất khác xa so với xe tăng bây giờ: Xe đực Mark I đến mark IV
chưa có tháp pháo, pháo lắp 2 bên sườn xe với khung xích hình quả trám rất cao
để bò qua các vật cản cao. Điều thú vị là tuy xe tăng là vũ khí lục quân nhưng
việc nghiên cứu phát triển xe tăng đầu tiên lại do Bộ Hải quân Hoàng gia Anh
tiến hành với sự chỉ đạo của Bộ trưởng Winston
Churchill. Lần đầu tiên người Anh đem xe tăng ra chiến trường là tại
trận sông Somme tại miền Bắc nước Pháp ngày 15
tháng 9 năm 1916. Do xe
tăng đầu tiên còn quá thiếu độ tin cậy nên trong số 49 xe để chiến đấu 17 chiếc
trục trặc không xuất phát, trong số còn lại 5 chiếc bị sa xuống bùn, 9 chiếc
trục trặc kỹ thuật trước khi tấn công, tổng cộng chỉ còn 18 chiếc thực sự tấn
công và đã thành công lớn gây hoảng loạn cho quân Đức phòng thủ, cuộc tấn công
trong ngày tiến lên chiếm được 5 km chiều sâu chiến tuyến với số thương
vong cho binh sĩ thấp hơn mức trung bình là 20 lần. Tuy Trận sông Somme năm 1916 vì nhiều lý do khác nhau
cũng lại có kết cục không dứt khoát nhưng xe tăng đã trở thành vũ khí tiến công
rất có triển vọng. Ngay sau đó người Pháp cũng chế tạo xe tăng và năm 1917 họ
đã sản xuất ra xe tăng hạng nhẹ Renault
FT-17 đây là xe tăng đã cực kỳ hoàn chỉnh đến mức nó còn được
quân đội Pháp và Ba Lan dùng
cho đến đầu thế chiến 2. Xe Renault FT17 đã có bố trí cấu tạo về cơ bản rất
giống với xe tăng ngày nay với tháp pháo có thể quay nhanh và nâng hạ góc bắn,
xe có tốc độ cao, tính cơ động tốt, khả năng việt dã tốt với các thông số như
sau: Hoả lực súng máy Hotchkiss hoặc pháo 37 mm. Động cơ xăng Renault tốc
độ 6–7 km/giờ leo dốc đến 35 độ, vượt hào rộng 1,8 m. Vỏ thép
6–22 mm. Kích thước xe: dài × rộng × cao: 5 × 1,74 × 2,14 m.
Trước và
trong thế chiến II
Trước và đặc biệt trong thế chiến II xe
tăng có những bước phát triển rất nhanh, mạnh trong cả kỹ thuật chế tạo xe và
chiến thuật sử dụng chúng. Trước chiến tranh các cường quốc thế giới đã nhận
thức được vai trò của xe tăng trong chiến tranh và ra sức xây dựng một lực lượng
xe tăng mạnh.
Về kỹ thuật: Trong thời gian này nhà kỹ thuật
người Mỹ George Christie đã
ứng dụng hệ thống treo cho
xe tăng đã nâng cao độ tin cậy tác chiến của xe tăng: tháp pháo nhờ hệ thống
này vẫn giữ nguyên vị trí khi xe chuyển động cho phép xe tăng có thể ngắm bắn
khi đang chuyển động. Các loại xe tăng của Liên Xô ngay trước đại chiến II lần
đầu tiên trên thế giới được lắp động cơ Diesel. Các xe tăng được trang bị
liên lạc radio, hỏa
lực được nâng cao (cỡ nòng từ 30–40 mm của thế chiến Inâng
lên 70–80 mm đầu thế chiến II và
cuối thế chiến II có loại mang pháo 122 mm). Vỏ thép được gia cường rất
nhiều để chống lại các loại vũ khí chống tăng của
đối thủ. Các loại xe tăng tốt nhất của thời kỳ này là của hai cường quốc lục
quân Liên Xô và Đức Quốc xã, kết quả của các đối chọi của quân đội hai
nước này trên chiến trường.
Nhưng trong thời kỳ này có sự đánh giá rất khác nhau (ở các nước
và trong một nước) trong quan niệm về vai trò của xe tăng trong chiến tranh dẫn
đến sự phát triển xe tăng theo các hướng và phát sinh nhiều hạng xe tăng khác
nhau cho các mục đích sử dụng khác nhau mà sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã
loại bỏ tất cả các loại xe không thích hợp, chỉ còn một vài loại được khẳng
định qua chiến tranh. Do coi trọng chức năng trợ chiến cho bộ binh, một số loại
xe của Pháp và Liên Xô được
chế tạo với vỏ thép rất nặng, hỏa lực rất mạnh, cơ động rất kém, thậm chí có
vài tháp pháo cho nhiều loại pháo đây là loại xe thực sự là "ụ pháo biết
đi" để yểm trợ hỏa lực cho bộ binh và chống xe tăng địch. Ví dụ, xe
tăng T-35 của Liên Xô (năm
1933-1939 Liên Xô sản xuất 61 chiếc) có số lượng rất ít ỏi, là một thử nghiệm
của xe bọc thép hỗ trợ bộ binh với 5 tháp pháo rất nặng nề; loại xe tăng nặng
đến 70 tấn Char 2C của
Pháp. Các loại xe này trong thực tế chiến đấu là vô dụng và nhanh chóng chết
yểu.
Thời gian này có sự chạy đua giữa hỏa lực và vỏ thép trong chế
tạo xe tăng. Các cường quốc chạy đua tăng cỡ hỏa lực và đương nhiên tăng độ dày
của vỏ thép sự chạy đua của các tính năng mâu thuẫn lẫn nhau này làm cho xuất
hiện rất nhiều hạng xe tăng:
·
Xe tăng hạng nhẹ: (xe nhẹ – vỏ thép yếu, thường
dưới 40mm, cơ động tốt nhưng hỏa lực pháo dưới 50mm,) dùng chủ yếu để trinh sát
rất điển hình là xe tăng BТ-7 của Liên Xô. Trong chiến
tranh loại xe này tỏ rõ tính không hiệu quả. Lợi thế của chúng là tốc độ và độ
cơ động cao.
Xe tăng hạng nặng IS-2
Model 1944 của Liên Xô. Đây là loại xe tăng có hỏa lực mạnh nhất trong thế chiến
thứ 2 với pháo 122mm nòng dài
Tăng "Con báo"
Panther Pzkpfw. V Ausf. A. Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
hai. Đây là loại xe tăng được coi là hiệu quả nhất
của quân Đức
·
Xe tăng hạng trung (theo
tiếng Anh "Medium tank"): là kết hợp hợp lý của vỏ thép
40–70 mm, hỏa lực pháo 70–90 mm, tính cơ động tốt) đây là hạng xe
tăng tối ưu được thực tế chiến tranh khẳng định mà các mẫu xe tốt nhất là của Đức
và Liên Xô, điển hình là loại xe tăng Panzer
IV của Đức và T-34 của
Liên Xô, trong đó có chủng T-34-85. Một
thành công trong thiết kế của loại T-34 là vỏ thép không thật dày nhưng bố trí
hình dạng vát nghiêng đã tăng hiệu quả chống đạn lên rất nhiều, kinh nghiệm này
sẽ có mặt trong các thiết kế xe tăng sau này. Sau chiến tranh, xe hạng trung sẽ
xóa nhòa các hạng khác và phát triển thành xe tăng chiến đấu chủ lực (tiếng
Nga: Основной боевой танк, viết tắt ОБТ; tiếng
Anh: main battle tank, viết tắt MBT).
·
Xe tăng hạng nặng (tiếng Anh còn gọi
là heavy tank): vỏ thép rất nặng, dày từ 80 đến trên 100 mm, hỏa
lực mạnh đến 85–122 mm, chi phí đắt đỏ. Loại xe này trong thực tế thích hợp
để chống tăng và diệt lô cốt (giống chức năng của pháo tự hành) hơn là tấn công đột phá nhanh do xe chậm
chạp nặng nề, tầm hoạt động ngắn và bộ phận truyền động dễ bị hư hỏng. Ví dụ
tiêu biểu là các loại Tiger (con cọp) và King Tiger (cọp
vua) của Đức và xe tăng Iosif Stalin (ИС-2, ИС-3) của Liên Xô.
Về chiến thuật: Đây là thời kỳ của những
tư tưởng táo bạo của chiến thuật sử dụng xe tăng mà các tướng lĩnh Đức
Quốc xã đã đi đầu và tạo nên cuộc cách mạng trong nghệ thuật chiến tranh. Các
chiến thắng vũ bão của quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường trên bộ đánh tan
nhanh chóng quân đội các cường quốc địch thủ tại châu Âu trong chiến lược chiến
tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg) là nhờ các sáng tạo chiến thuật chứ không
phải là nhờ chất lượng hơn hẳn của xe tăng Đức. Tuy trước chiến tranh tại nhiều
nước đã có các trường phái lý luận quân sự đặt nền móng cho chiến thuật chiến
tranh cơ động như Hobart tại Anh, Guderian tại
Đức, Chaffee tại
Hoa Kỳ, De Gaulle tại Pháp, và Tukhachevsky tại
Liên Xô, các nhà tư tưởng quân sự này đã cùng đi đến một kết luận như nhau về
kịch bản của chiến tranh hiện đại, nhưng chỉ dừng lại ở ý tưởng lý thuyết. Chỉ
có tại Đức các lý luận này được cấp lãnh đạo cao nhất của quốc gia là Adolf
Hitler thực sự tin tưởng và ủng hộ và với quyết tâm cao đưa vào
thực tế xây dựng quân đội. Quân đội Đức thay vì sử dụng xe tăng một cách xé lẻ
biên chế vào các đơn vị bộ binh như các phương tiện hỗ trợ chiến đấu như ở các
nước khác, đã tập trung lại thành các sư đoàn, tập đoàn quân xe tăng xung kích, phát
triển một loại bộ binh mới là bộ binh cơ giới có chức năng đi kèm xe tăng cho
các hành động chiến đấu cơ động tấn công, Phát triển các ngón đòn liên hoàn cho
chiến thuật kết hợp mũi nhọn xe tăng cùng không quân. Tất cả đều lấy xe tăng
làm vai trò trung tâm của chiến thuật tấn công theo sơ đồ các mũi nhọn thiết
giáp thọc sâu, chia cắt, hợp vây và tiêu diệt các khối lớn các đạo quân phòng
thủ của địch. Sau này chiến thuật tương tự được phía Liên Xô phát triển được
gọi là chiến thuật chiến
dịch tiến công chiều sâu. Các chiến thuật tiến công này đã đưa chức
năng tấn công thọc sâu cơ động của xe tăng lên làm chức năng số một gây nên sự
thay đổi lớn trong hình thức tác chiến của chiến tranh thế giới lần thứ hai và
trong quan điểm chế tạo xe tăng trong các giai đoạn kế tiếp sau này.
Thời
chiến tranh lạnh và hiện đại
Sau đại chiến II có thể phân ra 3 giai đoạn phát triển xe tăng:
Xe tăng T-54 tại Việt Nam. T-54 và T-55 là xe
tăng được sử dụng rộng rãi và là loại tăng được sản xuất nhiều nhất cho đến hiện
nay.
·
Giai đoạn thứ nhất là ngay sau chiến tranh và trong thập niên 1950: việc thiết kế, sản xuất xe
tăng trong giai đoạn này vẫn theo các tiêu chuẩn của chiến tranh thông thường,
theo xu hướng tăng cỡ nòng hoả lực và tăng vỏ thép. Sau chiến tranh loại xe
tăng hạng nặng không còn chỗ đứng và tuyệt chủng, xe tăng hạng nhẹ vẫn còn vai
trò hạn chế trong trinh sát vì nó nhẹ thuận tiện cho vận chuyển đổ bộ đường
không nhưng rồi cũng hết vai trò và nhanh chóng tuyệt chủng. Các loại xe tăng hạng
trung được nâng cao tính năng và biến đổi thành xe tăng chiến đấu cơ bản. Cơ cấu
pháo về cơ bản ít thay đổi nhưng có thay đổi nhiều về đạn dược, hệ thống máy
móc động cơ có nhiều hoàn thiện lên: động cơ Diesel thay thế hoàn toàn động cơ xăng tuy vẫn nhỏ gọn nhưng công suất mạnh
hơn rất nhiều, hệ thống treo được hoàn thiện... Các xe tăng tiêu biểu của giai
đoạn này là T-54, T-55, T-62 của
Liên Xô, M-46, M-48 của Mỹ, AMX của Pháp.
Ở thời kỳ này để đáp ứng nhu cầu chở bộ binh cơ giới tấn công cùng xe tăng các cường quốc quân sự thế giới phát triển một loại xe đặc biệt là xe bọc thép cũng có thể được phân loại như xe tăng: xe bọc thép cũng chạy bằng xích, có tính năng cơ động rất tốt nhưng hỏa lực và vỏ thép yếu, có thể có hoặc không có tháp pháo. Vũ khí có thể là loại pháo cỡ nhỏ (dưới 40 mm) nhưng chủ yếu là súng máy, các xe bọc thép hiện đại thường có trang bị thêm tên lửa chống tăng. Vỏ thép yếu thường chỉ chống được đạn súng máy không chống được trái phá, có loại có vỏ rất nhẹ bằng hợp kim nhôm như loại xe bọc thép lội nước M-113 của Hoa Kỳ và BTR-60, tăng PT-76 của Ba Lan viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng rất nhiều trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng đặc trưng cơ bản phải có của xe bọc thép là có khoang rộng để chở bộ binh cơ giới, thường một xe cho một tiểu đội trên dưới 10 người. Thông thường trong tấn công hành tiến bộ binh cơ giới ngồi trong xe bọc thép trong đội hình đi kèm xe tăng, khi gặp tuyến cố thủ của bộ binh địch thì bộ binh cơ giới triển khai ra bên ngoài chạy cùng xe tăng tấn công để khắc phục nhược điểm tầm quan sát kém và khả năng đánh gần kém của xe tăng. Và khoang xe bọc thép còn có thể được sử dụng để bố trí các loại hỏa lực phụ trợ đi kèm rất lợi hại của bộ binh như súng cối, súng phun lửa, hoặc súng máy phòng không...
Ở thời kỳ này để đáp ứng nhu cầu chở bộ binh cơ giới tấn công cùng xe tăng các cường quốc quân sự thế giới phát triển một loại xe đặc biệt là xe bọc thép cũng có thể được phân loại như xe tăng: xe bọc thép cũng chạy bằng xích, có tính năng cơ động rất tốt nhưng hỏa lực và vỏ thép yếu, có thể có hoặc không có tháp pháo. Vũ khí có thể là loại pháo cỡ nhỏ (dưới 40 mm) nhưng chủ yếu là súng máy, các xe bọc thép hiện đại thường có trang bị thêm tên lửa chống tăng. Vỏ thép yếu thường chỉ chống được đạn súng máy không chống được trái phá, có loại có vỏ rất nhẹ bằng hợp kim nhôm như loại xe bọc thép lội nước M-113 của Hoa Kỳ và BTR-60, tăng PT-76 của Ba Lan viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng rất nhiều trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng đặc trưng cơ bản phải có của xe bọc thép là có khoang rộng để chở bộ binh cơ giới, thường một xe cho một tiểu đội trên dưới 10 người. Thông thường trong tấn công hành tiến bộ binh cơ giới ngồi trong xe bọc thép trong đội hình đi kèm xe tăng, khi gặp tuyến cố thủ của bộ binh địch thì bộ binh cơ giới triển khai ra bên ngoài chạy cùng xe tăng tấn công để khắc phục nhược điểm tầm quan sát kém và khả năng đánh gần kém của xe tăng. Và khoang xe bọc thép còn có thể được sử dụng để bố trí các loại hỏa lực phụ trợ đi kèm rất lợi hại của bộ binh như súng cối, súng phun lửa, hoặc súng máy phòng không...
Leopard 2A6 của Đức là
loại xe tăng có khả năng tham gia trong một cuộc chiến tranh hóa học
·
Giai đoạn thứ hai là những năm 1960–1970: Xe tăng chủ lực xuất hiện. Đây là giai đoạn
mà xe tăng tuy về kết cấu cơ bản không thay đổi nhiều nhưng tính năng được hoàn
thiện cao chủ yếu nhờ vào công nghệ mới: độ bảo vệ của xe không phải do tăng độ
dày của vỏ thép mà nhờ áp dụng các vật liệu mới siêu nhẹ, siêu bền vì với sự
phát triển của đầu đạn lõm xuyên
thép thì chạy đua bằng cách tăng mãi độ dày của vỏ thép trở nên vô nghĩa, do đó
vỏ thép, trọng lượng không tăng lên mấy nhưng có thể chống lại mọi loại trái
phá chống tăng thời đại chiến. Tính cơ động của xe tốt lên rất nhiều, xe có tốc
độ rất lớn nên được gọi là xe tăng bay (xe Leopard –
con báo của Đức). Đặc biệt xe tăng thời kỳ này được thiết kế để chiến đấu trong
điều kiện chiến tranh có vũ khí huỷ diệt hàng loạt: vỏ xe
bảo vệ được kíp chiến đấu khỏi bức xạ hạt nhân và xe được bảo đảm kín hoàn toàn
với hệ thống tuần hoàn và lọc khí để bảo vệ khỏi bụi phóng xạ, vũ khí hoá học, vũ khí vi trùng. Thời kỳ này các loại vũ khí chống tăng phát
triển mạnh nên xe tăng cũng phải thích nghi và chạy đua theo, xe tăng được
trang bị các loại thiết bị điện tử và công nghệ cao: Về hoả lực độ chính xác rất
cao nhờ máy tính đường đạn, máy đo xa bằng laze, máy nạp
đạn tự động giúp tăng tốc độ bắn nhanh và giảm được 1 pháo thủ nạp đạn. Để chống
lại các loại đầu đạn xuyên phá và tên lửa chống tăng của đối phương và các vũ
khí dẫn đường chính xác, các xe tăng thời kỳ này (bắt đầu bằng loại xe T-55 của
Liên Xô) đã trang bị hệ thống bảo vệ tích cực là
các ống phóng lựu kết hợp cùng radar bảo
vệ cục bộ chuyên dụng: Khi radar phát hiện có mục tiêu đang nhắm đến xe sẽ điều
khiển hệ thống phóng lựu bắn lên các đầu đạn nổ mảnh tạo nên 1 đám mây mảnh kim
loại khả dĩ phá huỷ vũ khí của đối phương hoặc làm nhiễu loạn độ chính xác của
vũ khí địch, hệ thống này cũng dùng để bắn tạo màn khói ngăn cản các thiết bị
ngắm bắn của đối phương, hệ thống bảo vệ tích cực này làm tăng sức sống của xe
lên nhiều lần. Các xe tăng nổi tiếng và tiêu biểu của thời kỳ này là T-72 của
Liên Xô, M-60 của
Hoa Kỳ, Centurion của Anh, Leopard 1 của Đức.
T-72 với gói nâng cấp hệ
thống bảo vệ mới trong triển lãm Russia Arms Expo 2013
·
Giai đoạn thứ 3 là thời kỳ những năm 1980 và tiếp diễn đến 2015:
là giai đoạn mà các tính năng "cổ điển" của xe (như tính cơ động, hoả
lực, vỏ thép) đã không còn là các yếu tố duy nhất để đánh giá sức mạnh, mà các
tính năng công nghệ cao giờ đây có vai trò rất quan trọng: như mức độ hiệu quả
trong đấu tranh điện tử, độ bí mật về tiếng ồn và hồng ngoại (tia nhiệt), trong thời kỳ này xuất
hiện xe tăng có động cơ tuốc bin khí (của Liên Xô – Nga và của
Hoa Kỳ) làm xe có công suất máy cực mạnh, động cơ xe tăng thời kỳ này đều là đa
nhiên liệu. Hệ thống bảo vệ của xe được cải tiến nhiều nhất và được coi là ưu
tiên hàng đầu: trong thiết kế xe tăng hệ thống bảo vệ thụ động (vỏ
xe) cũng vẫn được quan tâm hoàn thiện có loại xe được nhồi bằng vật liệu mật độ
lớn như uranium nghèo của Mỹ để
tăng độ chống xuyên phá của đầu đạn lõm của vũ khí chống tăng, một hướng khác lại
dùng những vật liệu chất dẻo đặc biệt có cốt sợi đặc biệt siêu nhẹ, siêu bền để
chế tạo xe tăng siêu nhẹ dùng cho đổ bộ đường không cho
các lực lượng phản ứng nhanh. Hệ thống bảo vệ tích cực ra
đời và được trang bị trên các xe tăng của Liên Xô - Nga, xe được sơn phủ bằng
các lớp sơn và vật liêu hấp thụ sóng điện từ và chống hồng ngoại giúp xe khó bị
máy bay và trực thăng địch phát hiện, hệ thống gây nhiễu dẫn đường vũ khí. Xuất
hiện hệ thống
bảo vệ bằng phản lực hay giáp phản ứng nổ. Hình
bên cạnh là xe tăng T-72 cải tiến của Nga trên bề mặt có thể thấy các mảnh thuốc
nổ đi-na-mit hình
chữ nhật được dán trên vỏ xe. Nguyên tắc của hệ thống này là: Khi trái phá (nhất
là tên lửa chống tăng) của địch bắn vào vỏ xe trước tiên nó gặp lớp thuốc nổ
Dinamit và kích nổ lớp thuốc nổ này trước khi đầu đạn trái phá hoặc tên lửa tự
nổ. Sức nổ của dinamit sẽ tạo phản lực đẩy vào đầu đạn theo chiều ngược lại và
hoặc là sẽ phá huỷ đầu đạn hoặc cân bằng với xung lực của đầu đạn làm giảm sức
xuyên phá của nó, chí ít thì cũng hạn chế, triệt tiêu hiệu ứng đầu đạn lõm hệ
thống bảo vệ này rất hiệu quả theo thử nghiệm trên thao trường nó làm giảm xác
suất bị huỷ diệt xuống 2 lần. Về hoả lực các loại đạn trên xe rất phong phú
tinh xảo, các xe T-80, T-90 của Nga và Merkava của
Israel có hệ thống pháo – tên lửa tích hợp (có thể phóng tên lửa qua nòng
pháo). Các xe tăng tiêu biểu thời kỳ này là T-72 cải
tiến, T-80, T-90 của Nga, Abrams M1A1, M1A2 của Hoa Kỳ, Leopard
2 của Đức.
·
Giai đoạn thứ 4, bắt đầu từ năm 2015: là giai đoạn mà xe tăng trở
nên tự động hóa ngày càng cao, mở đầu là xe tăng T-14
Armata của Nga có tháp pháo hoàn toàn tự động. Trong tương lai, dự
đoán rằng mức tự động hóa sẽ tiếp tục tăng lên, biến xe tăng trở thành cỗ máy
chiến đấu không người lái. Xe tăng tương lai còn có thể điều khiển máy bay không người lái để tự trinh sát mục tiêu,
và trang bị các loại tên lửa tầm xa có thể tấn công mục tiêu từ tầm xa hàng chục
km theo sự chỉ dẫn của máy bay không người lái.
Theo thời gian cũng như sự phát triển của lý thuyết quân sự, của
khoa học và công nghệ, sự hiện hóa của vũ khí và các phương tiện chiến tranh,
sự phân loại xe tăng từng thời kỳ cũng có những biến đổi:
Trước năm
1920
Có bốn loại xe tăng, được phân loại theo trọng lượng:
·
Xe tăng siêu nhẹ: Trọng lượng toàn bộ từ 2 đến 3 tấn
·
Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng từ 3 đến 10 tấn
·
Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 10 tấn đến 20 tấn
·
Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 30 tấn
Trước năm
1960
Có ba loại xe tăng, được phân loại theo trọng lượng:
·
Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng dưới 20 tấn
·
Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 20 tấn đến 40 tấn
·
Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 40 tấn
Có ba loại xe tăng, được phân loại theo trọng lượng và kích cỡ
của pháo tăng:
·
Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng dưới 25 tấn, pháo tăng có cỡ nòng
đến 85 mm
·
Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 25 tấn đến 50 tấn, pháo tăng
có cỡ nòng đến 105 mm
·
Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 50 tấn, pháo tăng có cỡ nòng
lớn hơn 105 mm
Từ năm
1960
Xe tăng được phân loại không chỉ theo trọng lựong, kích cỡ pháo
tăng mà còn được phân loại theo công dụng, tính năng. Theo cách phân loại này,
xe tăng có các chủng loại sau:
·
Xe tăng chủ lực: Kết hợp
các tính năng của xe tăng hạng nặng và xe tăng hạng trung, được trang bị nhiều
loại vũ khí khác nhau phục vụ cho nhiều mục đích chiến đấu khác nhau, có thể sử
dụng trong nhiều môi trường tác chiến khác nhau, kể cả tác chiến mặt đất, tác
chiến phòng không và đổ bộ đường biển.
·
Xe tăng đặc chủng: Còn gọi
là xe tăng chuyên biệt. Loại xe này có những thiết bị đặc biệt chuyên dùng để
thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn riêng như diệt tăng, trinh sát, phun lửa,
phá công sự kiên cố, rà phá mìn, bắc cầu, đổ bộ từ tàu biển, đổ bộ từ trên
không...
Từ năm 1960, xe tăng hiện đại trang bị nhiều loại vũ khí như
pháo, tên lửa chống tăng, tên lửa phòng không tầm ngắn và trung bình.
Hiện nay. ở những nước có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại,
phần lớn các loại xe tăng hạng nhẹ trước đây không được mở rộng sản xuất. Họ
chuyển sang chế tạo xe thiết giáp chiến đấu của bộ binh dùng bánh xích có tính
năng giống với xe tăng hạng nhẹ nhưng đa năng hơn, (BMP, BMD, M2 Bradley); xe
thiết giáp trinh sát (BRDM), hay xe chiến đấu hỗ trợ tăng dựa
trên khung thân xe tăng, có thể chiến đấu độc lập hoặc phối hợp với xe tăng
trong thực hiện nhiệm vụ đột kích tốc độ cao của lục quân hiện đại.
Các
xu hướng phát triển trong chiến tranh hiện đại
Máy bay cường kích A-10 Thunderbolt II của Không lực Hoa Kỳ, máy bay cường
kích được coi là sát thủ diệt tăng trong chiến tranh hiện đại
Trực thăng AH-64D bắn đạn thật
Trong thời đại ngày nay nhất là sau khi nguy cơ chiến tranh thế
giới tổng lực không còn và với sự lên ngôi vai trò của không
quân thì tương lai sử dụng xe tăng vẫn chưa rõ ràng:
·
Một mặt với sự xuất hiện ngày càng nhiều và tích cực của máy bay cường kích và trực thăng thì xe tăng mất độc quyền trong việc
tiến công cơ động: tốc độ cơ động và các khả năng cơ động với mọi địa hình,
tính bất ngờ của máy bay trực thăng mang quân đổ bộ thì xe tăng không thể so
sánh được. Ngày nay xe tăng khi tiến công rất dễ trở thành mồi săn cho các loại
máy bay và trực thăng: để chống lại các mũi tiến công của xe tăng bên phòng thủ
không cần phải duy trì một lực lượng thiết giáp mạnh để phản công mà hiệu quả
hơn là dùng các đội trực thăng vũ trang chống tăng hoặc các loại máy bay yểm trợ mặt đất mà máy bay A-10 chống tăng của
Hoa Kỳ là điển hình của tính hiệu quả. Máy bay và trực thăng chống tăng có thể
bao phủ một khoảng rất rộng chiến trường hiệu quả diệt tăng rất cao do đó chỉ cần
duy trì một lượng máy bay tương đối nhỏ là có thể thay thế cho một lực lượng xe
tăng rất lớn trong phòng thủ, và bộ binh ngày nay cũng được trang bị các loại
vũ khí chống tăng hữu hiệu nên bộ binh không còn quá yếu thế trước các lực lượng
xe tăng đối phương. Do đó vai trò chủ lực của xe tăng như trong thế chiến thứ
hai đã không còn và vai trò của xe tăng sẽ ngày càng suy giảm trong chiến tranh
hiện đại. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất và thứ hai lực lượng xe tăng với số lượng khá
hùng hậu của Iraq được trang bị chủ yếu bằng loại xe tăng Sư tử Babylon - một
biến thể do Iraq sản xuất từ T-72, đã tỏ
ra bất lực vô vọng trước ưu thế trên không của quân đội Mỹ cùng chư hầu và thực
tế bị vô hiệu hoá nhanh chóng. Đó là khía cạnh suy giảm vai trò của xe tăng
trong chiến tranh hiện đại.
·
Mặt khác trong chiến tranh trong tương lai gần cũng có nhiều đặc
điểm làm tăng khả năng sử dụng của xe tăng: Trong điều kiện ngày nay không còn
các chiến tuyến phòng thủ chiều sâu chạy dài theo phân cách quân hai phía như
trong thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai mà việc phòng ngự được tổ chức
theo các trung tâm phòng thủ. Giữa các trung tâm đó là khoảng không gian lớn rất
tiện dụng cho các hoạt động của xe tăng. Hơn nữa các cuộc chiến tranh và xung đột
thường nổ ra giữa các nước không phải là các cường quốc vũ trang với lực lượng
không quân hùng hậu mà là các quốc gia vũ trang trung bình hoặc yếu kém về
không quân và khi đó xe tăng vẫn là một lực lượng xung kích hàng đầu. Với giá rẻ
tương đối của loại vũ khí tấn công này nếu so với không quân làm cho xe tăng vẫn
là vũ khí tấn công được ưu tiên.
Do các yếu tố trên nên một mặt lục quân của các cường quốc quân
sự thế giới không đặt ưu tiên hàng đầu cho lực lượng tiến công vào lực lượng xe
tăng thiết giáp nữa mà chọn các loại khác như bộ binh trực thăng vận. Nhưng
đồng thời các quốc gia dẫn đầu về chế tạo xe tăng vẫn tăng cường nghiên cứu và
chế tạo các loại xe tăng ngày càng hiện đại cho quân đội của mình và bán cho
các nước khác. Trong điều kiện hiện nay vẫn chưa thấy có xu hướng rời bỏ xe
tăng, ngay như quân đội Hoa Kỳ đứng đầu thế giới về các
loại máy bay chiến đấu và trực thăng vẫn duy trì lực lượng xe tăng mạnh cho lục
quân của họ.
Cấu tạo
Xe tăng hiện nay thường gồm 1 thân xe được làm thấp đến nỗi
người lái phải nằm gần như lái xe công thức 1 để giảm độ cao nhằm tránh phát
hiện và trúng đạn. Thân xe thường được bọc thép chủ yếu phía trước để đối đầu
trong các cuộc đấu tăng, tương đương 600mm đến 900mm chống động năng và hơn 1m
chống đầu đạn xuyên hóa học. Trong khi gầm xe, hai bên hông giáp mỏng hơn rất
nhiều. Thân xe đặt trên hệ thống bánh xích, với 6 hoặc 7 bánh chịu lực và đảm
bảo độ ổn định, 1 bánh truyền động từ động cơ ra xích, 1 bánh định hướng đặt
cao hơn so với mặt đất để tạo moment lớn khi vượt chướng ngại vật. Áp suất xe
xuống mặt đường thường xấp xỉ 1 kg/cm2 và nhỏ hơn áp suất của người đứng
bằng chân trần, điều đó giúp xe chạy được trên nền đất yếu. Động cơ xe tăng
thường từ 1000 hp đến 1500 hp (sức ngựa), rất khỏe để có thể đảm bảo
độ cơ động cho khối lượng xe từ 40 tấn đến 70 tấn, và tốc độ tối đa như M1 của
Hoa Kỳ lên đến 70 km/h (bị giới hạn bởi máy điều tốc).
Hai bên thân xe, phía ngoài xích thường có gắn các tấm giáp thép
hoặc lưới thép chủ yếu để kích nổ các đầu đạn từ ngoài giáp chính hoặc cũng có
thể chỉ là tấm cao su. Đối với yêu cầu tác chiến thành phố, các tấm giáp hai
bên thường được đặc chế để chống lại đầu đạn CE dùng sức xuyên hóa học.
Trên thân xe đặt tháp pháo, nhằm nâng và xoay một khẩu pháo
chính thường là nòng trơn (không có rãnh, trừ Challenger II của Anh) cỡ nòng
chung khối Nato (Mĩ, Tây Âu) là 120mm và phương Đông là 125mm (Nga, Trung
Quốc). Góc xoay quanh không bị hạn chế, góc nâng hạ nòng súng từ -10 đến 20 độ
(phương Tây). Trên tháp pháo có gắn rất nhiều thiết bị điện tử như kính hồng
ngoại, các đơn vị thu thập tín hiệu, lọc khí,.. và chứa toàn bộ thành viên tổ
điều khiển trừ lái xe.
Đối với các xe tăng phương Tây, tháp pháo cũng chỉ được bọc giáp
chủ yếu ở phía trước như một tấm khiên, độ bảo vệ tương đương phía trước thân
xe, còn bên hông rất mỏng và thậm chí nóc tháp pháo chỉ tương đương 20mm thép.
Một tổ điều khiển thường có ba người (Nga, Trung Quốc, Pháp) với
một tổ trưởng, lái xe và pháo thủ, với pháo được nạp đạn tự động bằng máy.
Trong khi đó các nước Mĩ, Anh, Đức, Nhật, Israel... sử dụng tổ lái 4 người với
thêm một người nạp đạn, họ cho rằng một người nạp đạn được huấn luyện tốt sẽ
nhanh hơn máy và giúp bố trí đạn thuận tiện hơn. Tuy nhiên kết cấu 4 người khiến
kích thước xe lớn hơn, nặng nề hơn, cần nhiều giáp hơn, và trong các xu hướng
phát triển thì việc nạp đạn thủ công đều bị thay bởi máy vì các loại đạn tương
lai ngày càng nặng và lớn (dài tổng cộng 2m/viên và nặng hàng chục kg) thì
người nạp đạn không thể mang vác nhanh được. Khoang đạn thường được bố trí sau
tháp pháo, khiến cho tháp pháo trở nên to nặng, rất dễ trúng đạn, làm cho kích
thước tổng thể của xe to nặng hơn, việc chế tạo sẽ trở nên tốn kém hơn.
Xe tăng Nga không mang/mất hết ERA. Vì thiết kế ban đầu của xe
tăng Nga chỉ ó kíp lái 3 người, hệ thống nạp đạn tự động, khoang đạn được đưa
xuống gầm xe, nơi được bảo vệ tốt nhất, do đó thể tích trong xe nhỏ đi, có thể
làm giáp dày lên ngay cả bên hông xe. Do đó xe tăng Nga khá nhẹ, ngay cả khi đã
mang ERA. Yêu cầu đối với tất cả các xe tăng trong quân đội Nga hiện nay phải
được lắp ERA đầy đủ.
Vai trò
Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, xe tăng vẫn có chỗ đứng quan
trọng nhất trong các binh chủng đột kích của lục quân. Khác với chiến tranh thế giới thứ hai và
các cuộc chiến tranh 1956, 1967 và 1973 ở Trung Đông thường chuyên dùng xe tăng
để thực hiện các trận "đấu tăng" trên chiến trường, xu hướng sử dụng
xe tăng phối hợp với các loại xe thiết giáp của bộ binh (những biến thể của xe
tăng hạng nhẹ trước đây) được trang bị nhiều loại vũ khí mặt đất và phòng không
hiện đại, được tin học hoá, tự động hóa ở cấp độ cao và phối hợp với trực thăng
chiến đấu trở tổ chức quân binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, hiệu suất
đột kích lớn.
Điển hình cho việc sử dụng các đơn vị quân - binh chủng hợp
thành này là quân đội Hoa Kỳ và liên quân trong hai cuộc chiến tranh vùng vịnh
1991 và 2003. Do sự phối hợp quân binh chủng đó, vai trò của xe tăng có thể mờ
nhạt nếu nhìn về hình thức. Các hình ảnh thường thấy trên truyền thông là các
loại tên lửa nhỏ từ bộ binh, trực thăng dễ dàng tiêu diệt xe tăng, hình ảnh
cuộc chiến Iraq với sự áp đảo về không quân dẫn đến câu hỏi: phải chăng xe tăng
đã lỗi thời? Thế nhưng thực tế phát triển xe tăng từ năm 1990 đến nay đã cho
câu trả lời ngược lại. Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu các xe thiết giáp nhẹ
với hỏa lực mạnh nhằm vận chuyển bằng máy bay để sử dụng trong cuộc chiến nhỏ,
các nước vẫn liên tục nghên cứu, chế tạo các mẫu xe tăng mới. Sau M1A1, Hoa Kỳ
cho ra đời loại M1A2 tiện dụng hơn. Nga nâng cấp xe tăng T-72 lên
T-72B3 và T-90, đồng
thời đang đưa vào sản xuất loại tăng mới T-14 với nhiều thiết kế mới dựa trên
khung gầm Armata đã xuất hiện trong lễ
duyệt binh chiến thắng phát xít vào ngày 9-5-2015. Trung
Quốc phát triển xe tăng chủ lực Type-99, Nước Đức liên tục nâng cấp xe tăng chủ
lực Leopard 2, Anh vẫn tiếp tục sản xuất xe tăng chủ lực
Challenger, Pháp vẫn cho ra đời xe tăng chủ lực Leclerc; tất cả đều là xe tăng
hạng nặng. Nếu tính đến chiến tranh tổng lựcgiữa các quốc gia có tiềm lực
quân sự mạnh, trực thăng tấn công không thể đáp ứng được vai trò so với một đội
hình chiến đấu gồm xe tăng và các phương tiện phòng không đi cùng. Hơn nữa nhu
cầu về các loại chiến xa để chịu đựng hỏa lực và đối phó với xe thiết giáp nhẹ
của đối phương sẽ lại dẫn tới nhu cầu về xe tăng.
Một
số đặc điểm ưu tiên khi chế tạo xe tăng của các quốc gia
Các quốc gia đầu bảng trên thế giới trong lĩnh vực chế tạo xe
tăng là Hoa Kỳ, Liên Xô – Nga, Anh, Pháp, Đức, Israel. Mỗi quốc gia khi chế tạo
xe tăng đều có hướng ưu tiên trong cách lựa chọn các giải pháp nhiều khi mâu
thuẫn nhau. Điều đó tạo ra "trường phái" của các nước này.
Trường
phái Liên Xô-Nga
Quân đội Liên Xô cũ và Nga hiện tại đi theo hướng nghĩa vụ quân sự, chuẩn bị cho chiến tranh tổng lực với quân số đông nhưng đã
có sự xuất hiện của những binh sĩ chuyên nghiệp, theo phương châm bên trong
giới quân sự Nga là chất lượng phải song hành cùng số lượng. Dòng
tăng Liên Xô-Nga đi đầu trong nhiều đột phá công nghệ như đạn liều rời, pháo nòng trơn, giáp
bằng vật liệu tổng hợp, máy
nạp đạn tự động, tên lửa bắn qua nòng pháo. Xe tăng T-14 sử dụng khung
gầm Armatacòn có
tháp pháo không người lái điều khiển hoàn toàn bằng điện tử.
Xe tăng Xô-Nga đặc trưng với kích thước nhỏ gọn, diện tích bề
mặt giảm thiểu, nên giảm khả năng bị bắn trúng, và vỏ giáp được làm rất dầy mà
tổng khối lượng vẫn rất nhẹ (trừ BM Oplot của
Ukraina thì không có xe tăng Nga-Xô nào vượt quá 50 tấn). Ngoài vỏ giáp dầy
cứng, các phiên bản gần đây của xe tăng Xô-Nga cũng được trang bị giáp phản ứng nổ, hệ
thống gây nhiễu quang-điện tử (như Shtora), hệ thống đánh chặn
(như Drozd, ARENA và Afghanit).
Đạn dược của xe tăng T-64 trở
về sau để trong băng nạp đạn đứng (T-64, T-80) hay băng nằm (T-72, T-90), đặt ở
dưới tháp pháo, trung tâm thân xe nơi được che chắn kỹ. Phần đạn còn lại đặt
trong khoang của binh sĩ, cách đặt này bị phê phán là thiếu an toàn do kíp lái
bị ảnh hưởng bởi sức nổ của khối đạn dược (nếu chẳng may bị kích nổ) nên gần
đây phần đạn dược "thêm" này được chuyển sang đặt trong khoang sau
tháp pháo như T-90AM hay T-14 Armata.
Trừ các phiên bản đầu của T-80 dùng động cơ tuabin khí, xe tăng
Xô-Nga đều dùng động cơ diesel. T-72 dùng dòng động cơ V 4
thì sản xuất bởi nhà máy ở Nga, trong khi T-64 và T-80 dùng động cơ 2 thì nhỏ
gọn và công suất cao hơn (nhưng tốn nhiên liệu hơn), sản xuất ở nhà máy
Malyshev tại Ukraina. Sau khi Liên Xô tan rã, xe tăng Nga tiếp tục dùng động cơ
dòng V yếu hơn do mất nguồn cung từ Ukraina, nhưng Nga đã nỗ lực cải tiến để
khắc phục và đã tăng công suất động cơ dòng V lên 1.000-1.250 mã lực. Động cơ
mới dùng trong khung gầm Armata có công suất đến 1.500 mã lực.
Các xe tăng Liên Xô-Nga hiện nay đều dùng pháo nòng trơn 125mm
bắt đầu từ T-64. Loại xe mới như T-90 và
T-14 Armata đã được thử nghiệm để trang bị pháo nòng trơn 135mm và 152mm (cỡ
nòng pháo tăng lớn nhất thế giới), nhưng do sự đối đầu thời Chiến tranh Lạnh đã qua nên chưa áp dụng
rộng rãi để tiết kiệm chi phí.
T-64
T-64BM của Ukraina
T-72A
T-72M
T-72B
T-72B3
T-80
T-80BV
T-80U
T-84 của Ukraina
BM-Oplot của Ukraina
T-90A trong lễ duyệt binh 9-5
T-90 Bhisma của Ấn Độ
T-90SM của Nga
T-14 Armata
Trường
phái Âu-Mỹ
Thời điểm hiện tại, xe tăng trường phái Âu-Mỹ lấy thiết kế
của Leopard 2 của Đức (ra đời năm 1978) làm nền
tảng. Xe tăng trường phái Âu-Mỹ thường to và rất nặng (trừ Type-10 của Nhật Bản
nặng 48 tấn, còn lại hầu như nặng trên 50-60 tấn), tháp pháo hình chữ nhật to
dài do khoang đạn đặt phía sau tháp pháo. Đạn liều liền, nạp bằng tay (Leopard
2, M1 Abrams, Challenger II,...) hay nạp máy bằng băng xích. Pháo 120mm nòng
trơn nền tảng do Đức thiết kế, trừ Challenger 2 của
Anh vẫn dùng 120mm nòng xoắn. Leopard 2 của Đức sử dụng các giáp hộp rất
to và rất nghiêng, có tác dụng kích nổ đạn xuyên nổ ngoài giáp chính hay đẩy
nghiêng đạn xuyên động năng, giúp giảm đi nhiều lần sức xuyên của đạn; động cơ
cũng rất khỏe (1.500 mã lực). M1
Abrams bớt xén các giáp hộp, thay bằng giáp chính cứng tăng cường
bởi các lớp urani nghèo, thay động cơ diesel bằng động cơ tuabin khí khỏe nhưng
rất tốn nhiên liệu khi chạy ở tốc độ thấp. Xe tăng Merkava của
Israel đặt động cơ ra trước và bố trí cửa ở sau xe, xem động cơ như một lớp bảo
vệ phụ che chắn cho binh sĩ, chấp nhận việc xe dễ hỏng hơn để bảo vệ binh sĩ
trong xe tốt hơn.
No comments:
Post a Comment