Nguyễn Trãi!!!
Cách nay đúng 576 năm, trung thần Nguyễn Trãi của triều Lê đã
bị tru di tam tộc! (giết ba đời)
Ngày 19
tháng 09, 1442
·
1442 – Vụ án Lệ Chi Viên: Đại thần Nguyễn Trãi của nhà Hậu Lê và gia quyến bị tru di tam tộc do bị
khép tội âm mưu thí nghịch.
Nguyễn Trãi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Trãi
Bút danh Ức Trai
Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu
là Ức Trai (抑齋), là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời
nhà Hồ và nhà Lê sơ Việt Nam.
Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn
Trãi làm quan dưới triều Hồ, nhà Minh
xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh đầu hàng rồi bị bắt giải về Trung Quốc, Nguyễn Trãi
đi theo.
(Nguyễn Phi Khanh (chữ Hán: 阮飛卿; tên thật là Nguyễn
Ứng Long (阮應龍); năm sinh không chắc chắn. Một số nguồn cho
là khoảng năm 1355, nhưng một số nguồn khác
cho là năm 1335–1428 hay 1429) là Hàn lâm học sĩ nhà Hồ và là cha của Nguyễn Trãi - một công thần khai quốc nhà Hậu Lê.)
Đến ải Nam Quan, cha ông khuyên ông nên
quay về để trả nợ nước, báo thù nhà, ông làm theo. Sau khi nước Đại Ngu rơi
vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc.
Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn
trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân
Minh.
Tranh thờ Lê Thánh Tông ở Lam
Kinh (Thanh Hóa).
Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng
góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.
Nguồn gốc và giáo dục
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê ở làng Nhị Khê, huyện Thường
Phúc nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (cũ); con Nguyễn Phi Khanh, tiến sĩ
cuối đời Trần, cháu ngoại Trần Nguyên Đán.
(Trần Nguyên Đán (chữ Hán: 陳元旦, 1325 hay 1326? - 1390)
hiệu Băng Hồ, là tôn thất nhà Trần, dòng dõi Chiêu Minh
vương Trần Quang Khải. Làm quan tới Tư đồ dưới thời các vua Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông và Trần Phế Đế, tước Chương Túc quốc thượng hầu. Nguyên Đán là người hiền
từ, nho nhã, có phong cách của bậc quân tử thời xưa)
Phan Huy Chú nhận xét:'Ông Nguyễn Trãi tuổi trẻ
đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu
cả.'
(Phan Huy Chú (Chữ Hán: 潘輝注; 1782 – 28 tháng 5, 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai
Phong; là quan triều nhà Nguyễn, và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn, nhà bác học Việt Nam. )
Dưới thời nhà Trần, cha ông là Nguyễn Phi Khanh hay Nguyễn Ứng
Long được Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy con gái, tên là Thái, làm Thái có
thai rồi bỏ trốn. Trần Nguyên Đán cho gọi Ứng Long về gả con gái cho, sinh ra
Nguyễn Trãi. Sau đó Ứng Long thi đỗ nhưng vua Trần Nghệ Tông bỏ không dùng, cho
rằng "Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm
thượng.''
Khi nhà Hồ thay nhà Trần, Nguyễn Phi Khanh được cất nhắc sử
dụng, đổi tên là Phi Khanh (Phi Khanh sinh ra Trãi, cũng đỗ thái học sinh).
Theo nghiên cứu sử gia hiện đại Trần Huy Liệu, Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị
Thái có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo,
Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng Mẹ
ông mất sớm, anh em Nguyễn Trãi ở ông ngoại là Trần Nguyên Đán, đến năm 1390
thì Trần Nguyên Đán mất.
Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con..
Nguyễn Trãi còn ít tuổi rất ham học, điều đó được cha ông nói đến trong bài
thơ Gia viên lạc:
Cố viên loạn hậu hữu tiên
lư
Lục tuế nhi đồng phả ái
thư
Nghĩa là:
Vườn xưa sau loạn còn nhà
cũ
Sáu tuổi con thơ rất thích
sách
Sự nghiệp
Làm quan
thời nhà Hồ
Năm 1400, Hồ Quý Ly phế
truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, nhà Hồ thành
lập. Ông ngoại của Nguyễn Trãi- Trần Nguyên Đán là một tôn thất, lại là đại
thần triều Trần, không chống lại Hồ Quý Ly mà gửi gắm con cháu mình cho Hồ Quý
Ly.
Thượng hoàng Nghệ Tông thường ngự đến nhà riêng của ông để thăm
bệnh và hỏi việc sau này. Nhưng Nguyên Đán đều không nói gì, chỉ thưa:
"Xin bệ hạ kính nước Minh như
cha, yêu Chiêm
Thành như con, thì nước nhà vô sự. Tôi dầu chết cũng được bất hủ".
Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham
dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư, được
trao chức Ngự sử đài Chính chưởng.
Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm
lược nước Đại Ngu, nhà
Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem
về Trung Quốc.
Minh Thành Tổ (chữ Hán: 明成祖, 2 tháng 5, 1360 – 12 tháng 8, 1424), ban đầu gọi là Minh Thái Tông (明太宗), là vị hoàng đế thứ ba của
nhà Minh, tại vị từ
năm 1402 đến năm 1424
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhiều người kinh lộ không ủng hộ
nhà Hồ nên hầu hết đầu hàng quân Minh. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cùng một số
quan lại nhà Hồ đã đầu hàng trước đó. Sách Đại Việt sử ký toàn thư không chép
gì về Nguyễn Trãi ở thời gian này.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau cuộc Chiến tranh Minh - Đại Ngu, Đại Ngu rơi
vào ách Minh thuộc.
Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt
của quân Minh.
Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông
bất đắc dĩ phải ra hàng.
Trương Phụ
Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung
Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng
Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà.
Ngoài ra, anh em đàng ngoại của Nguyễn Trãi, cậu ruột của Nguyễn
Trãi là Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu cũng đầu hàng quân Minh, được phong
tước, cho giữ đất Diễn Châu.
Đến năm 1408, nhà Hậu Trần nổi lên đánh quân Minh, khi đến Nghệ
An đã giết Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu cùng 600 người khác.
Mười năm
phiêu dạt
Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến
khi vào yết kiến Lê Lợi ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số.
Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về
Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất
và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể .
Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển (mười
năm phiêu dạt) lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông,
áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này.
1/ Theo Phan
Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau
khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn
Trãi từ chối.
Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết
đi nhưng Thượng thư Hoàng
Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông
Quan, không cho đi đâu.. Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn
tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo
cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa.
2/ Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn
Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận
xét Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong
khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có
đi đâu không ? .
Theo ý kiến khác của Trần Huy Liệu dựa theo
các bài thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi đã sang Trung Quốc ở thời gian này, dựa
vào các địa điểm trong thơ ông viết:, dựa
trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình
Nam[a] dạ
bạc (Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam), Ngô Châu[b], Giang
Tây, Thiều Châu Văn Hiến miếu[c](Thăm
miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu), Đồ trung ký hữu (Trên đường
gửi bạn)...
Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn
Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài
ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà
Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất,
ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến
thất bại của Hồ Quý
Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài
chứ không hề bị quân Minh bắt giữ.
Tang thương ngẫu lục
·
Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác
nữa. Theo
Nguyễn Lương Bích:Những tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm
đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ
này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các
thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã
xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống
xâm lược..
Tham gia
khởi nghĩa Lam Sơn
Yết kiến ở Lỗi Giang
Các tài liệu, Lịch triều hiến chương loại chí, Ức Trai thi tập
Bài thơ Minh Lương của Lê Thánh Tông, Chế văn của vua Tương Dực Đế, Kiến văn
tiểu lục, Việt sử thông giám cương mục, Sơn Nam lịch triều đăng khoa khảo và
Lịch triều đăng khoa bi khảo chép rằng Nguyễn Trãi yết kiến Lê Lợi tại địa điểm
Lỗi Giang, nhưng không ghi năm nào..
1/ Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử, Nguyễn
Trãi gia nhập lực lượng của Lê Lợi trước thời
điểm khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ (đầu năm 1418)
2/ Theo Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam sử lược thì Nguyễn Trãi gia nhập
nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420. Việt Nam sử lược, chương XIV (Mười năm đánh
quân Tàu), đoạn số 6 viết: "Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì
có ông Nguyễn Trãi, vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm
hay,dùng ông ấy làm tham mưu". Trước đó, đoạn số 5 viết rằng " Năm
Canh Tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi...Vương lại đem
quân đóng ở Lỗi Giang"
3/ Theo Hoàng Xuân Hãn, Đặng Nghiêm Vạn,
Phan Huy Lê cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ hội thề Lũng Nhaivào năm 1416.
4/ Theo Trần Huy Liệu, Nguyễn Trãi gia nhập
nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420 hoặc
1421 hay sau đó một chút.
5/ Theo Nguyễn Diên Niên căn cứ vào Đại Việt
sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, những tư liệu được chép cùng thời thì thời kỳ
Lê Lợi hoạt động buổi đầu ở vùng Thượng du Thanh Hóa (1418-1424) chưa có sự
tham gia của Nguyễn Trãi. Các sách trên đều có đoạn rằng: Nguyên trước Nhà
vua kinh-doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải
trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê
Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê văn Linh, Lê
quốc Hưng; cùng những quân-thân như cha, con; hai trăm thiết-kỵ, hai trăm
nghĩa-sĩ, hai trăm dũng-sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên-chở lương-thảo,
cùng già yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi.. Địa điểm Lỗi
Giang mà Nguyễn Trãi ra mắt là năm 1426..
Việc ra mắt Lê Lợi, các sách sử cùng thời đại đó như Đại Việt sử ký toàn thư, Lam
Sơn thực lục không chép; thời hiện đại một số nhà nghiên cứu đã trích dẫn từ
sách Toàn việt thi lục của Lê Quý Đôn, từ phần họ gọi là Tiểu chú về
Nguyễn Trãi, trích rằng Nguyễn Trãi trao cho Lê Lợi Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra
ba kế sách đánh quân Minh, sách nay không còn. mà
chủ yếu là tâm công, đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng. Sau
khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong
cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân.
Tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn
Các sử gia Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bích đã dùng cuốn Tang
thương ngẫu lục, cuốn sách mang tính truyền kỳ trong dân gian để nghiên cứu.
Sách chép rằng Nguyễn Trãi đề xuất một kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa
quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật (hoặc
mỡ) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (黎利為君, 阮廌為臣), nghĩa
là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ
khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo
từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất
bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu
nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà
giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi
quân, bách tính vi thần (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là Lê
Lợi làm vua, trăm họ làm tôi. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp
nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, từ năm 1418
cho đến năm 1426 sách không chép gì về Nguyễn Trãi, cho đến năm 1426, khi Lê
Lợi phát binh ra Đông Quan, Nguyễn Trãi mới xuất hiện lần đầu tiên..
Tháng 9 năm 1426, Lê
Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba hướng, tấn công ra bắc và
thắng quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Bình
Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan.
Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh
Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành
khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự, đây là lần xuất hiện
đầu tiên của sách Đại Việt sử ký toàn thư về Nguyễn Trãi khi ông tham gia Khởi
nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên
bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông
vào thành Đông Quan xem
xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận
quân cơ và thảo thư từ đi lại.
Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô
(Khi ấy, có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề), cao bằng tháp
Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi
của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại
|
||
— Đại Việt
sử ký toàn thư, Bản kỷ.
|
Sách Đại Việt thông sử chép nguyên văn như sau:
Phong cho viên Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ là Nguyễn Trãi chức
“Triều liệt đại phu nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm Cơ Mật viện”.
Hoàng đế sai dựng một cái lầu mấy tầng trong dinh Bồ Đề, hằng ngày ngài ngự tại
từng lầu trên cùng, để trông vào thành bên địch, cho Nguyễn Trãi ngồi ở tầng
lầu dưới, để bàn luận cơ mưu hầu ngài, và thảo những thư từ gởi tới.
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành
Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng
như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì
khác. Kết quả đạt được rất khả quan: các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra
hàng đầu năm 1427. Bản
thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành
Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4
năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần Quân
Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành
như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô... mà thôi.
Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu
viện Vương Thông, sai Liễu
Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem
5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam.
Tranh vẽ Minh
Tuyên Tông
Với trận Chi Lăng - Xương Giang, hai
đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam
Sơn tiêu diệt hoàn toàn.
Tháng 11, năm 1427, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ
nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về.
Lê Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản. Dẫu vậy, Vương Thông vấn do
dự, chưa quyết, đem quân ra đánh, bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt sống. Ngày
22, tháng 11, năm 1427 (Đinh Mùi), Vương Thông và Lê Lợi tiến hành Hội thề Đông Quan ở cửa nam thành, hẹn đến
ngày 12, tháng 12 năm Đinh Mùi sẽ rút hết quân về nước. Lúc bấy giờ, một số
tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết
hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt.
Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử ký Bản kỉ
thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rằng:
Lê Lợi nghe theo cho quân giải vây rút ra. Khi quân Minh sắp rút
đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám
sang nữa nhưng Lê Lợi không đồng ý, quân Minh rút về nước an toàn. Năm
1428, nhà Hậu Lê hình thành.
Phong thưởng
Vua Lê Thái Tổ có 2 đợt phong thưởng chính, lần một vào tháng 2,
năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) cho những Hỏa thủ và quân nhân Thiết đột ở Lũng
Nhai, gồm 121 người. Lần 2, vào tháng 5, năm Thuận Thiên thứ 2 (1429), ban biển
ngạch công thần cho 93 viên. Đợt phong thưởng lần 2 có tên của Nguyễn Trãi.
Vào tháng 3, năm 1428, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép
rằng: Đại hội các tướng và các quan văn võ để định công, ban thưởng,
xét công cao thấp mà định thứ bậc. Lấy thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu;
tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái Bảo; đều
được ban quốc tính.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc
biển công thần, ông được phong tước Quan phục hầu..
Phong thưởng có tất cả chín bậc, Thứ nhất: Huyện thượng hầu; Thứ
hai: Á thượng hầu; Thứ ba: Hương thượng hầu; Thứ tư: Đình thượng hầu; Thứ năm:
Huyện hầu; Thứ sáu: Á hầu; Thứ bảy: Quan nội hầu; Thứ tám: Quan phục hầu; Thứ
chín: Trước phục hầu. Nguyễn Trãi ở bậc thứ 8.
Văn thần
triều Lê
Triều vua Lê Thái Tổ
Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và
các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính (họ
Lê) và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được
khắc tên trên biển Khai quốc công thần. Ngày
29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại
xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về
việc chiến thắng quân Minh.
Chính sử nhà Lê không nói đến việc Nguyễn Trãi bị bắt và hạ
ngục. Trong Tang thương ngẫu lục, Dương Bá Cung cho biết Nguyễn Trãi "từng
có việc bị hạ ngục rồi lại được tha". Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có
bài "Oan thán" về việc bị hạ ngục cho chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi
bị bắt vào hồi ông năm mươi tuổi tức vào khoảng năm Thuận Thiên thứ hai (1429)
năm Lê Thái Tổ bắt Trần Nguyên Hãn. Rất có thể là Nguyễn Trãi bị nghi ngờ có
liên quan đến Trần Nguyên Hãn, nên bị bắt, sau lại được thả ra.
Trong Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có viết rằng: "Thái
Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính". Câu
này cho thấy rằng, trước khi chết, Lê Thái Tổ đã dặn Thái tử Nguyên Long phải
đặt Nguyễn Trãi lên một chức vị xứng đáng. Lê Thái Tông đã làm đúng như lời cha
dặn..
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam
Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư
cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn
bia Vĩnh Lăng thần đạo bi
Văn bia Quế Lâm Ngự Chế, Lê Thái Tông, 1439.
Triều vua Lê Thái Tông
Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên
lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi...
Năm 1435,
Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá
đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó.
Tháng 5, năm 1434 Nguyễn Trãi đang giữ chức Hành khiển, soạn xong
tờ tâu để Nguyễn Tông Trụ mang sang đưa lên vua Minh, bị Nội mật viện Nguyễn
Thúc Huệ, Học sĩ Lê Cảnh Xước, Đại tư đồ Sát và Đô đốc Phạm Vấn phản
đối và trách cứ và đòi sửa chữa. Nguyễn Trãi kiên quyết giữ chủ kiến của mình,
cuối cùng Lê Thái Tông vẫn theo như bản tâu của ông, không thay đổi. Tháng
12, năm 1434, Nguyễn Trãi cùng các đại thần theo vua Lê Thái Tông làm lễ rước
thần chủ mới của Thái Tổ và Quốc thái mẫu vào thờ ở Thái miếu.
Năm 1435, tháng 6, Đại tư đồ Lê Sát tiến cử Nguyễn Trãi và một
số viên quan khác vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên nhưng vua Lê
Thái Tông không chấp thuận
Trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, ông
tranh cãi với Lê Sát và Lê Ngân về việc xử lý bảy tên ăn trộm ít tuổi can tội
tái phạm. Ông khuyên Lê Thái Tông nên nhân nghĩa, nhưng khi Lê Sát và Lê Ngân
đề nghị ông dùng nhân nghĩa cảm hóa kẻ trộm thì ông từ chối. Cuối cùng xử chém
2 tên, còn lại thì xử đi đày.
Trước đây, Lê Thái Tổ đã sai Nguyễn Trãi định ra quy chế mũ
áo nhưng chưa kịp thi hành. Tháng 2 năm 1437, vua Lê
Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế
lễ nghi trong triều đình. Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu,
vua Thái Tông khen ngợi và tiếp nhận sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi
Kính Chủ để làm. Nhưng
đến tháng 5, năm 1437, Lương Đăng dâng sớ thư về quy chế có nhiều ý kiến khác
với Nguyễn Trãi ở những chỗ bàn về số lượng, trọng lượng các nhạc khí. Vua Thái
Tông lựa chọn đề nghị của Lương Đăng, nên Nguyễn Trãi tâu xin trả lại việc đã
được giao phó. Tháng
11 năm 1437, vua
Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với
triều đình, Nguyễn Trãi cùng một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn
Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối, nhưng không có kết quả.
Khoảng cuối năm 1437, đầu
năm 1438,
Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn- nơi
trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh
vào chầu vua.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi không hợp với
Lương Đăng về việc nhạc, ông đã xin về quê hưu trí. Sách Đại Việt sử ký toàn
thư cũng không chép ông làm gì sau thời gian này, đến năm 1442, sách mới chép
việc ông mời vua Lê Thái Tông về ngự ở Côn Sơn. Theo nghiên cứu của Trần Huy
Liệu, căn cứ vào biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi, năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức
tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị
Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự. Ông
cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc
đạo.
Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu
cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi. Trong khoa thi Hội
năm 1442,
Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm
Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Suốt trong thời gian làm quan, lúc nào Nguyễn Trãi cũng sống một
cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Không những thơ văn của Nguyễn Trãi, mà
các nho sĩ sống cùng thời với ông như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn cũng cho ta
biết như thế..
Vụ án Lệ Chi Viên
Tháng 9 năm 1442,
vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông.
Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau
khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh,
Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người
thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442,
thuyền về đến Lệ Chi Viên[e] thì
vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu
kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm
1442 về đến Đông Kinh mới
phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn
Trãi, khép hai người vào âm mưu giết vua. Ngày 19 tháng
9 năm 1442 (tức
ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất),
Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc.
Được phục
hồi danh dự
Sau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước
tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai
hủy năm
1447. Nhiều
trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư, Ngọc
đường di cảo, Giao tự đại lễ,... Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu
tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị
Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ
Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù - một người con của Nguyễn
Trãi - chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn
Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là
Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê
Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau
về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại
Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh
Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.
Tháng 8 năm 1464, sau
22 năm, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu
tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi
bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng
con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà
vua bổ nhiệm làm Tri huyện.
Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau
khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512,
vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế
Văn hầu, chế văn truy tặng có câu
Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên
Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế
Dịch là:
Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ
|
Gia đình
Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai
Vợ
·
Bà Trần Thị Thành
·
Bà Phùng thị
·
Bà Lê thị
·
Bà Phạm Thị Mẫn
Con
·
Nguyễn Khuê (con bà Trần Thị)
·
Nguyễn Ứng (con bà Trần Thị)
·
Nguyễn Phù (con bà Trần Thị)
·
Nguyễn Bảng (con bà Phùng Thị)
·
Nguyễn Tích (con bà Phùng Thị)
Tư tưởng Nguyễn
Trãi
Thời hiện đại, một số nhà làm sử ở Việt Nam như Doãn Chính, Phan
Huy Lê, Nguyễn Khắc Thuần... đã viết các sách với nội dung mà họ gọi là Tư
tưởng Nguyễn Trãi, nay trích lại dưới đây:
Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, tư
tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi
mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển[65], đánh
dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học
thuyết có hệ thống hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể
hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng
Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo
giáo[66] (trong đó Nho giáo đóng
vai trò chủ yếu), có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc
đó.
Ảnh hưởng
của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ
thể là Nho giáo Khổng Mạnh. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào
công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên
Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê.
a/ Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng
triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài
đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng,
cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc
quản lý, lãnh đạo quốc gia[67]. Nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng
hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân
nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái
bình muôn thuở: xã hội Nghiêu Thuấn của
Nguyễn Trãi. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng[68].
b/ Mệnh trời: Nguyễn
Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của
mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy
định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống
như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và
nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu
con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh,
chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không
theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào
thân.
c/ Tư tưởng nhân dân: Nguyễn
Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực
lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hưng vong của
triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao
quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam[69]
d/ Quan điểm sống: Nguyễn
Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo: sống trung
dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung.
Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình
Hượu cho rằng
Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo
nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ
là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó
|
||
— Trần Đình
Hượu
|
Ảnh hưởng
của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi
chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lý. Ông
khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được
giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là
sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của
chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết,
không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người
khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về
mình. Tư tưởng Lão - Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung
dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên[70].
Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù
chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam
giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý - Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời
kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Việt Nam. Trước
Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau
Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ
Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo
trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại
của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô
phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu
một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hoá giữa cung
đình và dân gian. Sức sống của nền văn hoá dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng
văn hoá dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong
triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên
chế, về tư tưởng - văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo,
Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian[71].
Sự nghiệp văn
chương
Theo Lê Quý Đôn chép trong sách Đại Việt thông sử, phần Văn tịch
chí, thời nhà Minh xâm lược Đại Việt, Trương Phụ thu thập hầu hết sách vở của
Đại Việt gửi theo đường sông về Kim Lăng, Trung Quốc. Khi Lê Lợi giành lại độc
lập cho Đại Việt, ông mới ra lệnh thu thập sách vở, các bậc danh nho như Lý Tử
Tấn, Phan Phu Tiên, Nguyễn Trãi,...cùng nhau sưu tập. Nhưng sau cuộc binh hỏa,
sách vở mười phần nay chỉ còn được 4, 5 phần, Lê Quý Đôn có thống kê đầy đủ ở
sách Đại Việt thông sử.[72]
Đến thời hiện đại, khi biên soạn sách những tác giả như Nguyễn
Hữu Sơn, Phan Huy Lê,...không rõ căn cứ vào đâu khi họ cho rằng sau vụ Lệ Chi
Viên, Đinh Liệt cho hủy các sách của Nguyễn Trãi như
Luật thư, Dư địa chí, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ...
Văn chính
luận
a/ Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn
thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà
Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và văn răn tướng sĩ, từ
năm 1423 đến
năm 1427. Bản
khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà
nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi
cho tướng nhà Minh[73].
Lịch sử
a/ Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự
ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề
tác giả của trước tác phẩm này vẫn còn chưa rõ ràng[74], dù cho đến nay nhiều người khẳng
định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều
đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán[75].
https://s20.postimg.cc/rnbgpo7ql/National_Museum_Vietnamese_History_65.jpg
b/ Vĩnh Lăng thần đạo bi là
bài văn bia ở Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái
Tổ.
Địa lý
Thơ phú
a/ Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của
Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi
tiếng. Theo Lê Quý Đôn sách gồm 3 quyển, Nguyễn Trãi Soạn, Trần Khắc Kiệm biên
tập.
b/ Quốc âm thi tập là
tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục: Vô đề
(192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài).
Theo Trần Huy Liệu đây là tập thơ Nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay[76]. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi
là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt
Nam[77]
c/ Chí Linh sơn phú là
bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần
thứ ba vào năm 1422.
d/ Băng Hồ di sự lục là
thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về
cuộc đời Trần Nguyên Đán.
e/ Sách Luật thư, 6 quyển, nay không còn,
được Nguyễn Trãi soạn vào khoảng thời gian 1440-1441.
Nhận định
a/ Sách Khâm định việt sử thông giám cương
mục có những nhận định về Nguyễn Trãi như sau: Theo nhận định của sử
quan: Ông Trãi giúp Lê Thái Tổ khai quốc, rồi lại giúp Lê Thái Tông,
tài trí, phép tắc, mưu mô, đạo đức, đều vượt hơn hết mọi người lúc bấy giờ[78] Theo
lời phê của Tự Đức: Đời
Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Trãi nếu là người
hiền, thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn.
Thế mà lại đi đón trước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ.
Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự Trãi chuốc lấy. Như thế sao được gọi là người
hiền?[79]
b/ Trong Lịch triều hiến chương loại chí,
Lê Thánh Tông chú thích rằng:Ức Trai tiên sinh, đương lúc Thái Tổ mới sáng
nghiệp theo về Lỗi Giang, trong thì bàn kế hoạch nơi màn trướng, ngoài thì thảo
văn thư dụ các thành; văn chương tiên sinh làm vẻ vang cho nước, lại được vua
yêu tin quí trọng.
Công giúp hồng đồ cao nữa
(tựa) núi
d/ Theo Đỗ Nghi: Nhà Lê sở dĩ lấy
được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc
thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức
hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là
không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy.[82]
f/ Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận
định về ông: Khi vào yết kiến Bình Định vương ở Lỗi Giang liền được tri
ngộ, viết thư gửi tướng súy nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc
nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị
hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà
không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối
cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu
về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được"[84].
g/ Theo Nguyễn Năng Tĩnh: Nước Việt
ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải
có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai
tiên sinh, thật là ít lắm[85]
h/ Ở thế kỷ XX, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn
Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị
cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi
thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh
mạnh ít địch nhiều... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ
khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao... Thật là một con người vĩ đại về nhiều
mặt trong lịch sử nước ta[86].
i/ Theo Keith Weller Taylor, một sử gia người
Mĩ nghiên cứu về lịch sử Việt Nam:Lúc đó phần nhiều người ở các vùng xung
quanh Hà Nội tức là Đông Kinh theo chính trị của người Minh. Nguyễn Trãi là người
Bắc thường, và ông phải chạy đến Thanh Hóa. Hơn 9.000 người Đông Kinh đã làm việc
cai trị cho người Minh. Nguyễn Trãi viết thư cố thuyết phục họ bỏ người Minh
theo Lê Lợi... Nguyễn Trãi là một nhà thơ tài năng, nhưng vai trò của ông về mặt
chính trị và quân đội thì khá mờ nhạt. Lê Lợi và các tướng lĩnh khác chỉ muốn
dùng tài năng thơ văn của Nguyễn Trãi để tuyên truyền và vận động dân chúng đứng
về phía mình.[87]
j/ Theo Nguyễn Diên Niên:Hành trạng của
Nguyễn Trãi ở triều Lê không thể cho ta cái nhận thức ông là một lãnh tụ, linh
hồn của Khởi nghĩa Lam Sơn. Ở ông, ông chỉ là một viên quan triều đình như bao
viên quan khác. Ông nổi tiếng là ở tài văn chương được người đời ca ngợi trong
chức vụ Thừa chỉ mà Thái Tổ ban cho. Lê Thánh Tông cũng đã có một câu đánh giá
tài năng văn chương của ông:Văn chương Nguyễn Trãi làm vẻ vang cho nước.Theo
tác giả này sách Tang thương ngẫu lục viết vào thế kỷ XVIII đã tạo nên truyền
thuyết dân gian về vai trò Lê Lợi số 1, Nguyễn Trãi số 2. Sau này các nhà sử học
ở Viện sử học như Phan Huy Lê cũng đã dựa vào truyền thuyết này để viết sách
giáo khoa giảng dạy ở các trường học ở Việt Nam.[88]
k/ Theo một tác giả hiện đại Nguyễn Lương
Bích: Công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn
Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý
giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân
tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết
tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi
nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của
ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi.[89] Tố
chất thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của
dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn
về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy
đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì
cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con
đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.
Về văn
chương
Nguyễn Trãi được đánh giá là một nhà văn chính luận kiệt xuất[90]. Đời sau có nhiều người ca
ngợi văn chương của ông:
a/ Nguyễn Mộng Tuân xem ông là "bậc văn
bá"
b/ Lê Quý Đôn đánh giá ông là "văn thư thảo hịch
giỏi hơn hết một thời"
c/ Tô Thế Nghi ca ngợi ông là "sông
Giang sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao"
d/ Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông "có khí lực
dồi dào... đọc không chán miệng"
e/ Theo Dương Bá Cung, văn Nguyễn Trãi
"rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất"
g/ Phạm Văn Đồng nhìn nhận văn chương Nguyễn
Trãi "đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường"
Riêng những tác phẩm văn chính luận của ông mang tính chiến đấu
xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho những mục đích chính
trị, xã hội, thể hiện lý tưởng chính trị - xã hội cao nhất trong thời phong kiến Việt Nam[91]. Ngoài
ra, các tác phẩm này còn phản ánh tinh thần dân tộc đã trưởng thành, điều này
được đánh giá là một thành tựu lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học Việt Nam[92].
Về nhận
định của Lê Thánh Tông trong thơ ca
Lê Thánh Tông trong bài "Quân minh
thần lương" (君明臣良) của
tập thơ "Quỳnh uyển cửu ca" (瓊苑九歌) có
câu: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (抑齋心上光奎藻). Trong một thời gian dài, nhiều sách giáo khoa lịch sử và văn
học dịch câu này là: "Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi
sớm". Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân khẳng định đây là một cách dịch sai
lầm và lý giải nguồn gốc như sau:
Cách dịch câu thơ trên của Lê Thánh Tông như mọi người thường
biết bắt đầu từ năm 1962, khi nhà sử học Trần Huy Liệu đưa ra bản dịch câu thơ đó
trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, mà Bùi Duy
Tân khẳng định là dịch sai: "Ức Trai lòng sáng như sao Khuê"[93]. Bùi
Duy Tân phân tích, trong câu dịch này, chữ "tảo" không được dịch, chữ
"Khuê" bị hiểu sai nghĩa về văn cảnh. Các nhà xuất bản, trường học
lần lượt sử dụng lời dịch sai này, xem đây là lời bình luận về nhân cách Nguyễn
Trãi. Hệ quả là sau đó nhiều tác phẩm văn học, ca kịch... nói về Nguyễn Trãi
dùng "sao Khuê" làm cách hoán dụ để nói về ông ("Sao Khuê lấp
lánh", "Vằng vặc sao Khuê"...).
Trong giới nghiên cứu, giảng dạy văn học cổ đã từng có nhiều ý
kiến nói về cách dịch sai này, nhưng ít tác giả làm rõ vấn đề[94]. Cần xem câu thơ của Lê Thánh
Tông trong toàn bộ bài "Quân minh thần lương" để làm rõ nghĩa:
Nguyên văn chữ Hán:
高帝英雄蓋世名
文皇智勇撫盈成
抑齋心上光奎藻
武穆胸中列甲兵
十鄭第兄聯貴顯
二申父子佩恩榮
孝孫洪德承丕緒
八百姬周樂治平
Phiên âm Hán Việt:
Cao Đế anh hùng cái thế
danh
Văn Hoàng trí dũng phú
doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang
Khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt
giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên
quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân
vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi
sự
Bát bách Cơ Chu lạc trị
bình
Bài thơ này ca ngợi sự nghiệp nhà Hậu Lê. Bản dịch thơ của Hoàng
Việt thi văn tuyển xuất bản năm 1958 (xuất bản trước thời điểm Trần Huy Liệu
đưa ra bài viết có câu dịch được phổ biến năm 1962) được các nhà nghiên cứu
đính chính câu thơ trên cho rằng đã dịch đúng:
Cao Đế anh hùng dễ mấy ai
Văn Hoàng trí dũng kế ngôi
trời
Văn chương
Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn
nước
Cơ nghiệp Thành Chu vận nước
dài
Một dị bản khác là Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, câu thứ 4 không dùng "liệt" mà
dùng "uẩn" mang nghĩa chất chứa, được nhìn nhận là chuẩn xác hơn, và
do đó đối chỉnh nghĩa với câu 3 về Nguyễn Trãi hơn. Theo nghĩa đen,
"khuê" là một trong 28 vị tinh tú, biểu tượng của văn chương;
tảo là loài rong biển, nghĩa rộng là màu vẻ đẹp đẽ, không phải mang nghĩa
"sớm"[96].
"Khuê tảo" đi với nhau chỉ văn, đối với "giáp
binh" ở câu dưới chỉ võ. Cách dùng "khuê" để chỉ văn chương khá
quen thuộc, ngay cả Lê Thánh Tôngtrong "Quỳnh uyển cửu
ca" cũng có viết "...thổ hồng nghê chí khí, quang khuê tảo chi
văn" (nghĩa là: "nhả cái khí vồng mống, rạng cái vẻ văn
chương..."). Do đó "khuê tảo" trong câu thơ của Lê Thánh Tông là
ca ngợi văn chương Nguyễn Trãi chứ không phải ca ngợi nhân cách của ông[97].
Tuyên truyền và Tưởng
niệm
Năm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ
chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông[98]. Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều
đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ
tem về ông vào năm 1962[99].
Năm 1980, Nhà
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho
phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông[100].
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn
là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông
chiêu tuyết cho ông. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa
và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm
600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm
phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn
Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm 1964.
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và
khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng
10.000m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia
thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô
phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến
trúc năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng
Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi
Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Hình ảnh trong văn
hóa
7/ Thiên mệnh anh hùng (phim dựa theo tiểu thuyết Nguyễn
Trãi - quyển 2, Bức huyết thư - đạo diễn Victor
Vũ).
Tên đường phố
Tại thành phố Hà Nội, từ
thời Pháp thuộc đã có một con đường nhỏ và ngắn ở khu vực trung tâm mang tên
đường Nguyễn Trãi (nay là đường Nguyễn Văn Tố). Cuối năm 1945, chính
quyền Cách mạng tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho
đổi tên con đường này, đồng thời đặt tên đường Nguyễn Trãi cho một con đường
dài hơn ở khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm (nay là đường Lò Sũ). Tuy nhiên, sau
đó đến đầu năm 1951, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp trong đợt đổi
tên đường cũ thời Pháp sang tên danh nhân Việt Nam với quy mô lớn thì vẫn duy
trì tên đường Nguyễn Trãi vốn đã có từ Pháp thuộc này. Sau năm 1954, chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban
đầu vẫn duy trì đường Nguyễn Trãi cũ của các chính quyền đối phương. Tuy nhiên
đến năm 1964 trên
cơ sở cho rằng con đường Nguyễn Trãi ngắn và nhỏ như vậy hoàn toàn không phù
hợp với công lao to lớn của ông đối với đất nước, chính quyền Hà Nội lại
cho đổi tên đường Nguyễn Trãi cũ thành đường Nguyễn Văn Tố và giữ nguyên cho đến
ngày nay; còn tuyến quốc lộ 6 đoạn từ Ngã Tư Sở đến vùng giáp ranh thị xã Hà Đông thuộc
tỉnh Hà Đông cũ thì cho đặt tên là đường Nguyễn
Trãi. Hiện nay, ở Hà Nội có
2 đường phố Nguyễn Trãi. Đường Nguyễn Trãi chạy qua quận Đống Đa, Thanh
Xuân và Nam Từ Liêm. Phố Nguyễn Trãi chạy qua phường Nguyễn Trãi, quận Hà Đông
Tại đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, từ năm 1954 chính
quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp (tiền thân
của Việt Nam Cộng hòa) cũng cho đặt tên một con
đường mang tên là đường Nguyễn Trãi tại khu vực thành phố Chợ Lớn cũ.
Tuy nhiên một năm sau, vào năm 1955 do
thấy không phù hợp nên chính quyền này lại cho đổi tên đường Nguyễn Trãi cũ
thành đường Trần Nhân Tôn và giữ nguyên cho đến
ngày nay; còn tuyến đường Quang Trung cũ đoạn đi qua khu vực quận 5 ngày nay
(cũng nằm trong khu vực thành phố Chợ Lớn cũ) vốn dài khoảng 4 km thì cho
đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Đến năm 1975, chính
quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp
tục cho nhập chung và đổi tên đường Võ Tánh cũ ở khu vực quận 2 cũ (nay là quận
1) vốn dài khoảng 2 km thành đường Nguyễn Trãi. Như vậy đường Nguyễn Trãi
hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh dài khoảng 6 km.
Tại thị xã Cần Thơ thuộc
tỉnh Cần Thơ cũ (nay là thành phố Cần Thơ trực
thuộc trung ương), từ năm 1954, một
phần quốc lộ 4 cũ (nay gọi là quốc lộ 1, nhưng phần này đã trở thành đường
chính nội bộ, không còn là một phần của đường quốc lộ) đoạn từ vòng xoay trung
tâm đến cầu Cái Khế cũng được đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Sau năm 1975, chính
quyền mới tiếp tục cho nhập chung và đổi tên đường Hai Bà Trưng cũ (đoạn từ cầu
Cái Khế tới vòng xoay Ngã tư bến xe) thành đường Nguyễn Trãi, giữ nguyên cho
đến ngày nay. Bên cạnh đó từ trước năm 1975 tại
thị trấn Cái Răng cũ (nay là phường Lê Bình, quận Cái Răng) cũng có một con đường quan trọng mang tên
đường Nguyễn Trãi.
No comments:
Post a Comment