OPEC
Cách nay đúng 58 năm. Tổ chức các nước xuất cảng dầu thô
(OPEC) được thành lập
Ngày 14
tháng 09, 1960
·
1960 – Kết thúc Hội nghị Bagdad, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
lửa(OPEC) được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính
sách dầu lửa.
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
Quốc kỳ
Kiểu Khối thương mại
Thành
viên 12 quốc gia (2011)
12 Quốc gia (2011)
Algérie, Angola, Ecuador, Iran, Iraq, Kuwait, Libya, Nigeria, Qatar, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống
nhất, Venezuela
Người đứng đầu
Điều
lệ 10–14
tháng 9 năm 1960
Trên
thực tế tháng
1 năm 1961
Diện tích
Dân số
Ước lượng 372.368.429
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ, trong tiếng Anh viết
tắt là OPEC (viết tắt của Organization of Petroleum
Exporting Countries). Mục tiêu của tổ chức này
là đảm bảo thu nhập ổn định cho các quốc gia thành
viên và đảm bảo nguồn cung dầu mỏ cho
các khách hàng.
OPEC là tổ chức đa chính phủ được
thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela trong
hội nghị tại Bagdad (từ 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960). Các
thành viên Qatar (1961), Indonesia, Libya (1962), UAE(1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt
gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador (1973–1992) và Gabon (1975–1994) cũng
từng là thành viên của OPEC. Trong 5 năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy
chuyển về Viên, Áo từ tháng 9 năm 1965.
جمهوری اسلامی ایران Jomhuri-ye Eslāmi-ye Irān phát âmtrợ giúpchi tiết),[5] là một quốc gia có chủ quyền tại Tây Á.
Cộng hoà Iraq (phát âm: I-rắc, tiếng Ả Rập: الجمهورية العراقية Al-Jumhuriyah Al-Iraqiyah, tiếng Kurd: عیراق Komara Iraqê) là một quốc gia ở miền Trung Đông, ở phía tây nam của châu Á. Nước này giáp với Ả Rập Xê Út, Kuwait về phía nam, Thổ Nhĩ Kỳ về phía bắc, Syria về phía tây bắc, Jordan về phía tây, và Iran về phía đông.
Kuwait (phát âm tiếng Việt: Cô-oét, tiếng Ả Rập: الكويت al-Kuwait), tên chính thức là Nhà nước Kuwait (tiếng Ả Rập:دولة الكويت Dawlat al-Kuwaittrợ giúpchi tiết), là
một quốc gia tại Tây Á. Kuwait nằm tại rìa phía bắc của miền đông bán đảo Ả
Rập, và tại đầu vịnh Ba Tư, có biên giới với Iraq và Ả Rập Xê
Út. Tính đến năm 2016, dân
số Kuwait đạt 4,2 triệu; trong đó 1,3 triệu người là công dân Kuwait còn 2,9
triệu người là ngoại kiều.
Ả Rập
Xê Út, tên
chính thức là Vương quốc Ả Rập Xê Út (tiếng Ả Rập: المملكة العربية السعودية al-Mamlakah al-‘Arabiyyah as-Su‘ūdiyyah, phát âmtrợ giúpchi tiết) là một quốc gia có chủ quyền tại Tây Á, chiếm phần lớn bán đảo Ả
Rập. Quốc gia này có diện
tích đất liền khoảng 2,15 triệu km², là quốc gia rộng lớn thứ năm tại châu Á và
rộng lớn thứ nhì trong thế giới Ả
Rập sau Algérie
Venezuela (tên chính thức
là Cộng hòa Bolivar Venezuela, tiếng Tây Ban Nha: República Bolivariana de Venezuela, [reˈpuβlika βoliβaˈɾjana ðe βeneˈswela], tên gọi trong tiếng Việt: Cộng hoà Bô-li-va-ri-a-na Vê-nê-du-ê-la[4], đôi khi là Vê-nê-xu-ê-la) là một
quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ.
Các nước thành viên OPEC khai thác vào
khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu
thế giới.
Lịch sử
Xuất khẩu - nhập khẩu theo quốc gia,
thùng/ngày
Vào ngày 10–14 tháng 9 năm 1960, theo sáng kiến của Bộ trưởng Bộ
Năng lượng và Mỏ Venezuelan Juan Pablo Pérez Alfonso và
bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Ả Rập Xê Út Abdullah al-Tariki, các
chính phủ Iraq, Iran, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela nhóm họp tại Baghdad để
thảo luận các phương án nhằm tăng giá dầu thô sản xuất ở các quốc gia này[4][5]
OPEC được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính sách
về dầu mỏ của các quốc gia thành viên. Giữa năm 1960 và 1975, tổ chức này đã mở
rộng bao gồm các thành viên mới như Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya(1962),
và Các tiểu vương quốc Ả Rập
thống nhất (1967), Algérie (1969),
và Nigeria (1971). Ecuador và Gabon trước
đây từng là thành viên của OPEC, nhưng Ecuador đã rút lui ngày 31 tháng 12 năm
1992[6] do
họ không sẵn sàng hay không thể chi trả 2 triệu đô la tiền phí thành viên và
cảm giác rằng họ cần sản xuất nhiều dầu hơn chỉ tiêu mà OPEC cho phép,[7] dù
vậy họ gia nhập trở lại vào tháng 10 năm 2007. Các mối quan tâm tương tự cũng
đã thúc đẩy Gabon ngừng làm thành viên vào tháng 1 năm 1995.[8]Angola gia
nhập đầu năm 2007. Na Uy và Nga tham dự các hội nghị của OPEC với tư cách là
quan sát viên. OPEC không phải không thích mở rộng nữa, Mohammed Barkindo, tổng
thư ký OPEC gần đây đã đề nghị Sudan gia nhập.[9] Iraq
vẫn là thành viên của OPEC, nhưng sản lượng của Iraq không nằm trong bất kỳ chỉ
tiêu thỏa thuận nào của OPEC kể từ tháng 3 năm 1998.
Tháng 5 năm 2008, Indonesia tuyên bố rời khỏi OPEC khi hết hạn
thành viên và vào cuối năm đó, nước này trở thành quốc gia nhập khẩu dầu và
không thể đạt được chỉ tiêu sản xuất dầu của họ. Một
bản tuyên bố do OPEC đưa ra ngày 10 tháng 9 năm 2008 đã xác nhận Indonesia rút
khỏi tổ chức này, trong đó có đoạn "thật tiếc là chúng tôi phải chấp nhận
mong muốn của Indonesia để dừng tư cách thành viên trong Tổ chức [OPEC] và hy
vọng rằng Quốc gia này sẽ sẵn sàng gia nhập trở lại trong một tương lai không
xa." Indonesia
vẫn xuất khẩu dầu ngọt nhẹ và nhập khẩu dầu chua hơn (chức nhiều lưu huỳnh),
nặng hơn để tận dụng chênh lệch giá (nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu).
Tổ chức
Văn phòng chính của OPEC tại Viên, Áo
OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của
các nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ
trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm
hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo
đảm việc cung cấp dầu. Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc
xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ.
Thành
viên
Hiện nay tổ chức này có 12 nước thành viên được liệt kê dưới đây
với ngày tháng gia nhập.
Các nước thành viên OPEC
Thành viên hiện tại
Cựu thành viên
Cựu thành viên
Thành viên tương lai
Mục tiêu
Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là
ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá
dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp
cưỡng chế vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra
lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng
hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính
sách cao giá trong thời gian dài.
Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để
giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh
lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có
thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel)
luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất cho các thành viên.
Các biện pháp của
OPEC theo thứ tự thời gian
1/ 14 tháng 9 năm 1960: thành lập tổ chức
theo đề xuất của Venezuela tại Baghdad.
2/ 1965: Dời trụ sở về Wien. Các thành viên
thống nhất một chính sách khai thác chung để bảo vệ giá.
3/ 1970: Nâng
giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai thác dầu lên
55% của lợi nhuận.
4/ 1971: Nâng
giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt tỷ lệ quốc
gia hóa 50% các tập đoàn.
5/ 1973: Tăng
giá dầu tăng từ 2,89 USD/thùng lên 11,65 USD. Thời gian này được gọi là cuộc khủng
hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của thế giới.
7/ 1979: Khủng
hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo giá dầu từ 15,5 USD một
thùng được nâng lên 24 USD. Libya, Algérie và Iraq thậm chí đòi đến 30 USD cho
một thùng.
8/ 1980: Đỉnh
điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybia đòi 41 USD, Ả Rập Xê Út 32 USD và các
nước thành viên còn lại 36 USD cho một thùng dầu.
9/ 1981: Lượng
tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế và bắt
nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao, nhiều nước trên thế
giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu thế giới giảm 11%
trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường thế giới
giảm xuống còn 40%.
10/ 1982: Quyết
định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được các thành viên
giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985 còn 30% trên tổng
số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống đến mức thấp
kỷ lục là 17,34 triệu thùng/ngày.
11/ 1983: Giảm
giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD/thùng. Giảm hạn ngạch khai thác từ 18,5 triệu xuống
16 triệu thùng một ngày.
12/ 1986: Giá dầu
rơi xuống đến dưới 10 USD/thùng do sản xuất thừa
và do một số nước trong OPEC giảm giá dầu.
13/ 1990: Giá dầu
được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ vào chiến tranh Vùng Vịnh giá dầu đạt đến mức đề
ra.
14/ 2000: Giá dầu
đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch sử. Nếu trong
quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì trong quý
IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý giữ giá dầu
ở mức 22-28 USD/thùng.
15/ 2005: OPEC
quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành viên đã nhất
trí "tạm ngưng" không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
9,53
|
10,12
|
10,42
|
9,5
|
9,4
|
|
2,81
|
2,85
|
3,54
|
3
|
2,68
|
|
3,33
|
4
|
4,41
|
2,95
|
3,08
|
|
2,76
|
2,93
|
3,03
|
2,65
|
2,76
|
|
2,46
|
2,46
|
2,24
|
2,5
|
2,5
|
|
1,9
|
1,77
|
1,46
|
2,1
|
1,95
|
|
2,61
|
2,75
|
2,88
|
2,46
|
2,55
|
|
1,66
|
1,76
|
1,71
|
1,78
|
1,72
|
|
0,46
|
0,40
|
0,39
|
1,39
|
0,90
|
|
1,12
|
1,12
|
1,11
|
1,17
|
1,15
|
|
0,71
|
0,65
|
0,65
|
0,74
|
0,73
|
|
0,55
|
0,54
|
0,55
|
0,49
|
0,52
|
|
Total
|
30,98
|
31,65
|
32,62
|
31,30
|
30,45
|
Crude oil
benchmarks
https://s20.postimg.cc/ysi6ia2il/Crudes.png
A "crude oil benchmark" is a standardized petroleum product
that serves as a convenient reference price for buyers and sellers of crude
oil, including standardized contracts in major futures
markets since 1983. Benchmarks are used because oil prices differ
(usually by a few dollars per barrel) based on variety, grade, delivery date
and location, and other legal requirements.[45][46]
The OPEC Reference Basket of Crudes has
been an important benchmark for oil prices since 2000. It is calculated as
a weighted average of prices for petroleum
blends from the OPEC member countries: Saharan Blend (Algeria), Girassol
(Angola), Oriente (Ecuador), Rabi Light (Gabon), Iran Heavy (Islamic Republic
of Iran), Basra Light (Iraq), Kuwait Export (Kuwait), Es Sider (Libya), Bonny
Light (Nigeria), Qatar Marine (Qatar), Arab Light (Saudi Arabia), Murban (UAE),
and Merey (Venezuela).[47]
North Sea Brent Crude Oil is the leading benchmark
for Atlantic basin crude oils, and is used to price approximately two-thirds of
the world's traded crude oil. Other well-known benchmarks are West Texas Intermediate (WTI), Dubai
Crude, Oman Crude,
and Urals oil.[
An undersupplied US gasoline station, closed
during the oil embargo in 1973
Gusher well in Saudi Arabia: conventional
source of OPEC production
Shale "fracking" in the US:
important new challenge to OPEC market share
Chú thích
1.
^ “OPEC
Statute” (PDF). Organization of the
Petroleum Exporting Countries. 2008. tr. 8. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2011. English shall be the official language of the
Organization.
4.
^ Citino
2002, tr. 4: "Together
with Arab and non-Arab producers, Saudi Arabia formed the Organization of
Petroleum Export Countries (OPEC) to secure the best price available from the
major oil corporations."
5.
^ Painter
2012, tr. 32: "In
September 1960, after the major oil companies had twice unilaterally reduced
the prices that were used to calculate how much revenue producing countries
received, the oil ministers of Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia, and Venezuela
formed the Organization of the Petroleum Exporting Countries […] eventually
gain[ing] power over pricing in the 1970s".
6.
^ OPEC, by Benjamin Zycher:
The Concise Encyclopedia of Economics: Library of Economics and Liberty[liên kết hỏng]
7.
^ “Ecuador
Set to Leave OPEC”. The New York Times.
Ngày 18 tháng 9 năm 1992. Truy cập
ngày 20 tháng 5 năm 2010.
8.
^ “Gabon
Plans To Quit OPEC – NYTimes.com”. New
York Times. Ngày 9 tháng 1 năm 1995. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2010.
No comments:
Post a Comment