Liên Hoan Phim Cannes
Các nay đúng 72 năm, đại hội điện ẳnh ở Cannes được tổ chức
Ngày 20
tháng 09, 1946
·
1946 – Mùa giải Liên hoan phim Cannes đầu
tiên khai mạc. Trong mùa giải này có 11 tác phẩm điện ảnh đoạt Cành cọ vàng- đương thời được gọi “Giải thưởng lớn”.
Liên hoan phim Cannes
Liên hoan phim Cannes
Sáng lập 1946
Ngôn ngữ Quốc tế
Liên hoan phim Cannes (tiếng Pháp: le
Festival international du film de Cannes hay đơn giản le
Festival de Cannes) là một trong những liên hoan phim có
uy tín nhất thế giới, được tổ chức lần đầu từ 20 tháng 9 đến 5 tháng 10 năm 1946 tại
thành phố nghỉ mát Cannes, nằm phía nam Pháp.
Thu hút số lượng lớn các phương tiện truyền
thông tham gia đưa tin, Liên hoan không mở cửa cho công chúng, có sự hiện diện
của nhiều ngôi sao điện ảnh và là nơi gặp gỡ ưa thích của các nhà sản xuất phim
để trình làng những bộ phim mới nhất và cố gắng bán xuất phẩm của họ cho các
nhà phân phối đến từ khắp nơi trên thế giới.
Giải thưởng uy tín nhất được trao ở Cannes
là Palme d'Or (giải Cành Cọ Vàng) cho phim Xuất sắc nhất; giải
thưởng này thỉnh thoảng cũng được trao đồng thời cho nhiều phim trong một năm.
Tuy nhiên ban giám khảo của Liên hoan, gồm một nhóm những chuyên gia điện ảnh
quốc tế được chọn lựa, cũng trao tặng những giải thưởng khác, bao gồm
"Giải thưởng lớn" (Grand Prix - giải thưởng quan trọng
thứ hai).
Liên hoan phim Cannes lần thứ 59 tổ chức
vào ngày 18 tháng 5 năm 2006. Đạo
diễn Hồng Kôngnổi tiếng, Vương Gia Vệ, là Trưởng ban giám khảo về phim truyện.
Vương Gia Vệ (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1958) là đạo diễn, biên
kịch, nhà sản xuất phim nghệ thuật hàng đầu Hồng Kông từ đầu thập niên 1990
Vương Gia Vệ đã từng đoạt giải Đạo diễn
xuất sắc nhất tại Cannes năm 1997 với
bộ phim Happy Together.
Lịch
sử
Ý tưởng
Vào cuối thập niên 1930, bất bình trước sự can thiệp
của các chính phủ phát xít Đức và Ý vào việc lựa chọn phim của Liên hoan phim Venezia (Mostra de Venise), Émile Vuillermoz và René Jeanne đã
đưa ra đề nghị với Jean Zay, bộ
trưởng Bộ truyền thông và nghệ thuật (ministre de l’Instruction publique et des
Beaux-Arts) về việc thành lập một liên hoan điện ảnh quốc tế ở Pháp. Ý
tưởng này đã được cả Jean Zay và
những quốc gia đồng minh của Pháp như Anh và Mỹ ủng hộ. Vượt
qua nhiều thành phố ửng cử viên như Vichy, Biarritz hay Alger, thành
phố biển phía Nam Cannes đã được chọn làm thành phố đăng cai sự kiện quan trọng này
còn Philippe Erlanger được
cử làm người phụ trách đầu tiên của liên hoan phim.
Năm 1939, Louis Lumière, một
trong hai người khai sinh ra nền điện ảnh, đồng ý trở thành chủ tịch của liên hoan
phim Cannes đầu tiên dự kiến tổ chức từ ngày 1 đến ngày 30 tháng 9 năm 1939.
Auguste và
Louis Lumière
Với ý tưởng "khuyến khích sự phát triển của nghệ thuật điện
ảnh trên mọi hình thức và xây dựng tinh thần cộng tác giữa các nhà điện ảnh đến
từ các quốc gia khác nhau" ("encourager le développement de l’art
cinématographique sous toutes ses formes et créer entre les pays producteurs de
films un esprit de collaboration"), ban tổ chức đã lựa chọn 4 bộ phim của
Pháp (gồm L'Enfer
des anges của Christian-Jaque, La
Charrette fantôme của Julien Duvivier, La Piste du nord của Jacques Feyder và L'Homme du Niger của Jacques de Baroncelli) cùng
một số bộ phim nước ngoài (trong đó có The
Wizard of Oz của Victor Fleming, Goodbye Mr Chips của Sam Wood và The
Four Feathers của Zoltan Korda) dự
tranh giải thưởng của liên hoan phim. Việc thiết kế áp phích của liên hoan được
giao cho họa sĩ người địa phương Jean-Gabriel Domergue.
Từ tháng 8, các ngôi sao điện ảnh bắt đầu tụ hội ở Cannes.
Hãng Metro-Goldwyn-Mayer thuê hẳn một chuyến tàu
vượt Đại Tây Dương để đưa các ngôi sao Hollywood như Tyrone Power, Gary
Cooper, Annabella, Norma
Shearer hay George Raft tới
tham dự liên hoan phim. Nhiều sự kiện và lễ hội lớn được dự kiến tổ chức trong
thời gian liên hoan phim. Lấy cảm hứng từ bộ phim Quasimodo, các
nghệ sĩ Mỹ thậm chí còn định xây dựng một phiên bản của Nhà thờ Đức Bà Paris trên bãi biển Cannes. Tuy
nhiên vào đúng ngày khai mạc dự kiến liên hoan phim, ngày 1 tháng
9 năm 1939 lại
cũng là ngày các đơn vị lính Đức Quốc xã tấn công Ba Lan mở
màn cho Chiến tranh thế giới thứ hai, hai ngày
sau đó Anh và Pháp tuyên
chiến với Đức, ý tưởng về liên hoan phim Cannes bị tạm hoãn vô thời hạn.
Hình
thành
Chỉ một năm sau khi chiến tranh kết thúc, liên hoan phim Cannes
đầu tiên được chính thức tổ chức từ ngày 20
tháng 9 đến ngày 5 tháng
10 năm 1946 tại
tòa nhà cũ của casino Cannes nhờ sự giúp đỡ của Liên đoàn Lao động Pháp (Confédération
générale du travail) mà
đạo diễn Louis Daquin là
một thành viên. Lần tổ chức đầu tiên này của liên hoan phim được Bộ Ngoại giao Pháp và chính quyền thành phố
Cannes hỗ trợ về tài chính. Để
tránh sự cạnh tranh không cần thiết của hai liên hoan phim hàng đầu châu Âu,
chính phủ Pháp và Ý đã thỏa thuận rằng Liên hoan phim Cannes và Liên hoan phim
Venezia sẽ được tổ chức xen kẽ theo năm. Tuy
nhiên thành công tức thời của Liên
hoan phim Cannes 1946 đã thúc đẩy các nhà điện ảnh Pháp, những người không được
biết về quyết định của hai chính phủ từ đầu, dự định tổ chức liên hoan phim thứ
hai vào ngay năm 1947.
Bất chấp sự từ chối hỗ trợ tài chính từ phía chính phủ
Pháp, Liên
hoan phim Cannes 1947 vẫn được tổ chức tại Cung
Liên hoan và Hội nghị Cannes (còn gọi là Cung Croisette),
tòa nhà được xây mới ngay sau thành công của liên hoan phim Cannes đầu tiên với
sự ủng hộ của chính quyền thành phố Cannes. Cung
Croisette được khánh thành chính thức ngày 11
tháng 9 năm 1947 và
liên hoan phim được tổ chức tại đây từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 9. Được xây
dựng gấp nhằm phục vụ liên hoan phim, phần mái của cung Croisette thực tế vẫn
chưa được hoàn thành và nó đã bị phá hủy sau một cơn giông lớn vào những ngày
cuối của liên hoan buộc
các nhà tổ chức phải dời lễ bế mạc và trao giải tới sòng bạc thành phố. Tại
liên hoan phim thứ hai này, liên đoàn Fédération CGT của giới giải trí bắt đầu
đóng vai trò chính trong thành phần ban tổ chức, quy
định về việc các thành viên ban giám khảo phải đến từ các quốc gia khác nhau
nhằm đảm bảo tính công bằng của quyết định cũng trở thành nguyên tắc của liên
hoan phim Cannes.
Ông đã cho thành lập Ủy ban lựa chọn tác phẩm (Commission de
sélection) với quy trình đơn giản: Trung
tâm Điện ảnh Quốc gia Pháp (Centre national de la
cinématographie) cung cấp cho Ủy ban thời gian và quy định lựa chọn tác phẩm
của các liên hoan phim khác nhằm xác định thời hạn chọn tác phẩm của liên hoan
phim Cannes, tiếp đó các nhà sản xuất phim sẽ được mời gửi tác phẩm của họ tới
liên hoan để từ đó Ủy ban có thể xác định các bộ phim chính thức tham gia liên
hoan.
Các bộ phim được chọn còn phải tuân thủ các quy định về kiểm
duyệt của Pháp vì vậy danh sách phim dự tranh liên hoan sau khi được Ủy ban lựa
chọn hoàn thành còn phải đệ trình Bộ Văn hóa Pháp (cơ quan chủ quản của Trung
tâm Điện ảnh Quốc gia) và Bộ Ngoại giao Pháp để thông qua, đây là quy định bắt
buộc trong thời gian Chiến tranh lạnh.
Vào thời gian đầu tổ chức, liên hoan phim Cannes gặp rất nhiều
khó khăn về tài chính (dẫn đến việc không thể tổ chức vào các năm 1948 và 1950) cùng
sự cạnh tranh của các liên hoan phim mới liên tục được thành lập ở châu Âu. Từ
năm 1951, thời
gian tổ chức của liên hoan phim Cannes được lùi xuống mùa
Xuân để tránh sự cạnh tranh với các liên hoan phim lớn khác ở
Venezia và Locarno. Bốn
năm sau đó, giải Cành cọ vàng (Palme d'or) được thành lập theo ý tưởng
của Robert Favre Le Bret để
trở thành giải thưởng chính của liên hoan phim, thay thế cho Giải thưởng lớn
(Grand prix). Mẫu
giải thưởng được làm theo thiết kế của Lucienne Lazon, bộ
phim đầu tiên được trao giải thưởng này là Marty của Delbert Mann.
Từ năm 1955 cho tới nay giải Cành cọ vàng được trao hàng năm, trừ
quãng thời gian từ 1964 đến 1974 khi
nó được thay thế bằng giải thưởng cũ Grand prix.
Cũng tại Liên
hoan phim Cannes 1955, một mối tình hiếm có giữa hoàng tử Rainier của Monaco và
ngôi sao điện ảnh Grace
Kelly đã bắt đầu. Họ
kết hôn chỉ một năm sau và Kelly sinh cho hoàng gia Monaco ba người con trước
khi qua đời vì một tai nạn ô tô.
Grace Kelly
năm 1955
Phát
triển
Vào năm 1959, Hội chợ phim Cannes (Marché
du film de Cannes) bắt đầu được tổ chức song song với liên hoan phim. Hội chợ
phim giúp Liên hoan phim Cannes từ một sự kiện nghệ thuật điện ảnh đơn thuần
trở thành một sự kiện lớn của ngành công nghiệp điện ảnh với cả khía cạnh
thương mại và trao đổi tác phẩm giữa các nền điện ảnh khác nhau, đây là mô hình
hội chợ phim đầu tiên trên thế giới.
Tính đến năm 2007, hội
chợ đã đón tiếp hơn 10.000 người tham gia đến từ 91 quốc gia khác nhau.s20.postimg.cc
Từ năm 1962, một hoạt động mới khác được tổ chức bên cạnh liên hoan phim
Cannes, đó là Tuần lễ
phê bình phim quốc tế (Semaine Internationale de la Critique)s20.postimg.cc với
mục đích tôn vinh những tác phẩm đầu tay của các nhà điện ảnh trên thế giới ("mettre
à l’honneur les premières et deuxièmes œuvres des cinéastes du monde
entier").s20.postimg.cc
Trong tuần lễ này, ngoài bảy phim điện ảnh dài và bảy phim ngắn
dự thi chính thức, các nhà tổ chức còn cho giới thiệu nhiều bộ phim không dự
thi của các nhà điện ảnh trẻ tại các buổi chiếu riêng. Nhiều nhà điện ảnh trẻ
nổi tiếng đã được phát hiện từ các tuần lễ phim này như François Ozon, Alejandro González Iñárritu, Julie Bertuccelli hay Eleonore Faucher.
Năm 1965, để tưởng nhớ tới nhà điện ảnh Jean
Cocteau, người qua đời ngày 11
tháng 10 năm 1963, liên
hoan phim đã quyết định tôn vinh Cocteau là chủ tịch danh dự trọn đời của liên
hoan phim Cannes.
Jean Cocteau
năm 1923
Một năm sau đó, ban giám khảo liên hoan phim Cannes lần đầu tiên
có một chủ tịch là nữ giới, đó là nữ diễn viên người Mỹ Olivia de Havilland.
Olivia de
Havilland, 1940.
Sự phát triển nhanh chóng của liên hoan phim Cannes bị gián đoạn
vào năm 1968 bởi
sự kiện 19 tháng 5 năm 1968. Do
các trường đại học bị đóng cửa bởi những cuộc biểu tình, bãi khóa của giới sinh
viên, các buổi chiếu chính thức của liên hoan phim thường xuyên bị gián đoạn
bởi những cuộc tuần hành của sinh viên.[24] Từ
ngày 13 tháng 5, sinh viên bắt đầu chiếm giữ Cung Liên
hoan và Hội nghị. Ngày 18
tháng 5, nhiều nhà điện ảnh như François Truffaut, Jean-Luc
Godard, Claude Lelouch, Richard Berry, Roman
Polanski, Louis Malle và Jean-Pierre Léaud cũng
tham gia các cuộc biểu tình của sinh viên lúc đó đang làm rung chuyển cả thành
phố Cannes.s20.postimg.cc Bên
cạnh mục đích của các cuộc tuần hành sinh viên, những nhà điện ảnh biểu tình
còn nhằm chống lại quyết định của bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp André
Malraux về việc cách chức giám đốc Viện tư liệu phim Pháp(Cinémathèque
française) của Henri Langlois.[24] Để
ủng hộ những người biểu tình, nhiều nhà làm phim như Alain Resnais, Carlos Saura và Miloš Forman đã rút phim của họ khỏi cuộc thi
chính thức của liên hoan phim. Từ một đại hội điện ảnh, Cannes đã biến thành
một sự kiện chính trị. Ngày 19
tháng 5, các nhà tổ chức đưa ra quyết định lần đầu tiên trong lịch sử
ngừng tiến hành liên hoan phim Cannes.[24]
Thay đổi
lớn
Năm 1969, Pierre-Henri Deleau sáng
lập ra Hai
tuần của các đạo diễn (Quinzaine des réalisateurs). Hai tuần của các đạo diễn
được lập ra nhằm giới thiệu các bộ phim quốc tế của những đạo diễn còn ít tên
tuổi[25] và không có cơ hội dự thi
chính thức ở Cannes với khẩu hiệu "Điện ảnh tự do" ("Cinéma en
liberté").
Trong lần tổ chức đầu tiên, đã có 62 phim dài và 26 phim ngắn
được trình chiếu[26] miễn
phí cho công chúng. Tác phẩm khai mạc cho sự kiện là bộ phim Cuba La
Première charge của đạo diễn Manuel Octavio Gómez, ngay
lập tức nó đã được các nhà phân phối phim của Nhật Bản đặt mua.
Năm 1972, cơ cấu lãnh đạo của liên hoan phim có thay đổi lớn khi Robert Favre Le Bret được
chỉ định làm chủ tịch liên hoan phim (président) còn Maurice Bessy được
chọn làm Tổng đại diện liên hoan phim (délégué général). Ban lãnh đạo mới đã
tiến hành thay đổi cách lựa chọn phim tham gia dự thi tại Cannes. Nếu như trước
kia các bộ phim quốc tế được các chính phủ gửi tới tham dự thi[27] thì
từ năm 1972, ban
lãnh đạo liên hoan phim cho thành lập hai hội đồng lựa chọn phim riêng, một cho
phim Pháp và một cho phim quốc tế. Sự thay đổi này đã gây ra một số khó khăn
cho việc lựa chọn phim tham gia Liên
hoan phim Cannes 1972.[27]
Tới năm 1978, cơ cấu lãnh đạo liên hoan phim lại một lần nữa thay đổi.[28] Gilles Jacobđược cử
làm giám đốc liên hoan phim, ông đã cho thành lập giải thưởng mới Máy quay vàng (Caméra
d'or) để trao cho phim đầu tay xuất sắc nhất được lựa chọn bởi một ban giám
khảo riêng.
Để trợ giúp cho các bộ phim ít tiếng tăm trong việc phát hành,
Gilles Jacob cũng cho thành lập sự kiện Un
Certain Regard (Một cách nhìn khác). Dưới sự lãnh đạo của Jacob, thời
gian diễn ra liên hoan phim được giảm từ hai tuần xuống còn 13 ngày kéo theo
việc giảm số lượng các phim chính thức dự tranh liên hoan phim.[29] Một
thay đổi lớn khác của liên hoan phim đó là thành phần ban giám khảo, nếu như
trước kia thành viên ban giám khảo chủ yếu là các viện sĩ Viện Hàn lâm Điện ảnh
thì từ năm 1978, những
người được chọn thường là các nhà điện ảnh quốc tế có tên tuổi. Liên hoan phim
Cannes cũng lần đầu được tường thuật liên tục trên truyền hình thông qua
đài Antenne 2. Quy
mô mở rộng của liên hoan phim Cannes khiến cho Cung Liên hoan và Hội nghị không
còn đáp ứng được nhu cầu của công chúng.[30] Năm 1983, Cung
Liên hoan được mở rộng nhưng do sự thiếu nhất trí từ những người tổ chức[31] công
trình đã không hoàn thành kịp để phục vụ Liên
hoan phim Cannes 1983 khiến cho lễ trao giải của liên hoan phim chút nữa phải
hủy bỏ.[32] Năm 1984 chứng
kiến sự thay đổi vị trí chủ tịch liên hoan phim khi Pierre Viot được
bầu thay thế Robert Favre Le Bret.
Liên hoan Cannes cũng dần trở thành nơi tôn vinh các nhà điện
ảnh huyền thoại. Năm 1985 chỉ ít lâu sau khi đạo diễn nổi tiếng François Truffaut qua đời, tất cả các ngôi sao
điện ảnh tham dự Liên
hoan phim Cannes 1985 đã hội tụ để tưởng nhớ tới đạo diễn hàng đầu của điện ảnh
Pháp. Vài năm sau đó, tại Liên
hoan phim Cannes 1989, các con và cháu của Charlie
Chaplin cũng được mời lên sâu khấu vinh danh nhân dịp kỉ niệm 100
năm ngày sinh Vua hài. Năm 1995, để
vinh danh nữ chủ tịch ban giám khảo liên hoan Jeanne
Moreau, nữ ca sĩ Vanessa
Paradis đã lên sâu khấu trình bày lại ca khúc Le
Tourbillon de la vie của bộ phim Jules et Jim mà
Moreau là ngôi sao chính.[33] Năm
diễn viên của bộ phim Indigènes là Samy Naceri, Jamel Debbouze, Roschdy Zem, Sami Bouajila và Bernard Blancan khi
được đồng trao giải Vai nam chính xuất sắc nhất đã đồng ca bài hát Le
Chant des tirailleurs để tưởng nhớ những người lính gốc thuốc địa đã
chiến đấu vì nước Pháp trong Thế chiến Thứ hai, đây
chính là nội dung của bộ phim Indigènes.
Tại Liên
hoan phim Cannes 1998, Gilles Jacob cho thành lập quỹ Cinéfondation nhằm
hỗ trợ việc làm phim trên thế giới cũng như giúp các nhà điện ảnh trẻ tạo dựng
danh tiếng.[34] Hàng
năm Cinéfondation đưa các đạo diễn từ nhiều nước trên thế giới tới làm việc tại Paris, hỗ
trợ họ về kịch bảnvà tài chính cũng như tạo điều kiện cho các
nhà điện ảnh này tới xem miễn phí tại nhiều rạp phim của Paris.[35] Từ
đầu thập niên 2000, Cinéfondation còn giúp hơn
1000 bộ phim của các nhà làm phim sinh viên được trình chiếu tại liên hoan phim
Cannes. Bắt đầu từ Liên hoan phim Cannes 2005, quỹ
Cinéfondation đứng ra tổ chức Atelier (Xưởng phim), nơi các đạo diễn trẻ có thể
trao đổi và học hỏi kinh nghiệm làm phim từ những nhà điện ảnh danh tiếng.[36]
Từ năm 2002, Liên hoan phim quốc tế (Festival international du film) bắt
đầu lấy tên chính thức là Liên hoan Cannes (Festival de Cannes), tên gọi vốn đã
được sử dụng rộng rãi từ trước đó.[37]
Hiện tại
Năm 2007 liên hoan phim Cannes kỉ niệm sinh nhật lần thứ 60, sự
kiện này đã gây ra một số thắc mắc vì liên hoan được tổ chức lần đầu năm 1946 và
tính cho đến năm 2007 thì mới có 59 liên hoan phim Cannes được tổ chức (liên
hoan không được tổ chức vào các năm 1948 và 1950).
Nhân dịp này các nhà tổ chức đã cho trình chiếu bộ phim dài kỉ
lục của liên hoan, đó là bộ phim tài liệu "The War"
về Chiến tranh thế giới thứ hai của
đạo diễn Ken Burns. Với thời lượng 14 tiếng, bộ phim đã phá
kỉ lục trước đó là 6 tiếng của phim Nos
meilleures années và 4 tiếng 40 phút của Parsifal.
Cũng tại liên hoan này, Luc Besson, chủ
tịch Liên
hoan phim Cannes 2000, đã thành lập sự kiện "Liên hoan phim Cannes và ngoại
ô" (Festival Cannes et Banlieues)[38] với
khẩu hiệu "Nếu bạn không thể tới Cannes, Cannes sẽ tới với bạn!" (Si
tu ne peux pas aller à Cannes, c'est Cannes qui viendra à toi!) nhằm mục
đích trình chiếu các bộ phim dự thi chính thức tại những vùng ngoại ô của Paris
kèm theo một bộ phim ngắn nói về lịch sử 60 năm của liên hoan Cannes.
Giải
Cành cọ vàng
Giải Cành cọ vàng có từ năm 1955 dành cho phim xuất sắc nhất.
Các
giải thưởng khác
Dành cho
phim truyện
·
Un certain regard: Giải thưởng dành cho bộ phim có ý tưởng mới
và đạo diễn trẻ. Những phim được giải này sẽ được giúp đỡ để phát hành tại
Pháp.
Dành cho
phim ngắn
·
Prix du Jury - court métrage: Giải thưởng của ban giám khảo dành
cho phim ngắn.
Phim
được trao giải Cành cọ vàng tính theo quốc gia sản xuất
18
|
|
12
|
|
9
|
|
8
|
|
4
|
|
2
|
|
1
|
Cơ
cấu
Cơ cấu
chính thức
Các bậc thang của Cung Liên hoan và Hội nghị.
Hai sự kiện chính của Le Festival de Cannes comprend deux
grandes sections qui englobent plusieurs sous-parties, dont la plus ancienne
est La
Semaine de la critique[39], créée
en 1962. Voici
la liste de ces sections:
·
La sélection officielle:
·
Longs métrages en compétition
·
Longs métrages hors compétition
·
Courts métrages en compétition
·
Les sections parallèles créées par le Festival:
·
Les sections parallèles créées par un organisme extérieur:
Lựa chọn
phim
Một bộ phim đủ tiêu chuẩn tham gia liên hoan Cannes chỉ khi nó
được hoàn thành trong vòng 12 tháng trước liên hoan và chỉ được chiếu tại nước
sản xuất cũng như chưa được tham gia một liên hoan phim quốc tế nào khác. Với
phim ngắn, thời gian tối đa cho một phim tham gia dự thi là 15 phút..[40] Hiện nay việc lựa chọn
phim tham gia thi được tiến hành bởi hai hội đồng[41] với
1 do Gilles Jacob thành
lập và Thierry Frémaux điều
hành với nhiệm vụ duyệt phim nước ngoài. Thành phần hội đồng chọn phim nước
ngoài gồm 4 người, một nhà báo, một đạo diễn, một người yêu điện ảnh và Laurent Jacob, con
trai của Gilles Jacob. Hội đồng thứ hai chuyên duyệt phim Pháp cho tới nay vẫn
được giữ bí mật về thành phần tham gia hội đồng. Hai hội đồng này sẽ duyệt 6
phim một ngày với số lượng phim thuộc nhiều thể loại mỗi năm một tăng. Nếu như
năm 2005, các
hội đồng chọn phim phải xem 3.200 phim điện ảnh thì con số này của năm 2007 đã
lên tới 4.000 phim.[41] Trước kia chính phủ Pháp
đôi khi cũng gây sức ép tới quyết định của hội đồng, tuy nhiên việc này đã chấm
dứt từ thập niên 1970.[42]
Giải
thưởng
Tại liên hoan phim Cannes đầu tiên vào năm 1946, chỉ
có duy nhất một Giải
thưởng lớn (Grand prix) để trao cho phim xuất sắc nhất. Một năm sau
đó giải thưởng được chia thành nhiều hạng mục như phim phiêu lưu và hình sự,
phim hoạt hình, phim tâm lý tình cảm, phim xã hội và phim ca nhạc hài kịch.
Cách phân chia này chỉ diễn ra duy nhất trong Liên
hoan phim Cannes 1947. Trong thập niên 1950, đặc biệt là trong thời gian Jean
Cocteau làm chủ tịch liên hoan phim, người ta đã trao nhiều giải
thưởng khá đặc biệt, ví dụ Giải phim trữ tình (Prix du film lyrique) tại Liên
hoan phim Cannes 1952 hay Giải quốc tế cho phim hài (Prix International du film
de la bonne humeur) tại Liên
hoan phim Cannes 1953 hay thậm chí là Giải quốc tế cho phim kể chuyện bằng hình
ảnh xuất sắc nhất (Prix International du film le mieux raconté par l'image)
cũng tại Liên hoan 1953. Sau khi ban giám khảo trao cho Barton Fink ba
giải quan trọng tại Liên
hoan phim Cannes 1991, luật trao giải đã được sửa đổi sao cho một bộ phim không thể
được nhận quá nhiều giải, trừ giải diễn xuất thì có thể kèm theo một giải khác.[43]
Từ Liên
hoan phim Cannes 1955, giải thưởng cao quý nhất được trao tại Cannes là giải Cành cọ vàng (Palme d'or) trao cho phim hay nhất.
Đứng thứ hai sau giải Cành cọ vàng là Giải thưởng lớn của ban giám khảo (Grand
prix). Danh sách cụ thể các giải thưởng gồm:
·
Giải chính thức cho phim dài:
·
Giải
cho nam diễn viên xuất sắc nhất (Prix d'interprétation
masculine) trao cho nam diễn viên có diễn xuất tốt nhất.
·
Giải
cho nữ diễn viên xuất sắc nhất (Prix d'interprétation
féminine) trao cho nữ diễn viên có diễn xuất tốt nhất.
·
Giải kỷ
niệm của liên hoan phim Cannes (Trophée du Festival de
Cannes) để vinh danh các nghệ sĩ điện ảnh cho toàn bộ sự nghiệp.
·
Giải
phê bình phim quốc tế (Prix de la Critique internationale), được trao riêng
năm 1946 cho
đạo diễn Georges Rouquier với
phim Farrebique vốn
không lọt qua vòng tuyển chọn phim.
·
Giải chính thức cho phim ngắn:
·
Các giải thưởng khác:
·
Giải
nhà làm phim trẻ (Prix de la jeunesse) được một ban giám khảo gồm các nhà
làm phim trẻ trao cho tác phẩm đầu tay hoặc tác phẩm thứ hai của một nghệ sĩ.
·
Giải Roberto Rossellini trao
cho các nhà điện ảnh thể hiện những giá trị nhân văn theo phong cách của Roberto Rossellini
Lãnh đạo
Ban lãnh đạo của liên hoan phim gồm rất nhiều người đảm nhiệm
các vị trí khác nhau. Tính đến Liên
hoan phim Cannes 2000, vị trí lãnh đạo cao nhất (direction) của liên hoan được chia thành
hai vị trí: Chủ tịch (Président) và Tổng đại diện (Délégué général), tương
đương với vai trò điều hành chung và giám đốc nghệ thuật của liên hoan phim.
Từ Liên
hoan phim Cannes 2001, sau khi Gilles Jacob được
bầu làm Chủ tịch liên hoan phim, để trợ giúp cho Jacob, người ta đã lập ra hai
vị trí mới là Tổng giám đốc (directeur générale) phụ trách điều hành và Đại
diện nghệ thuật (Délégué artistique) phụ trách lựa chọn phim. Ban lãnh đạo của
liên hoan phim Cannes từ năm 2001 cũng được bổ sung vị trí quản lý tài chính
(contrôleur financier). Dưới đây là danh sách những người đảm nhiệm các vị trí
lãnh đạo cao nhất trong hơn 60 năm lịch sử liên hoan phim:[40]
Année Nom Rôle
Tổng thư ký (Secrétaire général)
Người chịu trách nhiệm tiếp
nhận tác phẩm dự thi.
Đại diện nghệ thuật (Délégué artistique)
Người chịu trách nhiệm lựa
chọn tác phẩm tham gia thi chính thức.
Tổng đại diện (Délégué général)
Người được chủ tịch liên
hoan phim lựa chọn để quản lý chung và trợ giúp trực tiếp chủ tịch.
Chủ tịch (Président)
Người chịu trách nhiệm
chính của liên hoan phim.
Tổng giám đốc (Directeur général)
Người giám sát các hoạt động
của liên hoan phim, đây là vị trí cao thứ hai trong ban lãnh đạo sau chủ tịch.
Liên
hoan phim
Lễ hội
Trong chừng hơn 10 ngày, cuộc sống của toàn bộ thành phố biển
Cannes bị xáo trộn vì liên hoan phim đặc biệt là tại khu vực Đại lộ Croisette. Trong
mỗi ngày của liên hoan phim, một bộ phim dự thi chính thức sẽ được chiếu trước
công chúng và giới báo chí trong đó buổi chiếu chính thức thường là buổi chiếu
tối với màn ra mắt của các ngôi sao tham gia phim cũng như đạo diễn của bộ
phim. Trong các buổi chiếu này, giới báo chí sẽ được nhận quyền ưu tiên do cơ
quan báo chí của liên hoan phim cung cấp.[44] Trang
phục của các ngôi sao khi bước trên thảm đỏ ra mắt công chúng (montée des
marches) được quy định rất chặt chẽ.[44] Với
nam là smoking kiểu
truyền thông còn nữ là váy đầm dạ hội thường do các nhà mốt nổi tiếng thiết kế.[45] Tuy
nhiên vẫn có những nhân vật nổi tiếng không tuân theo quy định này, tiêu biểu
là Pablo Picasso khi tham dự Liên
hoan phim Cannes 1953 chỉ mặc một chiếc áo vest da cừu chứ không mặc cả bộ
smoking.[46] Bên
cạnh các buổi trình chiếu chính thức, liên hoan Cannes còn là nơi quảng bá cho
các bộ phim mới cũng như trao đổi hợp đồng phim quốc tế thông qua vô số các lễ
hội nhỏ với sự tham gia của các ngôi sao điện ảnh.[47]
Từ Liên
hoan phim Cannes 1991, ban tổ chức liên hoan bắt đầu mở chương trình La leçon
de cinéma ("Bài học điện ảnh"). Đây là các buổi nói chuyện
do những nhân vật có tiếng của điện ảnh thế giới như Nanni Moretti, Oliver
Stone, Stephen Frears, Francesco Rosi, Vương Gia Vệ hay Sydney
Pollack chủ trì.[48] Những
người chủ trì sẽ nói chuyện về những kinh nghiệm của họ trong nghề điện ảnh
nhằm giúp những người yêu điện ảnh hiểu thêm về nghệ thuật thứ bảy cũng như các
công đoạn liên quan tới việc làm phim. Từ năm 2003, tiếp
nối thành công của La leçon de cinéma, ban tổ chức liên hoan phim
mở La leçon de musique ('Bài học âm nhạc") với người chủ
trì là những nhạc sĩ danh tiếng như Nicola Piovanihay Alexandre Desplat, tới
năm 2004 công
chúng được tiếp cận với các ngôi sao điện ảnh thông qua Leçon d'acteur ("Bài
học diễn viên") với nhiều diễn viên nổi tiếng như Catherine
Deneuve, Max Von Sydow và Gena Rowlands.
Truyền
thông và tài trợ
Hãng mua bản quyền truyền hình của liên hoan phim Cannes trong
thời gian gần đây là Canal+, hãng
này đã bỏ ra 6,5 triệu euro để tường thuật trực tiếp Liên
hoan phim Cannes 2007.[49] Các
nhà tài trợ lớn khác của liên hoan phim là tập đoàn mỹ phẩm L'Oréal,[50] hãng
sản xuất xe hơi Renault và Audi.[51][51]
Bên cạnh các tờ báo và tạp chí lớn chuyên tường thuật về liên
hoan như Paris Match, Le
Monde, Première, liên
hoan Cannes cũng đón một lượng lớn các báo và kênh truyền hình hàng năm. Tính
riêng năm 2007 tại
Cannes đã có 4.500 nhà báo, 300 phóng viên ảnh của trên 1.000 báo viết, 300
kênh truyền hình và 200 hãng thông tấn, 150 đài phát thanh tới đưa tin về sự
kiện hàng đầu của điện ảnh thế giới này.[52]
Các kỷ
lục
Trong số các nhà điện ảnh tham dự liên hoan phim thì có một số
người thường được hưởng sự ưu ái từ ban tổ chức vì phong cách và nghệ thuật làm
phim của họ. Trên áp phích kỉ niệm 60 năm ngày thành lập liên hoan phim Cannes,
người ta có thể thấy 9 nhà điện ảnh nổi tiếng được coi là "con cưng"
("chouchou") ở Cannes, đó là Souleymane Cissé, Penélope
Cruz, Vương Gia Vệ, Juliette
Binoche, Jane
Campion, Gérard Depardieu, Bruce
Willis, Samuel
L. Jackson và Pedro Almodóvar.[53] Các
đạo diễn từng hai lần giành giải Cành cọ vàng, giải thưởng cao quý nhất của liên hoan,
là Francis Ford Coppola (với The Conversation và Apocalypse
Now), Bille
August (với Pelle le conquérant và Les
Meilleures Intentions), Shōhei Imamura (với La
Ballade de Narayama và L'Anguille), Emir Kusturica (với Papa
est en voyage d'affaires và Underground), Luc và Jean-Pierre Dardenne (với Rosetta và L'Enfant). Emir
Kusturica ngoài hai giải Cành cọ vàng còn được trao giải Đạo diễn xuất sắc nhất
(Prix de la mise en scène) với Le Temps des Gitans và
giải Giáo dục quốc gia (prix de l'Education Nationale) với La vie est un miracle. Trong
số các đạo diễn có nhiều phim được chọn tham dự liên hoan có thể kể tới Federico
Fellini và Carlos Saura (11
phim), Ingmar Bergman và André Téchiné (10
phim), Wim Wenders, Luis Buñuel, Michael Cacoyannis, Ettore Scola và Andrzej Wajda (9
phim) hay Claude Lelouch (7
phim).
Trong lịch sử hơn 60 năm của giải Cannes, chỉ có rất ít diễn
viên từng hai lần được trao giải thưởng ở hạng mục diễn xuất. Các nam diễn viên
từng hai lần giành giải Vai nam chính xuất sắc nhất (Prix d'interprétation
masculine) là Marcello Mastroianni (Drame de la jalousie và Les
Yeux noirs), Dean Stockwell (Le Génie du mal và Long
voyage vers la nuit) và Jack Lemmon (Missing và Le Syndrome chinois). Các
nữ diễn viên từng hai lần giành giải Vai nữ chính xuất sắc nhất (Prix
d'interprétation féminine) là Isabelle
Huppert (Violette
Nozière và La Pianiste), Helen
Mirren (Cal và La
Folie du roi George), Barbara Hershey (Le Bayou và Un
monde à part) và Vanessa
Redgrave (Morgan và Isadora).
Chỉ
trích và bê bối
Quyết
định của ban giám khảo
Francis Ford Coppola tại Liên hoan phim Cannes 2001, ông là người đồng chiến thắng giải Cành cọ vàng năm 1979
với Volker
Schlöndorff.
Các quyết định của ban giám khảo liên hoan phim Cannes đã nhiều
lần gây ra tranh cãi hoặc chịu sự chỉ trích từ phía báo giới và từ chính các
thành viên ban giám khảo.[54] Năm 1960, tác
phẩm L'Avventura, phần
đầu trong bộ ba phim L'Éclipse và La Nuit của Michelangelo Antonioni khi
công chiếu đã nhận được phản ứng hết sức lạnh nhạt của công chúng, thậm chí khi
đạo diễn và nữ diễn viên chính của phim lên nhận Giải của Ban giám khảo, họ còn
bị khán giả ném cà chua.[55] Bảy
tháng sau khi được chỉ định làm chủ tịch ban giám khảo Liên
hoan phim Cannes 1979, nữ nhà văn Françoise Sagan trên tờ Le Matin de Paris đã
chỉ trích ban giám đốc của liên hoan phim Cannes trong việc gây sức ép lên ban
giám khảo (vốn nghiêng về bộ phim Le Tambour của Volker Schlöndorff) nhằm
trao giải Cành cọ vàng cho tác phẩm Apocalypse
Now của Francis Ford Coppola.[56] Kết
quả cuối cùng của liên hoan 1979 là cả hai bộ phim cùng được chấm ngang điểm và
cùng được trao giải Cành cọ vàng. Theo quy tắc thông thường, các thành viên ban
giám khảo sẽ giữ bí mật quyết định của mình kể cả sau khi liên hoan phim kết
thúc, vì vậy những tiết lộ của Sagan đã châm ngòi cho báo giới Pháp chỉ trích
nặng nề liên hoan phim, tuy nhiên ban giám đốc của liên hoan không hề đáp lại
hoặc giải thích chính thức về những chỉ trích này.[56] Đôi
khi những bê bối về giải thưởng đến từ sự thiếu nhất trí của các thành viên ban
giám khảo. Trong Liên
hoan phim Cannes 1987, bộ phim Les
Yeux noirs của đạo diễn người Liên Xô Nikita Mikhalkov được
đa số thành viên ban giám khảo yêu thích, tuy nhiên vị giám khảo Elem Klimov lại
cho rằng tác phẩm của Mikhalkov chỉ là "rác rưởi" và dọa sẽ rút khỏi
ban giám khảo nếu Les Yeux noirs được trao giải Cành cọ vàng.[56] Cuối
cùng để tránh cho liên hoan khỏi đổ vỡ, ban giám khảo quyết định trao Cành cọ
vàng cho bộ phim của đạo diễn Maurice Pialat Sous le
soleil de Satan.[56] Cũng
tại Liên
hoan phim Cannes 1987, bộ phim Yeelen của Souleymane Cissé trở
thành tác phẩm điện ảnh đầu tiên của châu
Phi tham gia liên hoan Cannes và lập tức được trao Giải của
Ban giám khảo. Trong buổi lễ trao giải, một người đàn ông đã nhảy lên cướp
micro và xỉ nhục đạo diễn Cissé khiến đạo diễn Maurice Pialat, người
đã ủng hộ bộ phim từ khi nó còn bị công chúng phản đối, phải can thiệp ngay
trên sân khấu trao giải.[57] Tại Liên
hoan phim Cannes 1994, bộ phim gây nhiều tranh cãi Pulp
Fiction của đạo diễn Quentin
Tarantino khi nhận giải Cành cọ vàng cũng gặp phải sự la ó từ khán
giả, Tarantino đã trả đũa bằng một ngón tay giữa.[58] Năm 2004, tới
lượt chính Quentin Tarantino, với tư cách trưởng ban giám khảo, bị một số ý
kiến nghi ngờ rằng ông thiên vị khi trao giải Cành cọ vàng cho bộ phim tài liệu
cũng gây nhiều tranh cãi là Fahrenheit
9/11 của đạo diễn Michael Moore.[57]
Ban giám khảo liên hoan phim Cannes còn chịu sự chỉ trích vì đã
bỏ qua nhiều đạo diễn huyền thoại trong danh sách trao giải. Có thể kể tới các
đạo diễn Ingmar Bergman, Woody
Allen, Alfred
Hitchcock, Stanley
Kubrick, Steven
Spielberg, Claude Sautet, Bertrand Tavernier, André Téchiné và François Truffaut.[59] Đạo
diễn nổi tiếng của Điện ảnh Pháp Jean-Luc
Godard thì thập chí tới năm 1980 mới
có phim đầu tiên được chọn tham gia thi chính thức tại Cannes là Sauve
qui peut (la vie). Cho tới năm 2009 cũng
mới chỉ có duy nhất một nữ đạo diễn từng được trao giải Cành cọ vàng, đó là nữ
đạo diễn người New Zealand Jane
Campion với bộ phim La Leçon de piano. Về
phía hội đồng chọn phim của liên hoan phim Cannes, tổ chức này cũng thường bị
báo giới chĩa mũi nhọn vì hiếm khi chọn các phim thuộc thể loại võ hiệp hoặc
kinh dị tham dự thi.[60]
Kiểm
duyệt
Khách sạn "Majestic" nổi tiếng của
liên hoan phim.
Trong thời gian đầu, các bộ phim được chọn tham dự liên hoan
phim thường phải đảm bảo điều kiện của chính phủ Pháp là không động chạm tới
chính trị các nước có phim tham gia.[61] Năm 1956, nước
chủ nhà Pháp đã chấp nhận đề nghị của Cộng
hòa Liên bang Đức rút bộ phim tài liệu Nuit et
brouillard của đạo diễn Alain Resnais ra
khỏi liên hoan vì nó nói tới vấn đề nhạy cảm Shoah và
các trại tập trung của Đức Quốc xã.[62] Đã
có một số cuộc biểu tình ở Pháp và Đức diễn ra để phản đối quyết định này.[62][63] Kể
từ năm 1956, sự
can thiệp của chính trị vào việc kiểm duyệt phim tham gia dự thi gần như được
bãi bỏ. Năm 2003, Guizi lai le của đạo diễn Khương Văn được dự thi chính thức mặc dù nó chưa
được cấp phép chiếu tại quốc gia sản xuất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bộ
phim vì vậy mặc dù được đánh giá cao tại Cannes nhưng vẫn bị cấm chiếu 5 năm
tại Trung Quốc.[64] Tại Liên
hoan phim Cannes 2007, Quỹ điện ảnh Farabi thuộc Bộ Văn hóa Iran đã gửi thư chính
thức tới đại sứ quán Pháp tại Tehran để
phản đối việc bộ phim hoạt hình Persépolis của Marjane Satrapi được
chọn dự thi chính thức với lý do đây là một hành động chính trị và phản văn
hóa.[65][66], tuy
nhiên bộ phim vẫn được chiếu tại Cannes và nhận được nhiều lời tán thưởng.
Không chỉ gặp cản trở từ phía chính phủ các quốc gia, đôi khi
Liên hoan phim Cannes còn gặp chỉ trích đến từ Giáo hội Công giáo. Năm 1960,
tờ L'Osservatore Romano của Vatican đã
đăng liền 7 bài báo chỉ trích bộ phim Ý La Dolce Vita của
đạo diễn Federico Fellini lúc đó vừa được trao giải
Cành cọ vàng, các giáo dân còn bị cảnh báo sẽ bị rút phép thông công nếu xem bộ phim này. Mãi
cho tới năm 1994, vài tháng sau khi đạo diễn Fellini qua đời, Nhà thờ Công giáo
mới xóa bỏ luật cấm.[67] Tại Liên
hoan phim Cannes 1961, bộ phim Viridiana của Luis Buñuel mặc
dù được dự thi chính thức nhưng lại bị cấm tại chính quốc gia sản xuất là Tây Ban
Nha[68] và
bị Nhà thờ Công giáo La Mã chỉ trích vì tội báng bổ.[69] Tất
cả những cản trở kể trên vẫn không ngăn được ban giám khảo liên hoan phim
Cannes trao cho Viridiana giải thưởng cao nhất Cành cọ vàng.
Năm 2006, một
lần nữa Liên hoan phim Cannes bị Nhà thờ Công giáo chỉ trích vì đã khai mạc
bằng bộ phim gây nhiều tranh cãi Mật mã
Da Vinci của đạo diễn Ron
Howard.[70].
Bê bối
Ngay tại liên hoan phim Cannes chính thức đầu tiên năm 1946, buổi
công chiếu bộ phim Les Enchaînés của
đạo diễn Alfred Hitchcock đã trở thành thảm họa khi
các kỹ thuật viên trộn lẫn các cuộn phim với nhau.[71]Năm 1975, Cung
Liên hoan và Hội nghị Cannes đã bị một tổ chức quá khích đánh bom, rất may là
không có ai bị thương và liên hoan vẫn tiếp tục diễn ra như bình thường.[72] Năm 1983, một
sự kiện hi hữu đã diễn ra ở Cannes khi các phóng viên ảnh đồng loạt bãi công để
phản đối việc ngôi sao của phim L'Été
meurtrier là Isabelle
Adjani từ chối tham gia họp báo.[73]
Năm 1954, liên hoan Cannes phải đối mặt với vụ bê bối lớn khi nữ diễn
viên Simone Silva trong
khi chụp ảnh với ngôi sao Robert
Mitchum trước báo giới đã đồng ý bỏ áo ngực để thay vào đó là hai
bàn tay của Mitchum. Vụ bê bối này vừa làm ảnh hưởng tới liên hoan, vừa hủy
hoại sự nghiệp của Silva, cô tự tử sau sự kiện này chỉ 3 năm.[74] Tại Liên hoan phim Cannes 2005, trong
khi bước trên thảm đỏ, Sophie
Marceaucũng bất cẩn để lộ một phần ngực, sự kiện này cũng gây nên một
vụ bê bối nhỏ.
Phụ
lục
1/ Các quốc gia có nhiều phim dự thi chính
thức nhất:
2/ Các quốc gia có ít phim dự thi chính thức
nhất (1 phim):
3/ Đã có tổng cộng 1.825 phim được chiếu chính
thức tại 50 liên hoan phim Cannes với bộ phim đầu tiên là Les Enchaînés của
đạo diễn Alfred Hitchcock.
4/ Từ năm 1946 đến
năm 1996 đã
có tổng cộng 58 Cành cọ vàng được trao, các nước giành được nhiều Cành cọ vàng
nhất là:
Phim điện ảnh
·
1978: Evening in Byzantium của Jerry London. Liên
hoan bị tấn công và phải tạm ngưng do khủng bố. Đạo diễn bởi Jerry London với
diễn xuất của Glenn Ford và Eddie Albert. Dựa
trên tác phẩm của Irwin Shaw.
·
1979: Une
affaire presque parfaite của Jerry London. Một bộ
phim tình cảm hài hước về chuyện tình giữa một nhà làm phim với vợ của người sản
xuất diễn ra trong chính liên hoan phim Cannes với diễn xuất của Keith Carradine.
·
1994: La Cité
de la peur của Alain Berbérian. Một
phim hài được đạo diễn bởi Alain Berberian với
diễn xuất của Alain Chabat, Chantal Lauby, Gérard Darmon.
·
2001: Festival in Cannes của Henry Jaglom. Phim
về màn thỏa thuận của ngành công nghiệp giải trí giữa những nhà làm phim với
nhau diễn ra trong suốt liên hoan phim. Đạo diễn bởi Henry Jaglom với diễn xuất
của Greta Scacchi, Maximilian
Schell và Ron Silver.
·
2002: Femme
fatale của Brian De Palma. Phim
hành động kể về việc đánh cắp những viên kim cương được đeo bởi một người mẫu nổi
tiếng nhân dịp dự liên hoan. Đạo diễn bởi Brian De Palma với
diễn xuất củaRebecca Romijn và Antonio
Banderas.
No comments:
Post a Comment