Sunday, November 15, 2015

Lục-Vân-Tiên

... Tiếp theo ...

9.- Vân-Tiên được tin mẹ chết, quày quả trở về (câu 553 - câu 846)

Khai phong mới tỏ sự cơ,
Mình gieo xuống đất dật-dờ hồn hoa.
Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
Trời Nam, đất Bắc xót xa đoạn tràng.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công danh.
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay
từ mẫu u-minh sớm dời.
561.- Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở, liệu thời qui-lai.
Tiểu-đồng thở vắn than dài,
"Trời ơi! trời nỡ phụ tài người ngay."
Trực rằng: "Đã đến nỗi nầy,
"Tiểu đồng, bậu hãy làm khuây giải phiền.
"Sớm mai thang thuốc giữ-gìn,
"Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay.
"Bây giờ kíp rước thợ may,
"Sắm đồ
tang phục, nội ngày cho xong.
571.- "Dây rơm, mũ bạc, áo thùng,
"Cứ theo trong sách Văn-công mà làm."
Tiên rằng: "Mẹ Bắc con Nam,
"Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
"Trong mình không cánh không vi,
"Lấy chi bớt dặm, lấy chi bớt đàng."
Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ-ngàng kẻ đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi còn gì mà trông.
581.- Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng,
chín chìu ruột đau.
Thương thay
chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
"Gió mưa đâu phút gãy cành
thiên hương."
Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề
báo hiếu, lỡ đường lập thân.
591.- Dầu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại, mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạc-tác vừa ra,
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ
ưu phiền,
"Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau."
601.- Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu
khá thương.
Vân-Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh-Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán
bôn-ba theo cùng.
Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
"Đưa ba huờn thuốc để phòng
hộ thân.
"Chẳng may gặp lúc
gian-truân,
"Đương khi quá đói, thuốc thần cũng no."
611.- Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần."
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
"Thấy vầy nên mới
tị-trần đến đây.
"Non xanh nước biếc vui-vầy,
"Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan.
"Dấn thân vào chốn
an nhàn,
"Thoát vòng
danh lợi, lánh đàng thị-phi."
Nói rồi quày-quả ra đi,
Vân-Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
621.- Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại
não-nồng đòi cơn.
Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu
dưỡng dục, lo ơn sinh thành.
Mang câu
bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn dồi một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.
631.- Một mình ngơ ngẩn
đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay
lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dậy
khoa trường còn xa.
Tiểu-đông thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
"Thế sao chẳng bớt cơn sầu,
"Mình đi đã mỏi, giòng châu thêm nhuần.
"E khi mang bệnh nửa chừng.
"Trông nom khó liệu, giũa rừng khôn toan."
641.- Tiên rằng: "Khô héo lá gan!"
Ôi thôi! con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu,
Chân đi đã mỏi, mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ôi! thân biết mấy lần chẳng may!
Đồng rằng: "Trời đất có hay,
"Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
"Một mình nhắm trước xem sau,
"Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây.
651.- "Vốn không làng xóm chi đây,
"Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang."
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng-Văn.
Dắt nhau khi ấy hỏi phăng,
Gặp thầy làm thuốc, hiệu là Triệu-Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
"Rạng ngày coi mạch
đầu thang mới đành.
"Gặp ta bệnh ấy ắt lành,
"Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
661.- Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
"Xin thầy nghĩ lượng được
điều thuốc-thang.
"May mà bệnh ấy đặng an,
"Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy."
Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy,
"Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
"Sách chi cũng đủ trong nhà,
"
Nội-kinh đã sẵn, ngoại-khoa thêm mầu.
"Trước xem
y-học làm đầu,
"Sau coi
Thọ-Thế, thứ cầu Đông-Y.
671.- "Gẫm trong
Ngân-Hải, Tinh-vi,
"Cùng là
Cang-mục thua gì Thanh-nang.
"Gẫm trong Tập-nghiêm
lương phang,
"Cùng là
Ngự-toản trải đàng Hồi-xuân.
"Vị chi sẵn đặt
quân-thần,
"Thuốc thời
bào chế mười phần nở-nang.
"Mạch thời đọc mạch
Lư-san,
"Đặt vào tay bệnh biết đàng
tử-sinh.
"
Lục-quân. Tứ-vật thang danh,
"
Thập-toàn, Bát-vị, sẵn dành nội thương.
681.- "Lại thông
bát trận tân phương,
"Lâm nhằm
ngoại cảm đầu thang Ngũ-sài."
Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
"Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi."
Ngang rằng: "
Lục bộ đều suy,
"Bộ quan bên tả, mạch đi
phù-hồng.
"Cứ trong
kinh lạcthông,
"
Mạng môn tước quả đã xông lên đầu.
"
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
"Muốn cho
giáng hỏa, phải đầu Tư-âm.
691.- "
Huỳnh-liên, huỳnh bá, huỳnh-cầm,
"
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.
"Ngoài thời cho điểm vạn-linh,
"Trong thời cho uống hoàn-tình mới xong.
"Khá trao hai lượng bạc ròng,
"Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
"Chảng qua làm phúc cho chàng,
"Nào ai đòi chuộc đòi đàn chi ai."
Tiểu-đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội-vàng mở gói chẳng nài liền trao.
701.- Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ, như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
"Bệnh thời không giảm, thầy đòi tiền thêm."
Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,
"Tiên-sư mách bảo một điềm chiêm bao.
"Quỉ-thần người ở trên cao,
"E khi đường-sá lẽ nào biết đâu?
"Tiểu-đồng ngươi khá qua
cầu,
"Cùng ông thầy bói ở đầu
Tây-viên."
711.- Tiểu-đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn-hoi,
"Bói hay đã dậy, người coi đã đầy.
"Ta đây nào phải các thầy,
"Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm.
"
Ôn nhuần, Châu-diệc mấy năm,
"Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.
"
Huỳnh-kim, Dã-hạc sách cao,
"
Lục-nhâm, Lục-giáp chỗ nào chẳng hay."
721.- "
Can, chi đều ở trong tay,
"Đã thông trời đất, lại hay việc người.
"Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
"Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành.
"Thầy bèn gieo đặng quẻ lành,
"Chiếm tên tuổi ấy
lộ-trình mắc chi?
"Ứng vào rùa với
cỏ thi,
"Rồi thầy coi quẻ, một khi mới tường."
Đồng rằng: "Người ở
Đông-phương,
"Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.
731.- "Con nhà họ Lục là chàng,
"Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ-ngây."
Bói rằng: "Đinh-mão năm nay,
"Hèn chi giáp-tí ngày rày chẳng an.
"Mạng kim lại ở
cung càn,
"Tuổi này là tuổi giầu sang trong đời.
"Cầu tài quẻ ấy xa vời,
"Khen ngươi khéo nói những lời trêu ta."
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một Giao, hai Sách, lại ba hào trùng.
741.-
Trang thành là quẻ lục xung,
Thấy hào
phụ mẫu khắc cùng tử-tôn.
Hóa ra làm quẻ du-hồn,
Lại thêm thế động khắc dồn hào-quang.
Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi nầy mới chịu
mẫu tang trong mình.
"Xui nên phát bệnh thình lình,
"Vì chưng ma quỉ lộ-trình rất thiêng.
"Muốn cho bệnh ấy đặng yên,
"Phải tìm thầy pháp chữa-chuyên ít ngày."
751.- Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây."
Bói rằng: "Cũng ở chốn nầy bước ra.
"Pháp hay tiếng dậy dồn xa,
"Tên là Đạo-sĩ, ở Trà-hương
thôn."
Tiểu-đồng mới chạy bôn-bôn,
Hỏi thăm đạo-sĩ hương thôn chốn nào?
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi nào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo-sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!
761.- Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
"Trừ ma ếm quỉ, phép thầy rất hay."
Pháp rằng: "
ấn đã cao tay,
"Lại thêm
phù, chú xưa nay ai bì.
"Qua sông cá thấy xếp vi,
"Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
"Pháp hay hú gió kêu mưa,
"Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu.
"Pháp hay miệng niệm một câu,
"Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ-linh.
771.- "Phép hay
sái đậu thành binh,
"Bện hình làm tướng phá thành
Diêm-vuơng .
"Phép hay
dạo hỏa phó thang,
"Ngồi gươm đứng giáo mở đàng
thiên hoang.
"Có ba lượng bạc trao sang,
"Đặng thầy sắm-sủa
lập đàn chữa cho,"
Đồng rằng : "Tôi chẳng so đo,
"Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
"Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
"Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
781.- "Chữa-chuyên bệnh ấy đặng an,
"Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy. "
Pháp rằng : "Về lấy sang đây,
"Cho thầy toan liệu lập rày đàn ra."
Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
"Cực vì nguời bệnh ở nhà chẳng yên.
"Xin thầy gắng sức chịu phiền,
"Ra công bùa chú chữa-chuyên dường nào."
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
"Người nằm ta chữa rối trao
phù về."
791.- Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề,
"Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa-chuyên ? "
Pháp rằng: "Ta biết
kinh-quyền,
"Đau nam chữa bắc mà
thuyên mới tài. "
Tiểu-đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội-vã nằm dài chữa chuyên .
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông
Bàn-cổ toạ tiền chứng miêng.
"Thỉnh ông Đại-thánh Tề-thiên,
"Thỉnh bà Võ-hậu đều liền đến đây.
801.- "Thỉnh ông Nguyên-soáì chinh Tây ,
"Cùng bà Vương-mẫu sum vầy một khi.
"Thỉnh ông Phật-tổ A-di,
"Thập phương chư Phật phù-trì giúp công.
"Lại mời công chúa Ngũ-long,
"Bình Nam ngũ -hổ hội-đồng an dinh.
"Thỉnh trong thiên-tướng, thiên-binh,
"Cùng là tam-phủ Động-đình Xích-lân.
"Thỉnh trong khắp hết quỉ-thần,
"Cùng đều xuống chốn
dương-trần vui chơi ."
811.- Cho ngươi ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai.
Tiểu-đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc-thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang.
"
Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào ?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
"Thời ngươi khá lấy mà trao cho thầy "
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
"Bệnh kia dầu khá mình nầy bán đi."
821.- Triệu-Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo-chác đuổi đi khỏi vòng:
"Ở đây làng xóm khó lòng,
"E khi mưa nắng ai cùng đỡ che."
Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
"Bởi tin nên mắc, bởi nghe nên lầm.
"Mới lo chạy hết một trăm,
"Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
"Thương thay tiền mất tật còn,
"Bơ vơ đất khách thon-von thế này.
831.- "Thôi thôi gắng gượng khỏi đây ,
"Tôi đi
khuyên-giáo đỡ ngày gạo rau."
Vân -Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu-đồng dìu-dắt gần cầu Lá- buôn.
Đương khi mưa gió luông-tuồng,
Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao,
Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy-hiểm biết sao mà nhờ.
841.- Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ,
"Tìm nơi cây-cối bụi-bờ nghỉ chưn."
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
"Tìm nơi
quán-xá sẽ dừng nghỉ-ngơi."
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu-dắt tới nơi Đại-đề.

10.- Trịnh-Hâm hại Vân-Tiên, trói tiểu-đồng trong rừng, xô Vân-Tiên xuống sông (câu 847 - câu 944)

Trường thi một lũ vừa về.
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm,
"Cớ sao mang bệnh còn nằm nơi đây.
851.- Tiên rằng tôi vốn chẳng may,
"Chẳng hay
chư hữu khoa nầy thế nao?."
Hâm rằng :"Tử Trực đậu cao,
"Tôi cùng Bùi-Kiệm đều vào cử-nhân,
"Một mình về trước viếng
thân,
"Hai người trở việc còn lần đi sau.
"Đương cơn
hoạn nạn gặp nhau,
"Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
"Từ đây tới quận Đông thành,
"Trong mình có bệnh,
bộ hành sao xong.
861.- Lần hồi đến chốn
Giang trung,
"Tìm thuyền ta sẽ
tháp tùng với nhau."
Tiên rằng:"Tình trước ngãi sau,
"Có thương xin khá giúp nhau phen này."
Hâm rằng:"Anh tạm ngồi đây,
"Tiểu -đồng người tới trước nầy cùng ta.
"Vào rừng kiếm thuốc
ngoại khoa,
"Phòng khi sông biển
phong-ba bất kỳ . "
Tiểu -đồng vội vã ra đi,
Muốn cho đặng việc quản gì lao-đao.
871.- Trịnh Hâm trong dạ gươm đao,
Bắt người đồng-tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu nầy mới xong."
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh -Hâm về nói tiểu-đồng cọp ăn.
Vân-Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu
địa hãm thiên băng thình-lình.
"Bấy lâu đất khách
lưu-linh,
"Một thầy một tớ
lộ-trình nuôi nhau.
881.- "Nay đà hai ngả phân nhau,
"Còn ai nâng đỡ trước sau cho mình."
Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
"Tôi xin đưa tới Đông-thành thời thôi."
Vân-Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu-đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phận mình đã mắc tai-nàn,
"Cảm thương họ Lục
suối vàng bơ vơ.
891.- "Xiết bao những nỗi dật-dờ,
"Đò-giang nào biết, bụi bờ nào hay.
"Vân-Tiên hồn có linh rày,
"Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùng !"
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.
Sơn-quân ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu-đồng thức dậy mơ-màng,
Xem qua dấu đất ràng-ràng mới hay.
901.- Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân-Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn, kẻ bán, chợ phiên nhộn-nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng,
Bữa qua có thấy
người tang chăng là?
Quán rằng thôi đã ra ma,
"Khi mai làng xóm người đà đi chôn."
Tiểu-đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng."
911.- Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu-đồng vội-vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
Đồng rằng : "Tớ tới kiếm thầy,
"Chẳng hay người thác mả nầy là ai ?"
Người nầy : "Một gã con trai,
"Ở đâu không biết lạc-loài đến đây.
"Chưn, tay, mặt, mũi tốt thay,
"Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương."
921.- Tiểu-đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi !
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu-đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại-đề,
Sớm đi khuyên-giáo, tối về quảy đơm.
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.
931.- Thứ nầy đến thứ Vân-Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở-than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa-chan,
Cảm thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh-đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm
cô bồng ngẩn ngơ.
Đêm khuya lặng-lẽ như tờ,
Nghênh-ngang sao mọc, mịt-mờ sương bay.
Trịnh-Hâm khi ấy ra tay,
Vân-Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
941.- Trịnh- Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.
Chú thích:
Khai phong: mở bao thư đã đóng kín

sự cơ: cớ-sự.Rõ việc đã xảy ra.

Trời Nam, đất Bắc: cha mẹ Vân Tiên ở trong Nam,Vân-Tiên ra Bắc đi thi. Rõ là Nam Bắc chia trời sầu chất ngất.

đoạn tràng: đứt ruột, thương

từ mẫu: mẹ hiền

u-minh: nơi sâu-kín tối-tăm.Âm-cảnh

tang phục: quần áo tang.

Chín chìu ruột đau: thành-ngữ: sự thê-thảm đau-đớn vì có việc khổ mất người thân.

Chín chữ cù-lao: cửu tự cù-lao :chín chữ nặng-nề là :sinh (cha sinh), cúc (mẹ đẻ) phủ (vỗ-về),dục (nuôi chi khôn), cố (trông nom), phục (quấn-quít), phủ (nâng nhắc),,phúc (bồng bế). Ấy là chín công khó nhọc của cha mẹ đối với con.

Ba năm nhũ bộ: ba năm bú mớm.

Thiên-hương: hương trời. Chỉ về con gái đẹp-đẽ. Ở đây nói về bà mẹ hiền của Vân Tiên.

Báo hiếu: lo đền ơn cha mẹ.

Lập thân: để cho cái thân đứng được trên trời đất.

Uu-phiền: Lo rầu nhiều việc.

khá thương: ý nói chất-ngất một trời sầu.

bôn-ba: chạy đuổi theo nước chảy.Ý nói :chạy-vạy lo-lắng công-việc không hở tay.

hộ thân: che-chở cái thân.

gian-truân: lúc khó-khăn vất-vả.

tị-trần: trốn nơi bụi-bặm.Tức trốn nợ trần tục, cuộc đời.

an nhàn: yên, nhẹ.

danh-lợi: danh-dự và lợi-lộc.Tên tuổi và tiền của

thị-phi: phải trái

não-nồng (nùng): nung đốt cái óc. Ý nói: buồn-bã đến trí óc quay-cuồng.

dưỡng-dục: nuôi-nấng dạy-dỗ.

sinh-thành: sinh và nên người

bất hiếu: chẳng có hiếu. Chẳng nuôi được

ngơ-ngẩn đường mây: ý nói : công-danh lỡ-dở.Trường thi đã chấm xong rồi, ai ai đã về nhà nấy, chỉ còn riêng mình lạc-lõng kêu gào trời đất.

lâm: tới

khoa-trường: trường thi.

đầu: ném vào. Đầu thang :do bệnh nào thì gieo vào thang thuốc nấy.

điều: hòa nhau.

nội-kinh: tên sách thuốc chỉ về kinh, mạch.

ngoại-khoa: các khoa thuốc trị ở ngoài da,

(34,35,36,37,38,39,40,41,42): tên các sách thuốc.

quân-thần: vua tôi.

bào-chế: sao và chế các vị thuốc.

lư-san: núi thuộc tỉng Giang-tây nước Trung-hoa. Mạch Lư-san :tên một quyển sách dạy xem mạch đề là "Lư-san mạch phú". Xin đọc Ngư-Tiều Vấn-Đáp Y-Thuật của cụ Đồ Chiểu.

tử sinh: chết sống

lục-quân, tứ-vật: tên hai thang thuốc.

Thập-toàn, bát-vị : tên thang.

nội-thương: bị thương ở trong thân. Bệnh về tính tình, tình-dục.

bát trận tân phương: phương-lược mới về bát trận đồ. Bát-trận đồ: do Khổng-Minh đời Tam-quốc lập ra, phép binh hay giỏi. Ở đây, thuộc về danh từ y-học.Trong phép trị bệnh của khoa y-học phương đông, xem việc trị binh cũng như trị bệnh, nên mới đặt ra những danh-từ ấy.

ngoại-cảm: bệnh do ở ngoài thân. Như bệnh vì phong-hàn thử thấp sinh ra.

ngũ-sài: tên thang. Đầu thang Ngũ-sài:hốt thang Ngũ-sài

lục-bộ: sáu bộ phận trong người.

phù-hồng: mạch nổi lớn.

kinh lạc: phép xem mạch của y-học Trung-hoa, chia các mạch trong thân-thể làm 12 kinh, các kinh ấy liên-lạc với nhau gọi là kinh lạc.

thông: suốt qua.

mạng môn tướng hỏa: khoảng giữa hai trái thận bị nóng quá.

tam tiêu: ba bộ phận trong thân người. Miệng trên dạ -dày là thượng tiêu, khoảng giữa dạ-dày là trung tiêu, miệng trên bàng-quang là hạ tiêu.

tích nhiệt: dồn chứa sức nóng.

giáng hỏa: đem sức nóng xuống dần dần.

tư-âm: danh-từ y-học. Thêm phần âm vào để chế dương.

huỳnh-liên, huỳnh-bá, huỳnh-cầm: tên các vị thuốc.

gia: thêm

bội: gấp lên nhiều lần.

cầu: hết sức cậy người ta.

tây-viên: vườn hoa phía tây.

ôn-nhuần: xem đi xem lại đã nhuần-nhã.

châu-diệc: sách nói về lẽ dịch ở đời Châu. Có đến ba bộ sách dịch : sách dịch đời Hạ gọi là Liên-sơn, sách Dịch đời Thương, Ân, gọi là Qui-tàng.

Huỳnh-kim: tên một quyển sách bói.

Dã-hạc: tên một quyển sách bói.

Lục-nhâm, Lục-giáp: nói về phép bói toán.

can, chi: mười dấu gọi là thiên can hoặc thập can hiệp với mười 12 dấu gọi là địa-chi hoặc thập nhị chi, kết thành chuỗi ngày giờ năm tháng. Mười can là : giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quí. Mười hai chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Rồi đem một chữ can ráp với 1 chữ chi. Như giáp tí, ất sửu v.v. Ráp đủ một vòng 60 năm thì trở lại giáp tí như cũ, gọi là một vòng hoa-giáp.

lộ-trình: bước đường trải qua.

cỏ thi: cỏ thi và mai rùa là vật dùng để bói.

đông-phương: ở phương đông.

cung càn: nhà thuật số án theo bát quái chia 8 cung là: càn, khảm. cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài.

hào trùng: nói về cách bói.

trang: mượn nghĩa tiếng trang trong chữ Hán là tô-điểm trau-giồi, dùng vào tiếng ta là :Trải xem kỹ-càng.

phụ-mẫu: cha mẹ

tử-tôn: con cháu.

mẫu tang: tang mẹ.

thôn: làng. Câu này có bản chép: tên là Kình....ở Trà-hương thôn.

ấn: phù-hiệu của bọn thầy pháp.

phù-chú: lá bùa của câu chú :bí-quyết của đạo-gia dùng để đuổi ma quỉ.

sái đậu thành binh: vảy hột đậu thành ra binh.

Diêm-vương: theo thần-thoại vua ở âm-phủ.

dạo hỏa: đi trên lửa.

phó thang: đi trên nước nóng.

thiên-hoang: cõi trời còn hoang-vu ghê-rợn.

đàn: cái đài dựng lên để làm nơi tế lễ.

phù: bùa

kinh-quyền: kinh là đạo dùng khi thường. Quyền là đạo dùng khi biến.

thuyên: khỏi bệnh.

Bàn-cổ: theo cổ truyền của Trung-hoa thì Bàn-cổ là thủy-tổ của loài người, cũng như A-đam (Adam) trong thần-thoại giáo Cơ-đốc.

tọa tiền: trước bàn thờ.

chứng miêng (minh): chứng tỏ.

dương-trần : cõi dương bụi bặm. Cõi đời này.

pháp-phù: phép bùa

khuyên-giáo: đi quyên, đi xin.

quán-xá: nhà khách-trọ.

chư hữu: các bạn-bè.

thân: cha mẹ.

hoạn-nạn: khốn-khổ gian-nan.

bộ-hành: đi bộ.

giang-trung: chốn sông nước.

tháp tùng: nhập vào bọn mà đi theo.

ngoại-khoa: thuốc ngoài.

phong-ba: sóng gió.

bất kỳ: chẳng có hẹn kỳ.

địa hãm thiên băng: đất sụp trời xiêu.

Lưu-linh: trôi-nổi lạc-loài.

lộ-trình: bước đường.

suối vàng: do chữ hoàng-tuyền :nơi âm-phủ. Cõi người chết ở.

sơn-quân: sơn-thần. Thần núi. Con cọp.

người tang: Vân-Tiên để tang cho mẹ.

cô bồng: chiếc buồm lẻ-loi.

11.- Ngư ông vớt Vân-Tiên lên, đem về nhà Võ-công (câu 945 - câu 1018)

Vân-Tiên mình
lụy giữa giòng,
Giao-long dìu-dắt vào trong bực rày.
May vừa trời đã sang ngày.
Thuyền chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Khiến con vầy lửa một giờ.
Ông hơ bụng dạ, bà hơ mặt mày.
951.-Vân-Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn-ngơ hồn -phách như say mới rồi.
Ngỡ than mình phải nước trôi,
Hay đâu mình hãy đặng ngồi
dương-gian.
Ngư- ông khi ấy hỏi-han,
Vân-Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng:" Người ở cùng ta.
"Sớm mai hẩm-hút một nhà cho vui".
Tiên rằng: " Ông lấy chi nuôi,
"Thân tôi như thể trái mùi trên cây.
961.- "May đà trôi-nổi đến đây,
"Không chi báo đáp mình nầy trơ trơ ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
"Dốc lòng nhân-nghĩa há chờ trả ơn ?
"Nước trong rửa ruột sạch trơn,
"Một câu danh-lợi chi sờn lòng đây.
"Rày doi, mai vịnh vui-vầy,
"Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng.
"Một mình thong-thả làm ăn,
"Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.
971.- "Nghêu-ngao nay chích mai đầm.
"Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
"
Kinh-luân đã sẵn trong tay,
"
Thung-dung dưới thế vui say trong trời.
"Thuyền nan một chiếc ở đời,
"Tắm mưa trải gíó trong vời Hàn-giang."
Tiên rằng : " Vậy cũng một làng,
"Võ-công người ở gần đàng đây chăng ?"
"Khỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơi."
981.- Tiên rằng: " Xưa đã gá lời,
"Sui-gia bao nỡ đổi lời chẳng thương.
"Vợ chồng là đạo
tao-khương,
" Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
"Trăm năm muốn trọn
ân-tình
"Đương khi hoạn-nạn ai đành bỏ nhau.
"Chút nhờ
cứu tửơn sâu,
"Xin đem tới đó trước sau cho tròn."
Ngư rằng : " Làm đạo rể con,
"Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim.
991.- "Sợ bay mà mỏi sức chim,
"Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa.
"E khi chậm bước tới trưa,
"Chớ đi sông cũ bến xưa mà lầm.
"Mấy ai ở đặng
hảo-tâm,
"Nắng đun chót nón, mưa dầm
tả tơi.
"Mấy ai hay nghĩ việc đời,
"Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang-giầu.
"Đã ba thứ tóc trên đầu,
"Gẫm trong sự -thế thêm
âu cho đời."
1001.- Vân-Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông
chẳng-đã tách vời đưa sang.
Dắt Tiên vào chốn
hậu-đàng,
Võ-công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
Chẳng qua sợ
thế-gian cười,
Một lời gượng gạo chào người ngày xưa:
"Ngư-ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn."
Ngư rằng : " Tôi chẳng
lòng sờn.
"Xin tròn nhân-ngãi còn hơn bạc vàng.
1011.- "Nhớ xưa trong núi Lư-san,
"Có ông ngư-phủ đưa chàng
Ngũ-Viên.
"Tới sau đình-trưởng đỗ thuyền,
"Giúp người
Hạng-Võ qua miền Ô-giang.
"Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
"Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi-nhân.
"Một lời gắng giúp keo-sơn,
"Ngư-ông từ-giã lui chưn xuống thuyền.
12.- Võ công giả đưa về Đông-thành, đem Vân-Tiên bỏ trong hang Thương-tòng (câu 1019 - câu 1076)

Võ-công không ngớt lòng phiền,
Ân-tình thế-lợi khó tuyền đặng vay.
1021.- Dạy Tiên : " Ngươi hãy ngồi đây,
"Cho ta trở lại sau này liệu toan."
Công rằng : " Hỡi mụ Quỳnh-Trang,
"Dò lòng
ái-nữ Thể-Loan thế nào ?
"Mặc con toan liệu làm sao,
"Vốn không ép vợ, nỡ nào ép con."
Loan rằng : " Gót đỏ như son,
"Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn ?
"Ai cho sen muống một bồn.
"Aì từng chanh khế sánh phồn lựu-lê.
1031.- "Thà không trót chịu một bề,
"Nỡ đem mình ngọc dựa kề
thất-phu.
"Đã công chờ đợi
danh-nhu,
"Rể đâu có rể đui-mù thế ni,
"Đã nghe người nói hội này,
"Rằng : Vương-Tử-Trực chiếm rày
thủ-khoa
"Ta dầu muốn kết sui-gia,
"Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh."
Công rằng : "Muốn trọn việc mình,
"Phải toan một chước dứt tình mới xong.
1041.- "Nghe rằng : "Trong núi Thương-tòng.
"Có hang thăm-thẳm bịt-bùng khôn ra.
"Đông-thành ngàn dặm còn xa,
"Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu ?"
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân-Tiên ngồi trước
nhà cầu thở-than.
Võ-công ra trước dỗ chàng:
"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành."
Ra đi đương lúc
tam-canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân-Tiên.
1051.- Bỏ rồi rón-rén bước liền,
Xuống ngay chèo quế dời thuyền tách xa.
Tiên rằng : " Các chú đưa ta,
"Xin đưa tôi tới quê nhà sẽ hay.
"Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
"Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên."
Lặng nghe vắng tiếng hai bên,
Trong hang tăm-tối đá trên chập-chồng.
Vân-Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ-công hại mình.
1061.- Nực cười con tạo trớ-trinh,
Chữ duyên tráo-trác, chữ tình lãng-xao.
Nghĩ mình tai-hại biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ, gặp đàng bẫy cheo.
Trong hang sau trước quạnh-hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi ?
Oan-gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân-thể còn gì mà toan.
1071.- Đã đành xa cõi
nhân-gian,
Dựa mình vào chốn
thạch-bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò.
Sương sa lác đác mưa tro lạnh-lùng.
Năm ngày chịu đói-khát ròng.
Nhờ ba hườn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Chú thích:
lụy: gặp hại . Bó buộc.

giao-long: rồng.

dương-gian: khoảng dương. Cõi dương . Tức cõi đời này..

kinh-luân: giỏi việc chính-trị.

thung-dung: thư-thái, thong-thả.

tao-khang: tấm mẳn . Ý nói : vợ chồng lúc khó có nhau, giàu chẳng nên phụ, phải nhớ cái hồi tấm mẳn hẩm-hút.

ân-tình: ân-huệ.

cứu tử: cứu cho khỏi chết.

hảo tâm: tấm lòng tốt đẹp.

tả tơi: có nhiều bản chép là : Nắng toan giúp nón, mưa dầm giúp tơi .Tuy nhiên xét kỹ, câu của bản Trương Vĩnh Ký vẫn hay hơn.

âu: do chữ ưu : lo-buồn.

chẳng-đã: ý nói cực chẳng-đã mới phải đưa Vân Tiên qua nhà Võ-công, vì Vân-Tiên nằng-nằng kêu cầu, chớ thật lòng ông chài vốn đã thấy xa về tình đời, không dám tin ở lòng tốt của người ta như Vân-Tiên.

hậu-đàng: nhà sau.

thế-gian: cõi đời.

sờn: có nhiều bản chép :"... lòng lão chẳng sờn" E không được hay như bản của Trương Vĩnh Ký chép như trên.

Ngũ-Viên: Ngũ Viên tự là Tử-Tư. Người nước Sở . Một danh-tướng vì cừu cha anh bị giết về tay Sở Bình-Vương nên bỏ Sở sang Ngô. Trong khi ra đi, bị vua Sở tập-nã gắt-gao, may được nhiều bậc cao-sĩ cứu giúp. Trong số ấy có người lái đò đưa giúp Ngũ-Viên sang sông Ngạc-chữ, nhưng không khứng phân tỏ tên họ để cầu đền ơn. Ngũ đành cáo biệt xưng tạ chẳng cùng và gọi là Ngư-trượng-nhân. Nhưng trước khi từ-giã ra đi, Ngũ còn trở lại dặn Ngư-phủ rằng: "Bây giờ tôi đi, như sau có truy binh tới, xin chớ lậu việc tôi ra ".Tử-Tư đi rồi, ngư-phủ tự nghĩ. "mình đã trải lòng nhân, mà người vẫn có ý ngờ. Sau này truy binh dẫu có qua thuyền khác đuổi theo, thì tâm-sự mình chỉ có một mình mình biết, chớ có ai biết đâu. Chỉ một chết là hết mang tiếng ". Bèn nhảy xuống sông mà chết.

Hạng-Võ: người đã dựng ra nước Tây Sở, hiệu là Bá-Vương, đương đầu với Hán Lưu-Bang, gây nên cuộc Hán Sở tranh hùng, sau khi dứt nhà Trần. Về sau, Hạng-Võ quân thua lui về Ô-giang, có người đình trưởng (đời Hán, cứ mười dặm đất thì gọi là một đình, đặt người đình-trưởng để phòng giữ trộm cướp) chèo thuyền rước Hạng-Võ. Nhưng đi dến giũa sông, Hạng-Võ nghĩ thẹn, cắt đầu tự-vẫn.

ân-tình thế-lợi: ân-huệ và tình cảm đối chọi với quyền-thế và lợi-lộc.

ái nữ: con gái yêu.

thất-phu: kẻ chẳng ra gì,

danh-nhu: người học-trò có danh.

thủ-khoa: người đậu đầu trong khoa thi hương.

nhà cầu: nhà cất ở dưới mé sông để ngồi hóng gió mát.

tam canh: canh ba. Có bản chép là : tan canh

nhân-gian: khoảng con người ở. Cõi đời.

thạch-bàn: hòn đá lớn.

13.- Du-thần cứu ra khỏi hang, gặp lão tiều cõng Vân-Tiên về nhà (câu 1077 - câu 1118)

Du-thần xem thấy ai hoài,
Xét trong mình gã có bài
phù-tiên.
Mới hay là Lục Vân-Tiên,
Cùng nhau dìu-dắt đều liền đem ra,
1081.- Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi
đại-lộ trời đà hừng đông.
Du-thần trở lại
sơn-trung,
Vân-Tiên còn hãy giấc nồng mê-man.
Lão tiều cơm gói săn-sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới đường đại-lộ
là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở-than.
Hay là yêu-quái
tà-gian,
Rung cây nhát lão làm đường
hại nhân.
1091.- Lão tiều liền bước lại gần,
Thiệt là một gã
văn-nhân mắc nàn,
Chi bằng lên tiếng hỏi-han :
"Nhân sao mắc việc tai-nàn thế
nây ?"
Vân-Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội-vàng gượng dậy trình-bày trước sau:
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế-sự gật đầu thở-than :
"Ít người trong tuyết đưa than,
"Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương."
1101.- Vân-Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang
ẩn-dật biết đường thảo-ngay.
"Ngửa trông lượng cả cao-dày ,
"Cứu trong một buổi, ơn tày
tái sinh.
"Mai sau về tới Đông-thành,
"Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi."
Lão tiều mới nói : "Thôi thôi,
"Làm ơn mà lại trông người sao hay ?
"Già hay thương kẻ thảo-ngay,
"Nầy thôi để lão dắt ngay về nhà."
1111.- Tiên rằng: " Trong dạ xót-xa,
"Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi.
"Lại thêm rũ liệt
tứ chi,
"Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi."
Lão tiều nầy ngỡ nực cười,
Mở cơm trong gói, miệng mời Vân-Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
"Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà."

14.- Hớn-Minh đem Vân-Tiên về chùa (câu 1119 - câu 1264)

Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp một chàng là Hớn-Minh.
1121.- Lão tiều lật đật
bôn-trình,
Hớn-Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân-Tiên nghe tiếng
cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
Minh rằng: " Dám hỏi
nhân-huynh,
"Cớ sao nên nỗi thân-hình thể ni ?"
Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi,
"Thân nầy nào có khác gì cây trôi.
"
Lênh-đênh gió dập sóng dồi,
"Rày đây mai đó khôn rồi
gian-nan."
1131.- Minh rằng: " Đây khó hỏi-han,
"Xin vào chùa sẽ luận-bàn cùng nhau."
Tiều rằng: " Chẳng dám ngồi lâu
"Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
Hớn-Minh quỳ gối lạy liền :
"Ơn ông cứu đặng Vân-Tiên bạn lành.
"Nầy hai lượng bạc trong mình,
"Tôi xin
báo đáp chút tình cho ông."
Tiều rằng: " Vốn lão tình không,
"Một mình ngơ-ngẩn non tòng hôm mai.
1141.- "Tấm lòng chẳng muốn của ai,
"Lánh nơi danh-lợi chông-gai cực lòng.
"Kìa non, nọ nước thong-dong,
"Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
"Công-hầu phú-quí mặc ai,
"Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày."
Vân-Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại
lâm-sơn,
Tiên, Minh hai gã đều
hoàn am mây.
1151.- Tiên rằng: " Đã gặp khoa nầy,
"Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì ?"
Minh rằng: " Xưa dốc xuống thi,
"Gặp nơi miếu-võ đề đi một lần.
"Anh thì về trước
tỉnh thân,
"Tôi thì mang gói sau lần ra kinh.
"Đi vừa tới huyện Loan-minh,
"Gặp con quan huyện Đặng-sinh là chàng.
"Giàu sang ỷ thế dọc ngang,
"Gặp con gái tốt
cường gian không nghì.
1161.- "Tôi bèn nổi giận một khi,
"Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
"Mình làm nỡ để ai lo,
"Bó tay chịu trói nộp cho
huyện-đàng.
"Án đày ra quận Sóc-phang,
"Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây,
"Vừa may mà gặp chùa này,
"Mai danh
ẩn-tích bấy-chầy náu-nương."
Vân-Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày một khúc
tai-ương phận mình.
1171.- Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thương cội
xuân-huyên,
"Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
"Trông con như cá trông dào,
"Mình nầy trôi-nổi phương nào biết đâu ?
"Vầng mây giăng bạc trên đầu,
"Ba năm chưa trọn một câu
sinh-thành.
"Hữu tam
bất hiếu đã đành,
"Tiểu-đồng trước đã vì mình thác oan.
1181.- "Tưởng thôi như cắt ruột gan,
"Quặn đau chín khúc, chứa-chan mấy lần."
Minh rằng: " Người ở trong trần,
"Có khi
phú-quý có lần gian-nan.
"Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
"Gặp khi lửa đỏ máu càng thêm xuê.
"Thôi thôi anh chớ vội về,
"Ở đây nương-náu toan bề thuốc thang.
"Bao giờ hết lúc tai-nàn,
"Đem nhau ta sẽ lập đàng công-danh.
1191.- "
Cam-La sớm gặp cũng xinh,
"Muộn mà
Khương-Tử cũng vinh một đời.
"Nên hư có số ở trời,
"Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong."
Vân-Tiên khi ấy an lòng,
Ở nơi
am-tự bạn cùng Hớn-Minh.
Võ-công làm việc trớ-trinh,
Dứt tình họ Lục, mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
Thể-Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
1121.- Ngày này trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp-gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử-Trực vừa về.
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân-Tiên.
Công rằng: " Chớ hỏi thêm phiền,
"Trước đà
lâm bệnh huỳnh-tuyền xa chơi.
"Thương chàng phận bạc trong đời,
"Cũng vì
Nguyệt-lão xe lơi mốì hồng."
Nghe qua Tử-Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
1211.- Than rằng: " Chạnh nhớ linh xưa,
"Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình.
"Trời sao nỡ phụ tài lành,
"Bảng vàng chưa thấy, ngày xanh đã mòn.
"Cùng nhau chưa đặng vuông tròn,
"Người đà sớm thác ta còn làm chi ?
"Trong đời mấy bực
cố tri,
"Mấy trang
đồng đạo, mấy người đồng tâm ?"
Công rằng: " Ta cũng thương thầm,
"Tủi duyên con trẻ
sắt-cầm dở-dang.
1221.- "Thôi thôi khuyên chớ thở-than,
"Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
"Tới đây thì ở lại đây,
"Cùng con gái lão sum-vầy
thất-gia.
"Phòng khi hôm sớm vào ra,
"Thấy ngươi Tử-Trực cũng là thấy Tiên."
Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên,
"Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
"Vợ Tiên là Trực chị dâu,
"Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
1231.- "Chẳng hay người học sách chi,
"Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe?
"Hay là học thói nước Tề,
"Vợ người Tử-Củ đưa về
Hoàn-Công.
"Hay là học thói
Đường cung,
"Vợ người
Tiểu-Lạc sánh cùng Thế-Dân.
"Người nay sao phải nhà Tần,
"Bất Vi gả vợ
Dị Nhân lấy lầm.
"Nói sao chẳng biết hổ thầm,
"Người ta há phải là cầm thú sao?"
1241.- Võ-công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trăn khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể-Loan trong cửa bước ra,
Miệng chào: "Thầy Cử tân-khoa mới về,
"Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
"Lỡ bề sửa trấp, lỡ bề nâng khăn.
"Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,
"Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
"Chẳng ưng thì cũng làm khuây,
"Nỡ buông lời nói chẳng vì, chẳng kiêng?"
1251.- Trực rằng: "Ai
Lữ-phụng-Tiên,
"Phòng loan đem thói Điêu-Thuyền trêu ngươi?
"Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
"Lòng sao mà nỡ buông lời
nguyệt hoa?
"Hổ hang vậy cũng người ta,
"So loài cầm thú vậy mà khác chi?
"Vân-Tiên anh hỡi cố-tri,
"Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành.
1261.- Võ-Công hổ thẹn trong lòng,
Năm ngày nhuốm bệnh
thất tình chết oan.
Thể-Loan cùng mụ Quỳnh-Trang,
Mẹ con đóng cửa
cư tang trong nhà.
Chú thích:
du-thần: thần đi rong các nơi để xem xét mọi việc..

ai hoài: ôm-ấp sự buồn thảm.

phù-tiên: tiên-phù : bùa tiên.

đại-lộ: đường lớn.

sơn-trung: trong núi.

là chừng: có bản chép : Nhắm đường đại- lộ dè chừng.

tà-gian: vạy-vọ, xảo-trá.

hại nhân: hại người.

văn-nhân: người có văn-học.

nây: do chữ ni chuyển ra, viết là nây để cho ăn vần.

ẩn-dật: ở ẩn mà tự vui.

tái-sinh: làm sống lại lần nữa.

tứ chi: hai tay và hai chân.

bôn-trình: đi gấp trên đường.

cố tri: quen biết cũ.

nhân-huynh: người anh có nhân. Tiếng xưng hô.

Lênh-đênh: cô-đơn. Một mình bơ-vơ

gian-nan: khốn khỗ, khó-khăn

báo đáp: đền bù lại

lâm-sơn: rừng núi

hoàn: trở về

tỉnh thân: thăm nom cha mẹ

cường gian: lấy sức mạnh làm điều trái

nghì: do chữ nghiã biến ra

huyện-đàng: quan huyện. Nhà quan huyện.

ẩn-tích: dấu-diếm dấu-vết.

tai-ương: tai-nạn, họa hại.

xuân-huyên: mẹ

sinh-thành: sinh ra nuôi-nấng cho nên người.

bất hiếu hữu tam: bất hiếu có ba : (không con là tội trọng). Câu này ý nói : chưa kịp lập gia-đình thì mẹ đã chết, đáng tội bất hiếu. Xuất xứ ở câu nói của Mạnh-tử . Trong "tứ thư tập chú" Chu Hy chú-giải về ba điều bất hiếu rằng : nhà nghèo, cha mẹ già yếu, mình không mưu tính việc làm để nuôi mẹ, ấy là một bất hiếu. Hùa theo ý muốn chẳng hay để hãm cha mẹ vào việc bất nghĩa, ấy là hai bất hiếu. Không lấy vợ đẻ con, làm tuyệt nòi giống của cha mẹ, ấy là ba bất hiếu.

phú-quí: giàu-sang.

gian-nan: khốn khổ, khó khăn.

Cam-La: 12 tuổi làm tướng-quốc ở Tần.
Khương-Tử: Khương tử Nha 81 tuổi mới nên danh hiển đạt.

am-tự: chùa, am.

lâm bệnh: bị bệnh.

huỳnh (Hoàng-tuyền): suối vàng.

Nguyệt-lão: Nguyệt-hạ lão nhân :ông già dưới nguyệt. Người chủ-trương việc định đôi cho người ở thế-gian (xem chú-thích ở trước)

mối hồng: dây tơ đỏ buộc chân những cặp có nhân-duyên với nhau. Lại có tích khác : Trương gia Trinh có năm người con gái. Muốn gả một người cho Đặng Nguyên Chấn, mà không biết phải gả người nào. Mới bày :5 người con của Trương thì ngồi sau một cái màn, cầm 5 sợi tơ, mỗi người mỗi màu tơ. Đặng thì đứng ở ngoài, hễ nắm được mối tơ của ai thì cưới người đó. Đặng lựa sợi tơ đỏ, nhằm người thứ ba. Sau ăn ở đời với nhau.

cố tri: quen biết cũ.

đồng đạo: cùng sùng-phụng một lẽ phải.

đồng tâm: cùng lòng.

sắt cầm: đàn sắt và đàn cầm, hai thứ hoà với nhau rất rất hiệp. Nói về việc vợ chồng.

thất-gia: nhà cửa. Nói về việc định đôi lứa.

Hoàn-Công: Vua Hoàn-công nước Tề cướp vợ của anh là Tử-Củ, rồi giết Tử-Củ đi.

Đường-cung : cung nhà Đường.

Tiểu-Lạc: em của Lý Thế-Dân bị Thế-Dân giết đi rồi cướp lấy vợ, lên làm vua tức vua Đường Thái tông (627-649).

Dị Nhân lấy lầm: Lữ Bất Vi coi tướng rất giỏi, biết Đinh Dị Nhân về sau có tướng làm vua, bèn đem người vợ có thai được mấy tháng mà gả cho Đinh để toan chiếm-đoạt, lấy họ Lữ dứt họ Đinh. Dị Nhân sau làm vua tức Tần Trang-tương vương, còn người thiếp của Lữ mà Dị Nhân đã lấy lầm, sinh ra được một trai sau nối ngôi vua tức Tần Thỉ-hoàng.

Lữ-Phụng-Tiên: Lữ-Bố bị sắc Điêu-Thuyền mà hư.

nguyệt hoa: trăng và hoa là hai vẻ đẹp đáng yêu. Chỉ về lòng ham muốn tình-dục.

thất tình: trái mất tình luyến- ái của mình

cư tang: ở vậy chịu tang.

15.- Nguyệt-Nga nhân có Lục ông, Kiều-công mời qua, nghe tin Vân-Tiên mất, buồn rầu khóc than (câu 1265 - câu 1360)

Đoạn nầy đến thứ Nguyệt-Nga,
Hà-khê phủ ấy theo cha học-hành,
Kiều-công lên chức Thái-khanh,
Chỉ sai ra quận Đông-thành chăn dân.
Ra tờ khắp hết xa gần,
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi,
1271.- Khiến quân đem bức thư mời,
Lục-ông vâng lệnh tới nơi
dinh tiền.
Kiều-công hỏi Lục-Vân-Tiên,
Lục-ông thấy hỏi bỗng liền khóc-than.
Thưa rằng: " Nghe tiếng đồn vang,
"Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.
"Biệt tin từ ấy nhẫn nay,
"Phút nghe người nói châu mày lại thương!"
Kiều-công trong dạ
bàng-hoàng,
Trở vào nói lại cùng nàng Nguyệt-Nga:
1281.- "Lục ông nói lại cùng cha,
"Duyên con rày đã trôi hoa dạt bèo."
Riêng than chút phận tơ điều,
Hàn giang chưa gặp, Ô-kiều lại rơi!
Nàng rằng: " Phải thiệt như lời,
"Xin cha sai kẻ mời người vào trong."
Nguyệt-Nga đứng dựa bên phòng.
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa ?
"Nguyệt-Nga con khá đem đưa người nhìn."
1291.- Lục-ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chưn vóc vạc đều in con mình.
Chuyện-trò sau trước
phân-minh,
Lục ông khi ấy sự-tình mới hay:
"Thương con phận bạc lắm thay,
"Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu?"
Kiều-công chi xiết nỗi sầu,
Lục-ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên-giải với nàng:
"Giải cơn
phiền-não kẻo mang lấy sầu.
1301.- "Người đời như bóng
phù-du,
"Sớm còn tối mất,
công-phu lỡ-làng.
"Cũng chưa
đồng tịch đồng sàng,
"Cũng chưa nên nghĩa
tao-khang đâu mà.
"Cũng như cửa sổ ngựa qua,
"Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền ?"
Nàng rằng: " Trước đã trọn nguyền,
"Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ."
Công rằng: "Chút nặng tình xưa,
Bèn đem tiền-bạc tạ đưa cho người.
1311.- Lục-ông
cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi ?
"Ngỡ là con trẻ mất đi,
"Hay đâu
cốt-cách còn ghi tượng nầy.
"Bây giờ con lại thấy đây,
"Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào ?."
Ngửa than: " Đất rộng trời cao,
"Tre còn măng mất lẽ nào cho cân."
Lục-ông
từ-tạ lui chân,
Kiều-công sai kẻ
gia-thần đưa sang.
1321.- Nguyệt-Nga nhuốm bệnh thở-than,
Năm canh lụy ngọc xốn-xang lòng vàng.
Nhớ khi thề-thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu.
Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất, trời ôi là trời !
Thuở xưa giữ dạ ghi lời,
Thương người quân-tử biết đời nào phai ?
1331.- Tiếc thay một dự anh-tài,
Việc văn, việc võ nào ai dám bì ?
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu !
Thương vì hai tám trên đầu,
Người đời như bóng phù-du lỡ-làng.
Thương vì chẳng đặng hiển-vang,
Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công-danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
Vùa hương bát nước ai dành ngày sau ?
1341.- Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương-gian nay chẳng đặng gần,
Âm-cung biết có thành thân chăng là ?
Kiều-công thức dậy bước ra,
Nghe con than-khóc xót-xa lòng vàng.
Khuyên rằng: " Con chớ cưu-mang,
"Gẫm trong còn mất là đường xưa nay.
"Đàn cầm ai khéo dứt dây,
"Chẳng qua con tạo đổi xây không thường."
1351.- Nàng rằng: " Khôn xiết nỗi thương,
"Khi không gãy cánh giữa đường ai hay.
"Nay đà
loan-phụng rẽ bầy,
"Nệm nghiêng gối chích phận nầy đã cam.
"Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
"
Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người.
"Thân con còn đứng giữa trời,
"Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi."
Kiều-công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao ?"

16.- Thái-sư đi nói Nguyệt-Nga cho con không được, nên oán mà xin vua đòi đi cống Hồ bên nước Ô-Qua (câu 1361 - câu 1486)

1361.- Có người sang cả ngôi cao,
Thái-sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều-công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương,
Thái-sư dùng lễ-vật sang,
Mượn người
mai-chước kết đàng sui-gia.
Kiều-công khôn ép Nguyệt-Nga,
Lễ-nghi đưa lại về nhà Thái-sư.
Thái-sư chẳng biết rộng suy,
Đem lòng oán-hận sớm ghi vào lòng.
1371.- Phút đâu giặc mọi làm hung,
Lung-lăng nết dữ binh-nhung dấy loàn.
Đánh vào tới ải Đồng-quan,
Sở-vương phán hỏi
lưỡng ban quần-thần.
Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra.
Thái-sư nhớ việc
cừu nhà,
Vội-vàng quì xuống tâu qua ngai vàng:
"Thủa xưa giặc mọi dấy loàn,
"Vì ham sắc tốt phá tàn Trung-hoa.
1381.- "Muốn cho khỏi giặc Ô-qua,
"Đưa con gái tốt giao-hòa thời xong.
Nguyệt-Nga là gái Kiều-công,
"Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
"Nàng đà có sắc
khuynh thành,
"Lại thêm rất bậc tài-tình
hào-hoa.
"Đưa nàng về nước Ô-qua,
"Phiên-vương ưng dạ ắt là
bãi binh,
Sở-vương nghe tấu thuận tình,
Châu phê dạy sứ ra dinh Đông-thành.
1391.- Sắc phong Kiều-lão Thái-khanh:
"Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi.
"Nguyệt-Nga nàng ấy nên người,
"Lựa ngày tháng chín, hai-mươi cống Hồ."
Kiều-công vâng lệnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
Nguyệt-Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao-thức hoài.
Thất tình trâm nọ biếng cài,
Dựa mành bỏ xả tóc dài ngồi lo:
1401.- "
Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
"Bởi ngươi Diên Thọ họa đồ gây nên.
"Hạnh Ngươn sau cũng khỏi miền,
"Bởi chưng Lư-Kỷ
cựu hiềm còn ghi.
"Hai nàng chẳng-đã phải đi,
"Một là ngay chúa, một vì thảo cha.
"Chiêu-Quân nhảy xuống
giang-hà,
"Thương vua nhà Hớn, vốn đà
quyên-sinh.
"Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì-Linh,
"Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi-pha.
1411.- Tới nay phận bạc là ta,
"Nguyện cùng bức tượng trót đà
chung thân.
"Tình
phu-phụ, nghĩa quân-thần,
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên.
Nghĩa tình nặng cả hai bên,
"Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
"Sao sao một thác thời xong,
"Lấy mình
báo chúa, lấy lòng sự phu."
Kiều-công nương gối đang lo,
Nghe con than-thở mấy câu thêm phiền.
1421.- Kêu vào ngồi dựa
trường tiền,
Lấy lời dạy-dỗ cho
tuyền thân-danh.
"Chẳng hay là việc triều-đình,
"Nào cha có muốn ép tình chi con ?"
Nàng rằng: " Còn kể chi con,
"Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
"Thương cha tuổi tác đã cao,
"E khi ấm-lạnh buổi nào biết đâu.
"Tuổi già bóng xế nhành dâu,
"Sớm xem tối xét ai hầu cho cha ?"
1431.- Công rằng chẳng xá việc nhà,
"Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
"Hôm nay đã tới mồng mười,
"Khá toan sắm-sửa hai mươi
tống hành."
Nàng rằng: " Việc ấy đã đành.
"Còn lo hai chữ
ân tình cho xong.
"Con xin sang lạy Lục-ông,
"Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân-Tiên.
"Ngỏ cho nhân nghĩa vẹn tuyền
"Phòng sau xuống chốn
huỳnh-tuyền gặp nhau.
1441.- Kiều-công biết nghĩ trước sau,
Dạy đem tiền bạc cấp
hầu đưa đi.
Lục-ông ra trước một khi,
Nguyệt-Nga vào đặt
lễ-nghi sẵn-sàng.
Ngày lành giờ ngọ
đăng đàn,
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân-Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệt-Nga cất tiếng khóc than:
"Vân-Tiên anh hỡi suối vàng có hay ?"
1451.- Bảy ngày rồi việc làm chay,
Lại đem tiền-bạc tạ rày Lục-ông:
"Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
"Đã đành một chữ má hồng vô duyên.
"Rày vua gả thiếp về Phiên,
"Quyết lòng xuống chốn
cửu-tuyền thấy nhau.
"Chẳng chi cũng gọi là dâu,
"Muốn lo việc nước, phải âu việc nhà.
"Một ngày một bước một xa,
"Của nầy để lại cho cha dưỡng già."
1461.- Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xe-giá bộn bề,
Năm mươi
thể nữ hầu kề chân tay.
Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan
bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt-Nga vội khiến Kim-Liên,
Lên mời
thân phụ xuống thuyền xem qua.
1471.- Nàng rằng: "Non nước cao sâu,
"Từ đây cách khỏi, khôn hầu thấy cha.
"Thân con về nước Ô-qua,
"Đã đã đành một nỗi làm ma đất người.
"Hai phương nam bắc cách vời,
"Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
"Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
"ấy là hồn trẻ về rày thăm cha."
Kiều công hạt lụy nhỏ sa,
Các quan ai thấy cũng là tình thương.
1481.- Chẳng qua việc ở
quân vương,
Cho nên
phụ tử hai đường xa-xuôi.
Buồm trương, thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón, người người đứng trông.
Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộng, đùng đùng sóng xao.
Chú thích:
dinh-tiền: trước dinh.

bàng-hoàng: ý nghi-hoặc không chủ-định.

phân-minh: rõ-ràng đầu đuôi gốc ngọn.

phiền não: buồn rầu.

phù-du: một thứ trùng nhỏ, đầu như đầu chuồn-chuồn mà nhỏ, hay bay ở gần nước, tối thì hay bay ở quanh bóng đèn, mau chết lắm.

công phu: sức dùng để làm việc.

đồng tịch đồng sàng: chung chiếu chung giường.

tao-khang: tấm mẳn nói về đạo vợ chồng.

cáo tạ: xin cám ơn mà từ chối ra về.

cốt-cách: dáng-điệu.

từ-tạ: từ-chối cám ơn.

gia-thần: tớ nhà quan.

dương-gian: khoảng dương .Cõi dương. Cõi đời.

âm-cung: cõi âm.

loan-phụng: chim loan và chim phượng, thường dùng để ví vợ chồng đẹp lứa.

sông Ngân: nơi quạ đen bắc cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau, mỗi năm vào đêm mồng 7 tháng 7.

cầu Lam: nơi Bùi Hàng gặp nàng tiên Vân Anh. Ngày xưa Bùi Hàng đời Đường, đi chơi ở Ngạc-chữ gặp nàng Vân Kiều cho một bài thơ, trong thơ có câu :"Lam-kiều bản thị thần tiên quật" Nghĩa: Lam-kiều là chỗ thần tiên ở . Đến sau đi qua cầu Lam, khát nước vào hàng uống nước, thì thấy nàng Vân Anh đẹp lắm, muốn lấy làm vợ. Bà mẹ nàng ấy bảo rằng: hễ có cái chày ngọc đem lại kháp vừa vào cái cối ngọc thì gả cho . Bùi Hàng về gặp tiên cho chày ngọc, lấy được Vân Anh, rồi hai vợ chồng đều thành tiên cả. Trong văn-chương, cầu Lam tức là nói chỗ người đàn bà đẹp ở.

mai-chước: môi-chước : người làm mối trong cuộc hôn-nhân.

lễ-nghi: nghi-thức về việc lễ.

lưỡng ban quần-thần: bầy tôi trong hai ban (văn, võ).

cừu: thù-hận.

khuynh thành: nghiêng thành.

hào-hoa: hào-phóng .Rộng-rãi, trải đời.

bãi binh: không tiến binh nữa.

Chiêu Quân: tên là Vương Tường, tuyển vào cung vua Hán Minh-đế. Vì cung-phi mỹ-nữ nhiều quá biết mặt không hết, mới dạy Mao Diên Thọ vẽ hình mỗi cung-nhân đặng dễ chọn lựa .Mao thừa dịp ăn tiền của cung-nhân, ai cho tiền thì vẽ tốt cho vua yêu . Chiêu Quân thì lịch-sự và đẹp hơn các cung-phi nên không chịu lo lót, Mao vẽ ra xấu . Mà còn sợ để sau việc lậu ra thì bị hại, sẵn giặc Hung -nô nới thắng, Mao mưu với một kẻ tôi nịnh đem Chiêu Quân đi cống Hồ. Hán Minh-đế (58-75) thấy hình vẽ xấu-xí, bèn chuẩn ưng. Chừng Chiêu Quân vào triều bái trước khi đi, vì đã hứa lỡ rồi. Lúc qua aỉ, Chiêu Quân thương nước nhớ nhà, có khảy một bản đàn để từ-biệt xứ sở, giọng đàn bi-ai thảm-thiết, Chiêu Quân qua Phiên ít năm thì chết. Nơi mả cỏ mọc đỏ lòm mà thứ cỏ đó bên Phiên thì trắng.Chỉ bên Hán cỏ đó mới đỏ vậy. Có chỗ lại nói Chiêu Quân qua ải tới Lạc-nhạn đài, viết thơ cột chân nhạn, đàn bản đàn từ-biệt nghe buồn thảm, rồi nhảy xuống sông Hắc-thủy mà tự-tử. -Đến đời nhà Tấn họ Tư-mã, vì kiêng tên Tư-mã Chiêu, nên gọi Chiêu Quân là Minh-phi (phi của vua Hán Minh-đế).

cựu-hiềm: mối hiềm-khích cũ.

giang-hà: sông

quyên-sinh: quên, bỏ cái sống.

chung-thân : trọn đời.

phu-phụ: vợ chồng.

quân-thần: vua tôi.

báo chúa: đền ơn vua.

sự phu: thờ chồng

trướng tiền: trước trướng.

tuyền: (toàn):trọn-vẹn

thân-danh: Cái thân và danh-dự.

tống hành: tiễn đi.

ân tình: ân-huệ và tình-cảm.

huỳnh-tuyền: suối vàng.

hầu: người theo hầu-hạ.

lễ-nghi: nghi-thức về việc lễ.

đăng đàn: lên đài tế-lễ.

cửu-tuyền: chín suối. Âm-phủ.

thể nữ: co gái hầu-hạ ở trong.

bảo hộ: che-chở, giữ-gìn.

thân phụ: cha.

quân vương: vua.

phụ tử: cha con.

17.- Nguyệt-Nga nhảy xuống sông, nhờ Quan-Âm đem vô bờ; vào vườn gặp Bùi-ông đem về nuôi, bị Bùi-Kiệm dỗ ngon dỗ ngọt (câu 1487 - câu 1636)

Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng-lẽ như tờ,
Nguyệt-Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
1491.- Than rằng: " Nọ nước kìa non,
"Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu ?"
Quân hầu đều ngủ đã lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình:
"Vắng người có bóng trăng thanh,
"Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
"Vân-Tiên anh hỡi có hay,
"Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng."
Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhắm chừng nước chảy vội-vàng nhảy ngay.
1501.- Kim-Liên thức dậy mới hay,
Cùng quân thể-nữ một bài đều lo,
Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
Thầm toan mưu-kế chẳng cho
lậu tình.
Việc nầy là việc triều-đình,
Đốc-quan hay đặng ắt mình thác oan.
Muốn cho
cẩn-nhiệm trăm đàng,
Kim-Liên thế lấy làm nàng Nguyệt-Nga.
Trá hôn về nước Ô-qua,
Ai mà vạch lá, ai mà tìm sâu ?
1511.- Tính rồi xong-xả chước mầu,
Phút nghe thuyền đã đến đầu Ải-quan.
Đốc-quan
xe giá sửa-sang,
Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
Nào hay tỉ-tất Kim-Liên,
Đặng làm
Hoàng-hậu nước Phiên một đời.
Nguyệt-Nga nhảy xuống giữa vời.
Sóng thần đưa-đẩy vào nơi bãi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
Nguyệt-Nga hồn hãy chơi rày
Âm-cung.
1521.- Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh-lùng ai hay ?
Quan-âm thương đấng thảo-ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
Dặn rằng: " Nàng hỡi Nguyệt-Nga!
"Tìm đường nương náu cho qua tháng ngày.
"Đôi ba năm nữa gần đây,
"Vợ chồng sao cũng sum-vầy một nơi."
Nguyệt-Nga giây phút tỉnh hơi,
Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm-bao.
1531.- Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào
dung thân ?
Một mình luống những bâng-khuâng,
Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông.
Một mình mang bức tượng chồng,
Xảy đâu lại gặp Bùi-ông dạo vườn.
Ông rằng: " Nàng ở hà phương ?
"Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?
Nàng rằng trận gió thổi qua,
"Chìm thuyền nên nỗi mình ra thế nầy.
1541.- "Tối-tăm sẩy bước tới đây,
"Xin soi-xét tới thơ-ngây lạc đường."
Bùi-ông đứng nhắm tướng nàng,
Chẳng phen
đài-các cũng phường trâm-anh.
Đầu đuôi han hỏi sự tình,
Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
Bùi-ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con:
"Ta cũng xinh một chồi non,
"Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở Kinh.
1551.- "Trong nhà không gái
hậu sinh,
Ngày nay lại gặp
minh-linh phước trời."
Nguyệt-Nga ở đã an nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.
Một lo về nước Ô-qua,
E vua bắt tội cha già rất oan.
Hai lo phận gái hồng nhan,
Sợ khi
bảo-dưỡng mưu-toan lẽ gì.
Nguyệt Nga luống những
sầu bi,
Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
1561.- Từ ngày thấy mặt Nguyệt-Nga,
Đêm đêm trằn-trọc phòng hoa mấy lần.
Thấy nàng thờ bức
tượng nhân,
Nghiệm trong tinh-ý dần-lân hỏi liền:
"Tượng nầy sao giống Vân-Tiên?
"Bấy lâu thờ có linh-thiêng điều gì?"
Nàng rằng: "làm phận
nữ-nhi,
"Một câu
chính tiết phải ghi vào lòng.
"Trăm năm cho trọn
đạo tòng,
"Sống sao thác vậy một chồng mà thôi."
1571.- Kiệm rằng: " Nàng nói sai rồi,
"Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa?
"Làm người trong cõi gió mưa,
"Bảy mươi mấy mặt người xưa thế nào ?
"Chúa xuân còn ở vườn đào,
"Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
"Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
"Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
"Ở đời ai cậy giàu sang,
"Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua.
1581.- "Hay chi như vãi ở chùa,
"Một căn cửa khép bốn mùa lạnh-tanh.
"Lênh-đênh một chiếc thuyền tình,
"
Mười hai bến nước biết mình vào đâu ?
"Ai từng mặc áo không bâu,
"Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau ?
"Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
"Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình."
Nàng rằng: " Xưa học
sử-kinh,
"Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
1591.- "Chẳng phen
thói nước Trịnh đâu,
"
Hẹn người tới cửa vườn dâu tư tình."
Kiệm rằng đã biết sử-kinh,
"Sao không soi-xét để mình ngồi không.
"Hồ Dương xưa mới góa chồng,
"Còn mơ nhan-sắc
Tống công cũng vừa.
"
Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,
"Sớm đưa Doãn Phủ tối ngừa Trần-quân.
"Hán xưa Lữ-hậu
thanh-xuân,
"Còn vừa Cao-tổ mấy đành Dị Ky.
1601.- Đường xưa Võ--hậu thiệt gì,
"Di-tông khi trẻ,Tam Tư lúc già.
"Cứ trong sách vở nói ra,
"Một đời sung-sướng cũng qua một đời.
"Chính-chuyên làm sự đổi-dời,
"Lăng vân trắc nết hết đời cũng ma.
"Người ta chẳng lấy người ta,
"Người ta đâu lấy những là tượng-nhân?
"Cho nên tiếc phận hồng-nhan,
"Học đòi Như Ý vẽ chàng Văn Quân."
1611.- Nguyệt-Nga biết đứa
tiểu nhân,
Làm thinh toan chước
thoát thân cho rồi.
Bùi-ông ngon ngọt trau-dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình.
"Làm người
chấp-nhất sao đành,
"Hễ là
lịch-sựkinhquyền.
"Tới đây duyên đã bén duyên,
"Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai ?
"Nhớ câu
xuân bất tái lai,
"Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn.
1621.- "Làm chi thiệt mạng hồng-nhan,
"Năm canh gối phụng màn loan lạnh-lùng.
"Vọng Phu xưa cũng trông chồng,
"Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi-pha.
"Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
"Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi."
Nguyệt-Nga giả dạng mừng vui,
Thưa rằng: " Người có công nuôi bấy chầy.
"Tôi xin dám hỏi lời nầy,
"Hãy tua chậm chậm sẽ vầy nhân-duyên.
1631.-- "Tôi vào lạy tạ Vân-Tiên,
"Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ-chung."
Cha con thấy nói mừng lòng,
Dọn nhà sửa chỗ
động phòng cho xuê.
Cỗ đồ bát bửu mượn về chưng ra.
Chiếu hoa gối sách bộn-bề,
Cỗ đồ
bát bửu mượn về chưng ra.

18.- Nguyệt-Nga trốn họ Bùi, lão bà gặp đem về nuôi (câu 1637 - câu 1664)

Xảy vừa tới lúc canh ba,
Nguyệt-Nga lấy bút đề vài câu thơ.
Dán trong vách phấn một tờ,
Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi.
1641.- Hai bên bờ-bụi rậm-rì,
Đêm khuya vắng-vẻ gặp khi trăng lờ.
Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đôm-đốm sáng nhờ đi theo.
Qua truông rồi lại lên đèo,
Dế kêu giắng-giỏi, sương gieo lạnh lùng.
Dày sành đạp sỏi thẳng xông,
Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
Nguyệt-Nga đi đặng hồi lâu,
Tìm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chưn.
1651.- Người ngay trời phật cũng vưng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt-Nga,
"Khá tua gắng-gượng về nhà cùng ta.
"Khi khuya nằm thấy Phật-bà,
Người đà mách bảo nên già phải đi."
Nguyệt-Nga
bán tín bán nghi,
Đánh liều nhắm mắt theo đi về nhà.
Bước vào thấy những đàn-bà,
Làm nghề bô-vải lụa-là mà thôi.
1661.- Nguyệt-Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới hết nổi-trôi chốn nào.
Hỏi thăm qua chốn Ô-sào,
Quan san mấy dặm đi nào tới nơi.
Chú thích:
lậu tình: lậu :tiết-lộ việc kín

cẩn-nhiệm: cẩn-thận, nghiêm-nhặt.

Trá hôn: cưới gả không có người thật đã dịnh.

xe giá: giá:xe dùng cho bậc cao cả.

Hoàng-hậu: vợ vua.

Âm-cung: cõi âm. Cõi chết.

Định hồn: hồn được yên-lặng lại.

dung thân: yên thân

đài-các: cái nền cao và cái lầu cao. Người giàu-sang .

trâm-anh: cái gài tóc và cái chải mũ..Nhà sang cả.

hậu sinh: trẻ sinh sau.

minh-linh: con nuôi, dùng theo nghĩa bóng. Vốn là một thứ sâu ở cây dâu. Vì giống này đẻ con ra thì con tò-vò nuôi giúp

bảo-dưỡng: giữ-gìn, nuôi-nấng.

sầu bi: rầu-buồn.

tượng nhân: tượng người ta.

nữ-nhi: con gái

chính tiết: tiết ngay-thẳng, trong-sạch.

đạo tòng: tam tòng: nhỏ theo cha, lớn theo chồng, chồng chết theo con.

Mười hai bến nước: ý nói 12 hạng người trong xã-hội mà thời xưa đã sắp : sĩ, nông, công, thương; ngư, tiều, canh, mục; công, hầu, bá, tử. Nói gồm lại là chỉ về các hạng, mà may rủi cho đời người con gái, trong nhờ đục chịu.
Trên đây là lời chú giải của sách. Theo thiển ý thì không được đúng lắm. Mười hai có nghiã là 12 con giáp. Một người con gái khi tới tuổi cập kê có thể lấy chồng là người ở bất kỳ tuổi nào.

sử-kinh: lịch-sử và kinh sách.

thói nước Trịnh: thói dâm

Hẹn người tới cửa vườn dâu tư tình: thói dâm

Tống công: tích Hồ Dương công-chúa và Tống Hoằng.

Hạ Cơ: nàng phi-tần họ Hạ đời Đông-Chu, đẹp mê hồn, 60 tuổi mà nhan-sắc còn lộng-lẫy. Nhưng tính lăng loàn.

thanh-xuân: tuổi trẻ. Tuổi xanh. Xuân xanh đây nói về Lữ Trĩ hoang dâm, trước lấy Lưu Bang, Lưu lên ngôi nhà Hán tức Hán Ca0-tổ, Lữ nghiễm-nhiên hán Cao-hậu. Nhưng về sau lại sinh thói tệ.

tiểu nhân: người nhỏ mọn.

thoát thân: đem thân ra khỏi cảnh nghịch.

chấp-nhất: cố-chấp không đổi ý-kiến.

lịch-sự: trải việc đời, việc gì cũng biết. Nay ta thường dùng theo nghĩa sắc đẹp,hoặc giao-thiệp khôn-khéo.

kinh: đạo dùng khi thường.

quyền: đạo dùng khi biến.

xuân bất tái lai: xuân chẳng trở lại.

động phòng: cái phòng sâu-kín. Cái phòng của vợ chồng mới cưới.

bát bửu: tám món báu. Tám cái đồ lễ-bộ tức đồ nghi-vệ thiên-tử, nhà sang. Bát bửu lại còn nghĩa là 8 món quý của 8 vị tiên vẽ trên tranh :
1. Quạt của Hớn-Chung Ly.
2. Dép của Lữ-Động-Tân.
3. Bầu rượu của Lý Thiết Quả.
4. Thanh gươm của Tào Quốc Cựu.
5. Giỏ bông của Lam Thể Hòa.
6. Ống tiêu của Hàn Trương Tử.
7. Gậy của Trương Quả Lão,
8. Bông sen của Hà tiên Cô.

bán tín bán nghi: nửa tin nửa ngờ.

Quan san: cửa aỉ và núi non. Nơi xa-xôi. 

19.- Vân-Tiên nhờ thuốc tiên sáng mắt, bỏ chùa, giã-từ Hớn-Minh về thăm cha (câu 1665 - câu 1736)

Đoạn này tới thứ ra đời,
Vân-Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bệnh đường xa,
Tháng ngày thấm-thoát kể đà sáu năm.
1671.- Tuổi cha rày đã năm-lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm-đầm nhỏ sa.
Vân-Tiên tính trở lại nhà,
Hớn-Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tiên rằng: "Ta lại
hồi hương,
"Ơn nhau sau gặp
khoa-trường sẽ hay."
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
"Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
"Dám đâu bày mặt ra thi,
"Đã đành hai chữ
qui y chùa này."
1681.- Tiên rằng: "Phước gặp khoa này."
"Sao sao cũng tính sum-vầy cùng nhau.
"Mấy năm hẩm hút tương rau,
"Khó nghèo nỡ phụ, sang giầu đâu quên.
"Lúc hư còn có lúc nên,
"Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay."
Hớn-Minh trở lại am mây,
Vân-Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục-ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè còn sống trên đời thấy cha.
1691.- Xóm-giềng cô-bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Kể đã mấy năm,
"Con mang tật bệnh ăn-nằm nơi nao?"
Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
"Mẹ tôi
phần mộ nơi nào viếng an ?"
Đặt bày
lễ-vật nghiêm-trang.
Đọc bài
văn tế trước bàn minh-sinh.
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
"Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
1701.- "Tưởng bể nguồn nước cội cây,
"Công sâu ngàn trượng, ngãi dày chín trăng.
"Suy trang
nằm giá khóc măng,
"Hai mươi bốn thảo chẳng bằng đời xưa."
Vân-Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt-Nga,
"Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
"Nhờ nàng nên mới ra bề,
"Chẳng thì khó đói bỏ quê hư rồi."
1711.- Vân-Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
"Đặng con đến đó đáp câu
ân-tình."
Lục-ông thuật việc triều-đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên:
"Kiều-công rày ở Tây-Xuyên,
"Cũng vì mắc nịnh
biếm quyền đuổi ra."
Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt-Nga,
"Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng."
1721.- Tây-xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều-công khóc liền:
"Nguyệt-Nga rày ở Tây-phiên,
"Biết sao cho đặng
đoàn viên cùng chàng.
"Mấy thu
Hồ Việt đôi phang,
"Chẳng qua máy tạo
én-nhàn rẽ nhau.
"Thấy chàng dạ lại thêm đau,
"Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành?
"Hẹp-hòi đặng chút
nữ-sinh,
"Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu-đơn."
1731.- Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn,
"Cùng nhau một sự oán hờn nên gây.
"Thôi con ở lại bên này,
"Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già."
Vân-Tiên từ ấy lân-la,
Ôn-nhuần kinh-sử chờ khoa ứng kỳ.

.
20.- Vân-Tiên ra kinh thi đậu trạng-nguyên. Vua sai đi dẹp giặc Ô-qua với Hớn-Minh (câu 1736 - câu 1802)

Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân-Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với
xuân-đường,
Kinh-sư ngàn đặm một đường thẳng ra.
1741.- Vân-Tiên dự trúng
khôi khoa,
Đương trong nhâm-tí thiệt là năm nay,
Nhớ lời thầy nói thật hay :
"Bắc-phương gặp chuột con rày nên danh."
Vân-Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban
y mão cho vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô-qua,
Phủ vây
quan-ải binh ba bốn ngàn.
Sở-vương phán trước ngai vàng,
Chỉ sai
quốc-trạng dẹp loàn bầy ong.
1751.-
Trạng-nguyên tâu trước bệ rồng :
:Xin dâng một tướng anh-hùng
đề binh,
"Có người họ Hớn tên Minh,
Sức
đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
"Ngày xưa mắc án đày di,
"Phải về nương-náu
từ-bi ẩn mình."
Sở-vương phán trước triều-dình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó-tướng
binh đề.
Tiên, Minh, từ ấy xiết gì mừng vui.
1761.-
Nhất thinh phấn phát oai lôi,
Tiên-phuông hậu-tập trống hồi tấn binh.
Quan-sơn ngàn dặm
đăng trình,
Lãnh cờ
bình tặc phá thành Ô-qua,
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Phút đâu binh
đáo quan thành,
Ô-qua xem thấy
thối binh di đồn.
Tướng phiên hai gã
đường đường,
Một chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần Long.
1771.- Lại thêm Cốt Đột nguyên-nhung,
Mắt hùm râu đỏ, tướng hung lạ-lùng.
Hớn Minh ra sức
tiên-phong,
Đánh chàng Hỏa Hổ, Thần Long một hồi.
Hớn Minh đánh xuống một roi,
Hai chàng đều bị một hồi mạng
vong.
Nguyên-nhung Cốt Đột nổi
xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
1781.- Vân-Tiên đầu đội
kim-khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô.
Một mình lướt trận xông vô.
Thấy ngươi Cốt Đột biến hô yêu-tà.
Vội-vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu-ma xem thấy một giờ vỡ tan,
Sa-cơ Cốt Đột chạy hoang,
Vân-Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo.
1791.- Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao.
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa
hào, thương ôi!
Vân-Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa
phản hồi bổn-quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đàng núi phút đà
tam canh.
1801.- Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi
lộ-trình trở ra.

21.- Vân-Tiên gặp Nguyệt-Nga, về tâu vua. Ơn đền, oán trả rồi về vinh qui cưới nàng Nguyệt-Nga (câu 1803 - câu 2076)

Đoạn này tới thứ Nguyệt-Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi:
"Chẳng hay trong dạ bồi-hồi việc chi,
"Quan-Âm thuở trước nói chi,
"Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
"Đã đành đá nát vàng phai,
"Đã đành xuống chốn
dạ đài gặp nhau ?"
Nguyệt-Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
"Đường về
quan-ải chỉ ra cho cùng."
Nguyệt-Nga ngồi sợ
hãi-hùng,
Vân-Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão-bà lật-đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
1821.- Vân-Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là
quốc-trạng trào-đình sai ra.
"Đem binh giẹp giặc Ô-qua,
"Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây."
Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già."
Vân-Tiên ngồi nhắm Nguyệt-Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
"Khen ai khéo vẽ
dung-nghi giống mình.
1831.- "Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
"Lão-bà khá nói
tính danh cho tường.
Lão-bà chẳng dám lời gian:
"Tượng nầy vốn thiệt chồng nàng ngồi đây."
Tiên rằng nàng xích lại đây,
"Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe."
Nguyệt-Nga lòng rất kiên-dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân-Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
1841.- Rằng sao nàng chẳng nói đi,
"Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt-Nga khép nép thưa qua:
"Người trong bức tượng tên là Vân-Tiên.
"Chàng đà về chốn
cửu tuyền.
"Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió-trăng."
Vân-Tiên nghe nói hỏi phăng:
"Chồng là tên ấy vợ là tên chi?"
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân-Tiên vội-vã xuống quì vòng tay,
1851.- Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
"Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
"Để lời
thệ hải minh sơn,
"Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
"Vân-Tiên vốn thiệt là tôi,
"Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ."
Nguyệt-Nga bảng-lảng bơ-lơ,
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài,
"Khúc-nôi xin cứ đầu bài phân qua."
1861.- Vân-Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt-Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân-tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn-rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang-dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày
can-qua.
Vân-Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn-Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng-rỡ tỏ tình cùng nhau.
1871.- Minh rằng: "
Tẩu tẩu ở đâu,
"Cho em ra mắt chị dâu thế nào?
Vân-Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt-Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
"Quyết đem binh mã qua miền Ô-qua.
"May đâu sum-hiệp một nhà."
"Giặc đà an giặc,
khải ca hồi trào."
Tiên rằng nàng tính thế nào?"
Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
1881.- "Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
"Lệnh tha tội trước mới nên về nhà."
Trạng-nguyên từ-gĩa lão-bà,
Dặn-dò gởi lại Nguyệt-Nga ít ngày:
"Ta về đem bức tượng nầy,
"Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà."
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều-ca
đề-huề.
Sở-vương nghe trạng-nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên
ngai.
1891.- Sở-vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng ngài trạng-nguyên,
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
"Có người Cốt Đột phép tiên lạ-lùng.
"Nay đà trừ Cốt Đột xong,
"Thiệt trời sinh Trạng giúp trong nước nhà.
"Phải chi trước có Trạng ra,
"Làm chi nên nỗi Nguyệt-Nga cống Hồ."
Lệnh truyên mở
yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi.
1901.- Trạng-nguyên quì tấu một hồi.
Nguyệt-Nga các việc khúc-nôi rõ-ràng.
Sở-vương nghe tấu ngỡ-ngàng,
Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
"Chẳng ngờ nàng với Trạng-nguyên,
"Cùng nhau trước có
nhân-duyên thuở đầu."
Tháì-sư trước bệ quì tâu:
"Ô-qua dấy động qua mâu cũng vì.
"
Trá hôn oán ấy nên gây,
"Nguyệt-Nga nàng thiệt tội thì
khi quân."
1911.- Trạng nguyên mặt đỏ phừng-phừng,
Bèn đem bức tượng làm
bằng.
Sở-vương xem tượng phán rằng;
"Nguyệt-Nga trinh-tiết ví bằng người xưa,
"Thái-sư trước chẳng lo
lừa,
"Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
"Dầu cho
nhật-nguyệt rõ-ràng,
"Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
"Ngay gian sao cũng có trời,
"Việc nầy vì trẫm nghe lời nên oan,
1921.- Trạng-nguyên tâu trước
trào đàng.
"Thái-sư
trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
"Trịnh Hâm là đứa gian-tà,
"Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen."
Sở-vương phán trươc bệ tiền:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi.
"Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
"Thái-sư ý muốn cướp ngôi
chín trùng.
"Hán xưa có gã
Đổng-công,
"Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
1931.- "Đời xưa tôi nịnh biết bao,
"Thái-sư nay cũng khác nào thời xưa.
"Thấy người
trung-chính chẳng ưa,
"Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
"Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
"Ấy là mới hết người sau gian-tà."
Sở-vương phán trước trào ca,
Thái-sư cách chức về nhà làm dân,
Trịnh Hâm là đứa
bạo-thần,
Giao cho quốc-trạng xử phân
pháp-hình.
1941.- Nguyệt-Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận-chúa hiển-vinh rỡ ràng.
Kiều-công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho
phục chức làm quan Đông-thành.
Trạng-nguyên dẹp giặc đã thành,
Kiệu trương tán phụng cho đành
vinh-hoa.
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng-nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu, đều vui, đều cười.
1951.- Trạng-nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ác các người tính sao ?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh,
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh ?
"Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
"Kéo ra chém quách cho rồi,
"Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan."
Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
"Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi.
1961.- "Xưa nay mấy đứa vô nghì,
"Dầu cho có sống làm gì nên thân ?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng
cố-nhân,
"Vốn em mới dại một lần xin
dung.
Trạng rằng: "Hễ đứng anh hùng,
"Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
"Thôi thôi ta cũng rộng suy,
"Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Hâm rằng: "Khỏi giết rất vui,"
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
1971.- Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như về thịt trâu.
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc-trạng kịp chầu
vinh qui.
Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ-thẹn mình vì máu dê.
Trạng-mguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân
hộ-vệ rước về Nguyệt-Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt-Nga từ-tạ thẳng qua Đông-thành.
1981.- Võng điều, gươm bạc, lọng xanh,
Trạng-nguyên, Tử-trực, Hớn-Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời
báo ứng lẽ nầy rất ưng.
Thấy vầy nên dửng-dừng-dưng,
Làm người ai nấy thì đừng
bất nhân.
Tiểu-đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
1991.- Của đi khuyên-giáo mấy năm,
Tính đem
hài-cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ-thẩn vào ra Đại-đề.
Trạng-nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc, lo bề tế riêng:
"Tiểu-đồng hồn bậu có thiêng,
"Thảo tình thầy tớ lòng
thiềng ngày nay."
Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
2001.- Người ngay Trời Phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu-đồng đến coi.
Trạng-nguyên còn hãy sụt-sùi,
Ngó lên
bài vị lại xui lòng phiền.
Tiểu-đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
"Ông nầy sao giống Vân-Tiên cũng kỳ ?
"Ông nào mất xuống âm-ti,
"Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
Trạng -nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải ngươi Đồng-tử mắc nàn chốn ni?"
2011.- Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng-cay từ ngằn.
"Ai dè còn thấy
bổn-quan,
"Ba năm gìn-giữ mồ hoang đã rồi."
Trạng-nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum-hiệp tại nơi Đại-đề.
Tuần-du phút đã gần kề Hàn-giang.
Võ-Công từ xuống xuối vàng,
Thể-Loan cùng mụ Quỳnh-Trang đeo sầu.
2021.- Mẹ con những mảng lo âu,
Nghe Vân-Tiên sống gặp chầu công-danh.
Cùng ta xưa có ân-tình,
Phải ra đón rước
lộ trình họa may.
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
"E người còn nhớ những ngày trong hang."
Trang rằng: "Con có
hồng nhan,
"Cho chàng thấy mặt thời chàng cũng ưa.
"Ví dầu còn nhớ tích xưa,
"Mẹ con ta lại đổ thừa Võ-Công,"
2031.- Cùng nhau bàn-luận đã xong.
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.
Nay đà tới thứ Trạng-nguyên,
Hàn-giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng, châu-báu, áo quần,
Trạng-nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
Ngư, tiều nay đặng danh
bêu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng-nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh-Trang đã đứng kề trong quân.
2041.- Trang rằng: "Tưởng chữ
hôn nhân,
"Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng-nguyên.
"Võ-Công đã xuống
huỳnh tuyền,
"Xin thương lấy chút
thuyền-quyên phận nầy."
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy,
"Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
"
Oan-gia nợ ấy trả xong.
"Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi."
Hớn-Minh, Tử-Trực đứng coi,
Cười rằng: " Hoa khéo làm mồi trêu ong.
2051.- Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
"Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi ?
"
Ca ca sao chẳng chịu đi.
"Về cho
tẩu-tẩu để khi xách giày."
Mẹ con đứng thẹn thuồng thay,
Vội-vàng cúi lạy chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng
2061.- Bốn bề đá lấp bịt-bùng,
Mẹ con than-khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia
quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết
ngãi sâu,
Gặp cơn
hoạn-nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh.
Trạng-nguyên về đến Đông-thành,
Lục-ông trước đã xây dinh ở làng.
2071.- Bày ra
sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt-Nga.
Sui-gia đã xứng sui-gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh-thần,
Sinh con sau nối
gót lân đời đời.

_ C h u n g _
Chú thích:
hồi hương: về làng.

khoa-trường: trường thi.

qui y: tin theo tông-giáo.

phần mộ: mồ-mả.

lễ-vật: đồ-vật dùng trong việc cúng-kiếng.

nghiêm-trang :

văn-tế: văn dùng vào việc tế-lễ.

minh-sinh (tinh): miếng lụa dài có viết tên họ và chức hàm của người chết.

nằm gíá: người có hiếu.

khóc măng: hai người có hiếu trong 24 nhân-vật có hiếu đã ghi vào sách xưa . Một người tên Vương Tường đời Tấn khi đang giữa mùa đông, tuyết giá, mẹ thèm cá, chịu trầm mình nằm trên gía để kiếm cá đem dâng mẹ. Một người tên Mạnh Tôn đời Ngô thì lúc mẹ thèm măng, ra đứng khóc ở bụi tre để cầu măng mọc, khổ công kiếm măng trong lúc hiếm.

ân-tình: ân-huệ.

biếm quyền: đè quyền xuống. Giáng chức quan.

đoàn viên: họp lại đầy-đủ.

Hồ Việt: hai nước cách xa nhau lắm. Trong van-chương thường dùng để chỉ sự cách-bức.

én nhàn: do chữ nhạn là chim nhạn.

nữ-sinh: trẻ gái có học.

ôn-nhuần: xem-xét ghi-nhớ lại nhuần-nhã.

ứng kỳ: ra đúng lúc.

xuân-đường: cha.

khôi khoa: đứng đầu khoa.

y : áo.

quan-ải: chỗ đất hiểm trở ở nơi biên-giới của hai nước.

quốc-trạng: ông trạng của nước nhà.

loàn: do chữ loạn : lộn-xộn, không có trật-tự.

trạng-nguyên: người thi đỗ cao nhất.

Đề binh: đem binh đi đánh.

đương: cự, ngăn.

Hạng Võ: một danh-tướng đối đầu với Lư Bang, dựng ra nước Tây Sở, hiệu là Bá-vương, sức cực kỳ mạnh.

Trương Phi: danh tướng đời Tam-quốc anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Quan Vũ.

từ-bi: chỉ Phật.

binh đề: đem binh đi đánh.

nhất thinh: một tiếng.

phấn phát: ra sức tiến lên.

lôi: sấm.

tiên-phuông (phong): toán quân xông trận mặt trước trong khi chiến-tranh.

hậu-tập: toán quân ở sau chờ tiếp-cứu hoạc đánh bọc hậu.

đăng-trình: lên đường

bình tặc: dẹp giặc.

đáo: đến.

quan thành: cửa thành.

thối(thoái) binh: lui binh.

di đồn: dời chỗ đóng binh.

đường đường: bộ-dạng chững-chạc.

tiên-phong: xem chú-thích số 45 ở trên.đây

vong: mất.

xung: xông lên.

kim-khôi: khôi vàng.

hào: cái rãnh đào để giữ thành.

phản-hồi: trở về.

bổn-quân: quân-lính của mình.

tam canh: canh ba.

lộ-trình: bước đường.

dạ đài: lâu-đài ban đêm. Cảnh âm-phủ cũng như tuyền-đài.

quan-ải: chỗ đất hiểm-trở.

hãi-hùng: sợ-hãi quá sức.

quốc-trạng: ông trạng của nước nhà.

dung-nghi: dáng-dấp.

tính-danh: tên họ.

cửu-tuyền: chín suối. Cõi âm.

thệ hải minh sơn: hẹn biển thề non. Chỉ biển mà thề, chỉ núi mà hẹn.

can-qua: mộc và mác. Đồ binh-khí. Chỉ về việc chiến-tranh.

tẩu-tẩu: chị dâu.

khải ca: hát mừng thắng trận.

hồi trào: về triều.

đề-huề: nắm tay nhau cùng đi

ngai: ngôi vua ngự.

yến: tiệc rượu vui-vẻ, an-nghỉ.

đô: đất kinh-đô. Trào đô : đất ở triều.

nhân duyên: duyên-phận vợ chồng lấy nhau,

trá hôn: lừa dối trong việc cưới gả.

khi quân: lừa dối vua, vô lễ với vua.

bằng: bằng, hoặc: bằng-cứ. Nhờ vào. Dựa vào.

lừa: do chữ chuyển ra.

nhật nguyệt: mặt trời, mặt trăng.

trào đàng (đường): nơi triều-nội, vua và bày tôi nhóm họp.

trữ dưỡng: chứa-cất, nuôi-nấng.

chín trùng: do chữ cửu-trùng tức chín tầng trời : chỗ ở của vua, nơi cao cả.

Đổng-công: Đổng Trác đời Tam-quốc.

Trung-chính: trung-cang chính-trực.

bạo-thần: kẻ bày tôi hung-ác

pháp-hình: chịu tội cho phép.

phục chức: được trở lại chức-vụ cũ.

vinh-hoa: cỏ nở hoa là vinh, cây nở hoa . Lời khen người phú-quí vẻ-vang.

cố-nhân: người quen biết cũ.

dung: tha cho.

vinh-qui: vẻ-vang trở về.

hộ-vệ: theo giữ-gìn, che-chở.

báo ứng: trả lại rất ưng những gì mà ta đã gây.

bất nhân: chẳng có nhân. Người ác.

hài-cốt: xương của người chết đã lâu.

thiềng: do chữ thành chuyển ra.

bài vị: biên tên tuổi người chết để thờ.

bổn quan: tiếng các viên quan tự xưng ; ở đây là Vân Tiên được tiểu-đồng xưng.

tuần-du: qua lại rong chơi để xem-xét.

lộ trình: trên đường.

hồng-nhan: gương mặt tươi đẹp.

bêu (biêu): bày ra đều khắp.

hôn-nhân: hai nhà kết thân .Tình thông-gia.

huỳnh (hoàng) tuyền: suối vàng. Cõi chết.

thuyền-quyên: dáng đẹp-đẽ dễ thương. Nguyên nói chung về người và vật, song thường dùng để nói chung về đàn-bà con gái.

oan-gia: người thù-hằn.

ca ca: anh.

tẩu tẩu: chị dâu.

quả báo: kết-quả đối lại việc đã gây ra.

ngãi: nghĩa hoặc chuyển ra nghì, hoặc khi đọc là ngỡi.

hoạn-nạn: tai nạn khốn-khổ.

sáu lễ: sáu lễ trong việc gả cưới : nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghênh. Tức là tuần tự đi từ việc chạm ngõ, hỏi tên họ, nhà trai vào nhà thờ để làm lễ, đem lễ vật cho đàng gái tức đám hỏi hay đám nói, định ngày và đến lễ rước dâu là xong cưới xin .

gót lân: lân chỉ :con cháu nhà sang-cả cao quí. Xuất xứ nơi một bài trong thiên Chu Nam ở Kinh Thi, nói con cháu vua Văn-vương nhà Chu đều hoà thiện. 

No comments:

Post a Comment