Sunday, November 15, 2015

Lục-Vân-Tiên

(Phần một ...)
Tôi dùng quyển "Lục Vân Tiên" của nhà xuất-bản Tân-Việt, tại 235 Phan-thanh-Giản (Sài-Gòn) , in năm 1973, để làm trang nhà này. Tôi lược bỏ một số chi tiết về phần tiểu-sử vì quá dài.
Tiểu-sử Đồ-Chiểu:

Cụ Nguyễn-đình-Chiểu, tự Mạnh-Trạch, hiệu Trọng-Phủ (sau khi mù lấy hiệu Hối Trai), sinh ngày 12, tháng 5, năm Nhâm ngọ ( 1er juillet 1822), ở làng Tân-Khánh, tổng Bình-trị thượng, huyện Bình-Dương, phủ Tân-Bình, tỉnh Gia-Định. Cụ mất ngày 24 tháng 5, năm mậu-tý (3 juillet 1888) ở làng An-đức, tổng Bảo-An, quận Ba-tri, tỉnh Bến-Tre.
Cha là Nguyễn-đình-Huy, mẹ là Trương-thị-Thiệt. Ông là con cả của bà Thiệt, tuy vậy thuộc dòng thứ của ông Huy. Dòng chính của ông Huy với bà Phan-thị-Hữu có 2 con: Đình-Lân và Thị-Phu. Bà họ Trương có 7 con: các em của ông Đình-Chiểu là Thị-Thục, Thị-Nữ, Thị-Thành; Đình-Tựu, Đình-Tự, và Đình-Huân.
Ông đỗ tú-tài trong kỳ thi hương 1843 tãi Gia-Dịnh. Năm 24 tuổi ông ra Huế để thi hội. đọc đường nghe tin mẹ mất (10 December 1848) ông phải trở về cư tang. Trên đường về ông bị bệnh, mù hai mắt. Ông học được nghề thuốc từ thầy thuốc Trung. Năm sau về đến nhà ông dạy học, sĩ-tử rất đông.
Truyện "Lục-vân-tiên" và "Dương từ hà mậu" có lẽ được làm ra trong thờ kỳ này. Trong đám học trò, có Lê-Tăng-Quýnh, kính yêu và cám cảnh của thầy "Đồ Chiểu", đã xin cha mẹ gả em gái của mình là Lê thị Điền cho thầy.
Năm 1858, Pháp chiếm thành Gia-Định, ông phải về quê vợ ở Cần-Giuộc, Chợ-Lớn. Truyện "Ngư tiều vấn đáp" có lẽ được làm ra trong giai đoạn này.
Năm 1861, Pháp chiếm Cần-Giuộc, ông trôi nổi tới Ba-Tri xa xôi hẻo lánh. Năm 1867, cụ Phan-thanh-Giản tuẫn-tiết cũng là năm truyện Lục-vân-tiên được in ra bằng chữ quốc-ngữ do tay một người pháp là G. Janeau sao-lục và chú-thích. Cụ cũng như đa số văn-thân thời ấy không thích chữ quốc-ngữ.
Năm 1883, tham-biện chủ tỉnh Bén-Tre, đến viếng tiên-sinh để cầu nhuận chính bản "Lục-vân-tiên"; khi về có ghi vào báo "L' Independant de Saigon" ( 17 juìllet 1883).
"Cụ Đồ Chiểu nằm trên giường vì đang cơn bệnh nặng. Người ta đã lén tôi mà cho cụ hay trước sự tôi đến, nên cu muốn chỗi dậy tiếp tôi. Biết thế, tôi bèn đi thẳng vào buồng cụ thì vừa khi cụ bước ra phòng khách, có hai người dìu đỡ. Cụ đồ là một ông già cao lớn, đẹp đẽ, gương mặt trầm tĩnh xanh-xao, đầy vẻ cao-nhã. Lời nói của cụ rất thanh-tao trôi-chảy và tôi nghe cụ được rõ ràng đầy đủ. Về phần tôi thì khác hẳn, cụ không nghe đặng tôi vì cụ đã điếc. Chỉ có đôi ba người quen gần cụ là có thể nói cho cũ nghe hiểu. Sau câu chuyện về sức khoẻ của cụ, tôi đề cập đến việc quan trọng của tôi nhưng không hi-vọng thành công. Cu Đồ Chiểu tỏ thật với tôi rằng sức khoẻ và trí nhớ của cụ đã giảm, thêm phần khó cho cụ trong việc nhuận chính bản thơ "Lục vân tiên". Tôi bèn bàn với cụ để cho những người đã quen với cái thính quan của cụ ngâm thơ "Lục vân tiên" theo một bản in của người Tàu, rồi cụ chỉ những câu thừa nên bỏ, những câu trật nên sửa và những câu bị bớt nên thêm vào. Cụ nhận làm cái công việc nhọc-nhằn ấy.
Rồi tôi tặng cụ một quyển "Lục vân tiên" chữ nôm rất đẹp. Cụ muốn cảm ơn tôi theo lễ tục Viêt-Nam. Tôi bèn nhờ người nói lại rằng giữa cụ và tôi không nên giữ lễ, tôi còn trẻ, không dám làm phiền cụ điều chi hơn là xin cụ đối đãi với tôi như một bậc lão thành thông-thái tiếp một người bạn ngoại-quốc rất hâm-mộ cụ.
Giao-kết xong rồi, tôi tiếp tục hầu chuyện cùng cụ. Thật cụ là một tinh-thần thanh cao và rất mực khiêm tốn. Cụ nói với tôi rằng cụ rất đỗi ngạc-nhiên mà thấy ngày nay người ta để ý tới cụ; và trước khi tôi nói với cụ điều gì (vả lại điều đó tôi cũng không muốn nói), cụ đã hiểu ý. Cu bảo tôi rằng cụ lấy làm vinh hạnh được người đời chú trọng tới văn phẩm của cụ và chiếu cố tới thân phận cụ. Ngoài ra cụ khước từ tất cả các món tưởng lệ bằng tiền bạc. Đời sống của cụ cũng đầy đủ và chút thanh danh mà người đời bao quanh tên tuổi của cụ cũng đủ làm cho cụ thỏa mãn rồi.

Truyện Lục-Vân-Tiên có thể chia làm 21 đoạn như sau:
1/- Vân-Tiên tạ thầy xin về đi thi.
2/- Vân-Tiên lên đường gặp lũ sơn-đài.
3/- Vân-Tiên cứu Kiều-Nguyệt-Nga.

4/- Nguyệt-Nga về Hà-Khê.
5/- Vân-Tiên đi thi.
6/- Vân-Tiên để Hớn-Minh đi trước, mình về thăm nhà đã.

7/- Vân-Tiên ra đi thi, ghé Võ-công gặp bạn.
8/- Vân-Tiên từ tạ Võ công, Thể-Loan. Lên đường ra kinh; gặp Vương-Tử-Trực, Trịnh-Hâm, Bùi-Kiệm.

9/- Vân-Tiên được tin mẹ chết, quày quả tỡ về.
10/- Trịnh-Hâm hại Vân-Tiên, trói tiểu-đồng trong rừng; xô Vân-Tiên xuống sông.

11/- Ngư ông vớt Vân-Tiên lên, đưa về nhà Võ công.
12/- Võ công giả đưa về Đông-Thành, đem Vân-Tiên bỏ trong hang Thương tòng.

13/- Du-thần cứu ra khỏi hang, gặp lão tiều cõng Vân-Tiên về nhà.
14/- Hơn-Minh đem Vân-Tiên về chùa.

15/- Nguyệt-Nga nghe tin Vân-Tiên mất buồn rầu khóc than.
16/- Thái-sư đi nói Nguyệt-Nga cho con không được, nên oán mà xin vua đòi đi cống Hồ.

17/- Nguyệt-Nga nhảy xuống sông, nhờ Quan-Âm đem vô bờ; vào vườn gặp Búi ông đem về nuôi; bị Bùi-Kiêm dỗ ngon dỗ ngọt.
18/- Nguyệt-Nga trốn họ Bùi; gặp lão bà đem về nuôi.

19/- Vân-Tiên nhờ thuốc tiên sáng mắt, bỏ chùa; giã từ Hớn-Minh đi về thăm cha.
20/- Vân-Tiên thi đậu trạng-Nguyên; vua sai đi dẹp giặc với Hớn-Minh.
21/- Vân-Tiên gặp Nguyệt-Nga, về tâu vua_ ơn đền oán trả, rồi về vinh qui cưới Nguyệt-Nga.

1.- Vân-Tiên tạ thầy xin về đi thi (câu 1 - câu 76)

1.- Trước đèn xem truyện
Tây-minh,
Gẫm cười hai chữ
nhân-tình éo-le.
Hỡi ai lẳng-lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời
trung hiếu làm đầu,
Gái thời
tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận
Đông-thành,
Tu nhân tích đức, sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục-vân-Tiên,
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên
học-hành.
11.- Theo thầy
nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản
sân Trình lao đao.
Văn
đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm
ba lược, sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Văn-Tiên vào
tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
"Đã tươi
khí tượng lại xuê tinh thần .
"Nay đà gặp hội
phong vân,
"Ai ai mà chẳng
lập thân buổi này.
21.- "Chí
lăm bắn nhạn ven mây,
"Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
"Làm trai trong cõi người ta,
"Trước lo
báo bổ sau là hiển vang."
Tôn sư bàn luận
tai nàn,
Gẫm trong
số-hệkhoa tràng còn xa.
Mây trời chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót-xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
Phải toan một phép để phòng
hộ thân.
31.- "Rày con xuống chốn
phong trần,
"Thầy cho hai đạo
phù thần đem theo.
"Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
"Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an."
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân-Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
"Tôn sư người dạy
khoa kỳ còn xa?
"Hay là bối rối việc nhà?
"Hay là
đức bạc hay là tài sơ?
41.- "Bấy lâu lòng những ước mơ,
"Hội này chẳng gặp còn chờ hội
nao?"
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho
minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm
đăng trình mới an.
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "
Vạn lý trường đồ,
"Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
51.- "Hay là con hãy
hồ-nghi,
"Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"
Vân-Tiên nghe nói liền thưa:
"
Tiểu-sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
"
Song đường tuổi hạc đã cao,
"Xin thầy nói lại
âm hao con tường."
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn
tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
61.- "Tuy là soi khắp mọi nơi,
"Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
"Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
"Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
"Số con hai chữ khoa kỳ,
"
Khôi tinh đã rạng, Tử-vi thêm lòa.
"Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
"Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
"Bao giờ cho tới bắc phang,
"Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh.
71.- "Sau dầu Đặng chữ
hiển-vinh,
"Mấy lời thầy nói
tiền trình chẳng sai.
"Trong cơn
bỳ cực thái lai,
"Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn."
Vân-Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ
keo sơn một lời.

2.- Vân-Tiên lên đường gặp lũ sơn-đài (câu 77 - câu 136)

Ra đi
vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi
học đường.
Tiên rằng: "
Thiên các nhất phương,
"Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
81.- "Quản bao thân trẻ dãi-dầu,
"Mang đai
Tử-Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
"Bao giờ
cá nước gặp duyên,
"Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn
lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.
91.- Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non.
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con!
"Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
Dân rằng: "
Tiểu tử là ai?
"Hay là một đảng
sơn-đài theo tao?"
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
"Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời."
Dân nghe tiếng nói
khoan thai,
Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua:
101.- "Nhân rày có đảng
lâu la,
"Tên rằng đỗ Dự, hiệu là Phong-Lai.
"Nhóm nhau ở chốn sơn-đài,
"Người đều sợ nó có tài
khôn đương.
"Bây giờ xuống cướp
thôn hương,
"Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
"Xóm làng chảng dám nói chi,
"Cám thương hai gã
nữ-nhi mắc nàn!
"Con ai vóc ngọc mình vàng,
"Má đào mày liễu
dung nhan lạnh lùng.
111.- "E khi mắc đảng
hành hung,
"Uổng trang
thục nữ sánh cùng thất phu.
"Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
"Chạy đi cho khỏi kẻo
âu tới mình"
Vân-Tiên nổi giận
lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn
đình nơi nao?
"Tôi xin ra sức
anh hào,
"Cứu người cho khỏi lao đao buổi này."
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
"Qua xem tướng
bậu thơ ngây đã đành.
121.- "E khi
hoạ hổ bất thành,
"Khi không mình lại xô mình vào hang."
Vân-Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, tìm đàng chạy vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng
hung đồ!
"Chớ quen làm thói
hồ-đồ hại dân."
Phong-Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
"Trước gây việc dữ tại mầy,
"Truyền quân bốn phiá phủ vây bịt-bùng."
131.- Vân-Tiên
tả đụt hữu xông,
Khác nào
Triệu-Tử phá vòng đương-dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong-Lai trở chẳng lập tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân
vong.

3.- Vân-Tiên cứu Kiều Nguyệt-Nga (câu 137 - câu 236)

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe này?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
"Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
141.- "Trong xe chật hẹp khôn phô,
"Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng."
Vân-Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
"Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
"Nàng là phận gái, ta là phận trai.
"
Tiểu thư con gái nhà ai,
"Đi đâu nên nỗi mang tai
bất kỳ.
"Chẳng hay tên họ là chi?
"
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
151.- "Trước sau chưa hãn dạ nầy,
"Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?"
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt-Nga,
"Con này
tỳ-tất tên là Kim-Liên.
"Quê nhà ở quận Tây-xuyên,
"Cha làm tri-phủ ở miền Hà-khê.
"Sai quân đem bức thư về,
"Rước tôi qua đó định bề
nghi gia.
"Làm con đâu dám cãi cha,
"Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
161.- "Chẳng qua là sự
bất bình,
"Hay vầy cũng chẳng
đăng trình làm chi.
"
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
"
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
"Trước xe
quân tử tạm ngồi,
"Xin cho
tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
"
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
"Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
"Hà khê qua đó cũng gần,
"Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
171.- "Gặp đây đương lúc giữa đàng,
"Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
"Gẫm câu
báo đức thù công,
"Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi."
Vân-Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
"Này đà rõ Đặng nguồn cơn,
"Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
"Nhớ câu
kiến ngãi bất vi,
"Làm người thế ấy cũng
phi anh-hùng.
181.- "Đó mà biết chữ
thỳ chung,
"Lựa là đây phải theo cùng làm chi."
Nguyệt-Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: "Tiện-thiếp đi đường,
"Chẳng hay quân-tử quê-hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân-Tiên há nỡ lòng nào phôi-pha:
"Đông-thành vốn thiệt quê ta,
"Họ là Lục-thị, tên là Vân-Tiên."
191.- Nguyệt-Nga vốn đấng
thuyền-quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp
tri âm,
"Xin đưa môt vật để cầm làm tin.
Vân-Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt-Nga liếc thấy càng
thìn nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
"Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
"Của này là của vất vơ,
"Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!"
201.- Vân-Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình
lây-dây.
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
"
Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang.
"Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
"Một lời cũng nhớ,
ngàn vàng chẳng phai.
"Nhớ câu
trọng ngãi khinh tài,
"Nào ai chịu lấy của ai làm gì."
Thưa rằng: "Chút phận
nữ nhi,
"Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
211.- "Ai dè những đấng anh hùng,
"Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm."
Riêng than: "Trâm hỡi là trâm!
"Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
"Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
"Thiếp xin đưa một bài thơ giã-từ."
Vân-Tiên ngó lại rằng: "Ừ,
"Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu."
Nguyệt-Nga ứng tiếng xin
hầu,
Xuống tay liền tả
tám câu năm vần.
221.- "Thơ rồi này thiếp xin dâng,
"Ngửa trông lượng rộng
văn-nhân thể nào?"
Vân-Tiên xem thấy
ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen
Tạ-nữ, cũng tày Từ-phi.
Thơ ngâm
dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân-Tiên họa lại một bài trao ra.
231.- Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hòa vận mai.
Có câu
xúc cảnh hứng hoài,
đường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.

Chú thích:
Tây-minh: Truyện Tây-minh là bộ truyện nói về gì, xưa nay không mấy người dám chú-thích rành-rọt, vì lẽ dễ hiểu là ít người được rạ bộ truyện ấy. Có điều có thể đoán biết là bộ truyện ấy đã nói về một cuộc hôn-nhân mà mà người chủ hôn trước hựa sau lại lấy lời, vì thế cụ đồ Chiểu nhân thấy cuộc đời của mình cũng có quãng đời giống người trong truyện ấy, nên khi cụ Đặt quyển truyện bằng thơ "Lục Vân Tiên", cụ liền nghĩ ngay đến tập truyện Tây-minh mà cụ đã có xem kia, mới đem lên mào đầu để nói tổng-quát toàn quyển Lục Vân Tiên mà cụ sẽ diễn-tả lần-lượt. Và nhân-vật chính trong truyện của cụ; chàng Lục Vân Tiên chính là phản-ảnh của cụ.
Theo sự khảo-sát của ông Ngạc-Xuyên Ca văn Thỳnh thì: "Truyện Tây-minh" là nguồn gốc của bổn thơ: mà bổn chép viết chữ Minh là ghi vào, bổn in lại chữ "Minh" là sáng. Rất tiếc là tìm không được bổn truyện chữ Hán "Tây-minh" được biết ra chữ "Minh" nào mới đúng, lại nhất là được biết ra nguồn-gốc thơ Lục Vân Tiên, để hiểu thêm tâm-lý của tác giả, cũng như có người tìm ra nguồn gốc truyện Kiều và truyện Hoa-tiên.
Nếu "Tây-minh" viết chữ minh theo bản chép thì chỉ thấy bài văn quí giá, đầy triết lý của Trương Tải, nhà Tống trong sách Tính-lý, chứ không thấy truyện Tây-minh nào để tên thế ấy. Hay là chúng tôi chưa sưu-tầm được chăng ?

trung hiếu: Trung :lòng ngay-thẳng đúng muc. Hiếu: đạo làm con kính thờ cha me.

tiết hạnh: tiết: lóng, mác, chi về sự ngay-thẳng, giữ gìn (Thân trúc khô nhưng thẳng lóng- Thơ Trần danh án đời Lê Mạc). Hạnh: nết-na.

Đông-thành: môt quận chỉ có trong trí tưởng của tác-giả. Tuy trên bực dư đồ ở nước ta, Tàu hay đâu khác, cũng có cái tên Đông-thành, nhưng đừng lầm nghĩ đến đó chi cho mất công. (Ai như giáo-sư Paul Midan đã ra công dịch bản tuồng "Kim-Thạch kỳ-duyên" của cụ Bùi hữu Nghĩa, lại tỳ mỳ tra-cứu những địa danh trong bản ấy !) .Tuy nhiên, quận Đông-thành ở Lục Vân Tiên đây là ý tác giả liên tưởng tới đất "Đông-phố (Gia-định vậy).
(Trời Đông-phố vận ra Sóc cảnh...-Văn tế trận vong tướng-sĩ của tiền-quân Nguyễn văn Thành)

Tu nhân tích đức: sửa viêc nhân, chữa việc công-đức.

học-hành: Học và đem sở học ra thi-hành.

nấu sụ xôi kinh: thành-ngữ chỉ về việc chịu khó học-tập

sân Trình: thành-ngữ chỉ về trường học Nho. Trình-tử, một bậc đại-hiền. Cũng như cửa Khổng (tức Khổng-tử)

đà: do tiếng đã chuyển ra.

khởi phụng đằng giao:Phụng dậy rồng bay .Thành ngữ chỉ về sự hay giỏi. Văn đà tức là văn chương khác thường

ba lược, sáu thao: Tực tam lược lục thao: tên bộ sách của Thái công Vọng tức Lẳ Vọng là danh hiệu của Khương Thượng tự Tử-nha đời Châu Vũ-Vương (1135-1116 tr.t.l.) Sách nói về việc binh, gồm có : văn thao, vũ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao. (thao: phàm giấu kin ở trong không lộ ra ngoài điều gì gọi là thao).Và thượng, trung, hạ: ba phương sách hành binh tất thắng, tực tam lược
tôn sư: tiếng xưng tụng bậc thầy đáng tôn.

khí tượng : cái khí khái cụ-động của con người. ý-chí mạnh-mẽ phát ra thành hình.

tinh-thần: thần-sắc đẹp-đẽ, rạng-rợ.Linh-hồn.Gọi chung những cái thuộc về vô hình.

phong vân: gió mây.Do theo thành-ngữ xuất xứ ở kinh Dịch, lời văn-ngôn:Vân tùng long, phong tùng hổ:mây theo rồng, gió theo cọp.Chỉ về lúc phải thời đỏ vận. Bản của cụ Trương vĩnh Ký chép là:... hội long vân, tức hội mây rồng, cũng không ra ngoài nghĩa ấy.

lập thân: ráng lo cho nên thân.

lăm: dốc lòng lắm.

bắn nhạn ven mây: thành-ngữ chỉ về sự quyết tâm những chuyện khó-khăn.

báo bổ: vì đền ơn cho người mà lo làm việc ích cho người. đền-bù nhẳng lúc người vì mình mà cực nhọc.

hiển vang: rợ-ràng.

tai nàn: (do chữ nạn chuyển ra):nói chung về những họa hại về nước, lửa, trộm, cướp.

số-hệ: mệnh-vận định trước.

khoa tràng: trường thi.
hộ thân: che-chở thân-thể.

phong trần: gió bụi.Chốn phong-trần chỳ về cuộc đời.Tình-cảnh gian-khổ nay đây mai đó.

phù thần: bùa thần.Bùa rất linh.

khoa kỳ: kỳ thi

đức bạc: bạc:mỏng(đức). Theo văn-phạm tiếng Hán, nói là bạc đức. Chuyển ra mẹo tiếng Việt, chữ bạc lại cũng nhập-tịch Việt-nam, nên gọi là (đức) mỏng hoặc (đức) bạc.

tài sơ: sơ(tài):thưa(tài).

nao: do tiếng nào chuyển ra.

minh: sáng-tỏ.

đăng trình: lên đường.

Vạn lý trường đồ: đường dài vạn dặm.
hồ-nghi: tính con cáo hay nghi.Nghi nhiều.

Tiểu-sinh: con trẻ học trò nhỏ tuổi. Người hậu học. Người học-trò tự khiêm xưng mình.

nắng mưa: câu này ý nói chưa biết rồi ra việc thế nào.

tuổi hạc: con hạc sống rất lâu.Tuổi hạc là danh từ người ta dùng "lấy hên"cầu sống như con hạc vậy.

âm hao: tin-tực.

tường: hiểu rạ.

tiền đường: nhà trên.

nhân cơ tàng sự: nhân cơ trời dấu nhiều việc (mà chỉ dạy Vân-Tiên).

khôi-tinh: ngôi sao thự nhất trong đám sao Bắc-đẩu.Nguyên bản Trương vĩnh Ký chép:Khuê tinh.Cũng một nghĩa.Nhưng dùng chữ "khôi" mới đắc sách,vì có ý nói về sự đỗ đạt,chiếm khôi-nguyên.
tụ-vi: vì sao chính, tốt

hiển-vinh: có danh-giá rợ-ràng.

tiến-trình: bước đường trước mặt.Tương-lai.

bĩ cực thái lai: khổ hết sướng lại. Bĩ-Thái vốn là tên quẻ Dịch. Bỉ vốn cùng,Thái vốn thông. Vả, hết tuần cùng thì đến thông, cơ trời vận-chuyển đều-đặn.

keo sơn: hai vật dính-dấp.Nhà văn mượn đó dùng vào nghĩa bóng; việc chi bền-chặt.Chữ Hán, keo là giao, sơn là tất.Nên trong văn-chương có câu; một lời đã gắn tất giao. Vốn là nghĩa ấy.Thơ xưa có câu: Dĩ giao đầu tất trung, Thuỳ năng biệt-ly thụ ? Nghĩa là; lấy keo mà bỏ vào trong sơn, ai làm cho chia rẽ được đó nữa.

Vừa rạng chân trời: lúc hừng Đông.

học-đường: trường học

thiên các nhất phương: bơ-vơ trong một khoảng trời đất.

Tử Lộ: học-trò đức Khổng-tử. Có tiếng là hiếu. Thuở trẻ, đội gạo đường xa kiếm tiền nuôi mẹ. Đến lúc mẹ chết, ra làm quan, tiền-của chớn-chở, nhưng thời thường hay than;:"Không còn mẹ để lại được đội gạo nuôi mẹ như xưa".Ở câu này,mang đai Tư Lộ, ý tác-giả muốn nói tâm-trạng Vân-Tiên khi ấy nóng nảy thương cha nhớ mẹ muốn chấp cánh mà bay riết cho tới nhà, để khỏi nặng mình ràng buộc bởi thương cảm.

Nhan Uyên: học-trò đức Khổng-tử. Nổi tiếng hiền. Hằng ngày, Nhan ăn ở rất giản-dị.đức Khổng thường khen:"Hiền thay ngươi Nhan Hồi(Hồi là tên tộc của Nhan). Một giỏ cơm một bầu nước, ở nơi chốn ngạ hẻm hang cùng, thế mà vui".Ở câu này bầu Nhan Uyên tực là tác giả cho Vân Tiên học đòi Nhan Uyên sống thanh đạm,vui thú giẳ vẹn tính hiền-lương chân-chất.
cá nước gặp duyên: thành-ngữ chỉ về sự được như ý. Như cá gặp nước, thì duyên may sung-sướng biết bao.Do câu chữ Hán: Ngư thủy tương phùng. Dẫn điển :Lưu Bị nhà Hán thường nói: "Cô đắc Khổng Minh do ngư chi đắc thủy. Nghĩa làTa được Khổng Minh cũng ví như con cá được nước.

lân-gia: hàng xóm. Nhà ở gần đó.

tiểu-tử: gã trẻ tuổi.

Sơn-đài: cướp núi.

Khoan-thai: chậm-rãi êm-ái.

Lâu-la: tay sai của tướng cướp.

khôn đương: ngăn cản, nhận lấy.

thôn-hương: xóm làng vùng quê

nẳ-nhi: gái trẻ.Tiếng gọi chung đàn-bà con-gái còn trẻ.

dung-nhan: vẻ mặt.Câu này ý nói dung-nhan xem thấy bắt động lòng.

Hành hung: làm dữ.
Thục-nữ: người con gái dịu-dàng mà lại trinh-chính.

Thất-phu: người nhỏ-hèn. Người chẳng ra gì.

âu: do chữ ưu chuyển ra. Lo-sợ, buồn-rầu.

Lôi-đình: sấm sét. ý nói là nổi cơn tức-giận.

đình: dừng lại

Anh-hào: người có tài giỏi, sức mạnh. Anh là đẹp nhất.Hào là mạnh, khôn nhất

Bậu: Người lớn tuổi gọi mơn-trớn có ý trêu-cợt người trẻ.

Họa hổ bất thành: vẽ cọp chẳng nên hình.ý nói: toan làm chuyện phải, cao mà không xong thì cũng khổ với tiếng cười nhạo của người chung quanh, xuất xứ ở sách Hậu Hán thư. "Họa hổ bất thành phản loại cẩu". Nghĩa là: Vẽ hổ không nên lại giống chó, ý chê người không lượng biết sực mình làm càn.

Hung-đồ: bọn dữ-dằn.

Hồ-đồ: không rạ rạ sự lý

Tả đụt hữu xông: đánh tan bên trái, lướt tràn bên mặt.
Triệu Tử: Triệu Tử-long (tên là Vân). Tử-Long một trong năm viên tướng mạnh của Lưu Bị đời Tam-quốc đã nổi danh ở trận Đương-dương, một mình chống với muôn quân của Tào Tháo, cứu á-đẩu.

đương-dang: chính chữ thì Đương-dương, nơi Triệu Tử-long phá quân Tào. Viết là dang để cắn vào với câu dưới.

Vong:

Tiểu-thư: gái nhà quan.

Bất kỳ: chẳng có kỳ, thình-lình.

Khuê-môn: cửa buồng của con gái. Khuê-môn phận gái: phận gái vốn ở chốn buồng the.

Tỳ-tất: con đòi, đầy tớ gái.
Nghi-gia: nên nhà định bề nghi-gia: Lo cho yên bề vợ chồng, vì có vợ chồng tất phải lo việc cửa nhà, nên mượn thành-ngữ: "Nghi gia nghi thất": nên nhà nên cửa, để chỉ về việc định Đôi-bạn.

Bất bình: chẳng bằng, ý nói việc không dè mà có được, việc trái.

đăng-trình: lên đường

Lâm nguy: gặp nguy. Phải việc không lành.

Giải nguy: cởi bỏ cái nguy. Trút khỏi việc không lành.

Tiết: lóng, mắc, chỉ về sự ngay thẳng, giữ-gìn (Thân trúc dẫu khô nhưng thẳng lóng-thơ Trần danh án đời Lê-Mạc)

Quân-tử: danh từ dùng xưng tụng người học-trò chính-chắn.

Tiện thiếp: tiếng của người đàn bà con gái khiêm-nhượng tự xưng.Tiện:hèn, thiếp: đàn-bà chịu phận lẽ mọn. Tiện-thiếp: phận đàn-bà hèn.

Chút tôi: cái tôi bé bỏng. Tiếng tự khiêm nhượng.

Liễu yếu đào thơ: chỉ về người con gái thân-phận yếu-ớt.

Báo đức: đáp cái ân đức.
Thù công: trả công ơn

Kiến ngãi bất vi: chính là nghĩa, đọc trại ra là ngãi hoặc ngợi: thấy việc nghĩa không làm.

Phi anh-hùng: chẳng phải anh hùng.

Thỉ-chung: trước sau. Biết chữ thỉ-chung: ý nói biết phải; có trước có sau vẹn tròn.

Phút nghe: (trong giây) phút (mà được)nghe.

Thanh-thao: trong-trẻo.

thiền-quyên: con-gái đẹp-đẽ.

Tri-âm: Vật trao đưa để nhớ đến nhau.

Thin: thấy ưa nhìn. Do chữ "thấy ưa nhìn" chuyển âm theo lối thúc vần (variation phonetique) thành ra:"thấy (ưa) nhìn" lái lại là thìn. Thìn nết-na: nết-na thấy ưa nhìn.

lây-dây: lây ra và khiến cho ai chạm phải thì dây-vướng.

Ơn kia đã mấy: ơn kia nào đã được bao nhiêu đâu. Có nhiều bản chép: ơn kia đáng mấy; e không hay bằng nguyên-bản Trương vĩnh Ký

Ngàn vàng chẳng phai: ngàn vàng đỏ không thể làm phai được màu đỏ của lòng.
Trọng ngãi (nghĩa) khinh tài: nặng phần nghĩa mà rẻ-rúng tiền.

Nữ-nhi: gái trẻ.Tiếng gọi chung đàn bà con gái còn trẻ.

Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.: câu này lời lẽ thật hay: vốn ( tôi phận đàn bà con gái) chưa biết (cái) lẽ (mà chàng đã nói (nên mới) có khi mích lòng (chàng) (làm vậy).

hầu: câu này: Nguyệt Nga lên tiếng xin vâng làm thơ hầu Vân Tiên.

Tám câu năm vần: tực là thơ bát cú thất ngôn đường-luật.

Văn-nhân: người đẹp đẽ, có văn chương.

ngạt-ngào: ý nói:lời lẽ sực-nực mùi thơm-tho

Tạ-nữ: con gái họ Tạ tực nàng Tạ đạo-Uẩn, văn hay thơ giỏi có tiếng. Vợ của Vương Ngưng Chi đời Tấn.

Từ-phi: tên là Từ-Huệ. Người đời đường, con gái Từ Hiếu Đức. Lên 8 tuổi đã biết làm thơ. Đến lớn văn-chương nức tiếng, được vua đường Thái-tông (627-649) triệu vào trong cung làm tài-nhân. Một lần, vua vời, nàng không đến, vua giận. Nàng dâng bài thơ rằng:
"Triều lai lâm kính-đài.
Trang bãi độc bồi-hồi.
Thiên kim mãi nhất tiếu.
Nhất triệu khỳ năng lai ?
Nghĩa:
buổi sớm đến chỗ đài gương; trang-điểm xong một mình bồi-hồi. Ngàn vàng mua một nụ cười; Một lần vời có thể lai ?
- Vua bèn tha tội.

Dũ xuất dũ kỳ: càng nói ra càng thấy lạ
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai: Mai, lan, cúc, trúc, hoặc :mai, điểu, tùng, lộc, vốn là nhẳng bực tứ bình được nhiều bậc văn-nhân ưa-thích, vì miêu-tả được đầy-đủ sự thanh cao. Ở đây,ý nói bài thơ của Nguyệt Nga và Vân Tiên họa lại rất xứng nhau.

Xúc cảnh hứng hoài: trông thấy cảnh, say-mê cảnh mà ôm tình hứng.


đường xa vòi vọi, dặm dài vơi vơi: ý nói (nhờ vậy) đường xa mút mắt vẫn thấy dặm dài như được ngắn lại. 

4.- Nguyệt-Nga về Hà-Khê (câu 237 - câu 286)

Vân-Tiên từ giã
phản hồi,
Nguyệt-Nga than thở: "Tình ôi là tình!
"Nghĩ mình mà ngán cho mình,
"Nỗi ơn chưa trả, nỗi tình lại vương.
241.- "Hữu tình hai chữ
uyên-ương,
"Chuỗi sầu ai khéo vấn-vương vào lòng.
"Nguyện cùng
nguyệt lão hỡi ông!
"Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
"Hữu tình chi mấy
Ngưu Lang,
"Tấm lòng
Chức nữ, vì chàng mà nghiêng.
"Thôi thôi em hỡi Kim-Liên!
"Đẩy xe cho chị qua miền Hà-Khê."
Trải quả dấu thỏ đàng dê,
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
251.- "Vái trời cho đặng vuông tròn,
"Trăm năm cho trọn lòng son với chàng."
Phút đâu đã tới
phủ đàng,
Kiều-công xem thấy lòng càng sanh nghi.
Hỏi rằng: "Nào trẻ
tùy-nhi,
"Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Nguyệt-Nga thưa việc
tiền-trình,
Kiều-công tương nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt-Nga dạ hãy ngùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt-sùi đòi cơn:
261.- "Lao-đao phận trẻ chi sờn,
"
No nao trả đặng công ơn cho chàng."
Kiều-công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
"Khi nào cha rảnh việc quan,
"Cho quân qua đó mời chàng đến đây.
"Sao sao chẳng kịp thời chầy,
"Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
"
Hậu đường con hãy tạm lui,
"Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già."
271.-
Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt-Nga còn hãy xót-xa phận mình.
Dời chân ra chốn
hoa đình,
Xem trăng rồi lại chạnh tình
cố nhân.
Than rằng: "
Lưu thủy cao sơn,
"Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm.
"Chữ tình càng tưởng càng
thâm,
"Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai.
"Vơi vơi đất rộng trời dài,
"Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền."
281.- Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn
hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Họa ra một bức tượng hình Vân-Tiên.
Than rằng: "
Ngàn dặm sơn xuyên,
"Chữ ơn để dạ, chữ duyên nhuốm sầu."

5.- Vân-Tiên đi thi (câu 287 - câu 308)

Chuyện nàng sau hãy còn lâu,
Chuyện chàng xin nối thứ đầu nói ra.
Vân-Tiên từ cách Nguyệt-Nga,
Giữa đường lại gặp người ra
kinh-kỳ.
291.- Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ-sộ
dị-kỳ rất hung.
Nhớ câu
bình-thủy tương phùng,
Anh-hùng lại gặp anh-hùng một khi.
Chẳng hay
danh tánh là chi?
Một mình mang gói ra đi việc gì?
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn-Minh
tánh tự, Ô-mi quê nhà.
Vân-Tiên biết kẻ
chính tà,
Hễ người
dị tướng ắt là tài cao.
301.- Chữ rằng
bằng hữu chi giao,
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn dần.
Kià nơi
võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chân một hồi.
Cùng nhau bày tỏ tên rồi,
Hai chàng
từ-tạ đều lui ra đường.

6.- Vân-Tiên để Hớn-Minh đi trước, mình về thăm nhà đã (câu 309 - câu 330)

Hớn-Minh đi trước
tựu trường,
Vân-Tiên còn hãy
hồi hương viếng nhà.
311.- Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
"Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
"Bấy lâu đèn sách
gia công,
"Con đà nên chữ
tang bồng cùng chăng?"
Vân-Tiên quì lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ, cũng bằng người
kim.
"Dám xin cha mẹ
an tâm,
"Cho con trả nợ
thanh-khâm cho rồi."
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
321.- Cho theo một đứa
tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân-Tiên:
"Xưa đà định chữ
lương duyên,
"Cùng quan
hưu trí ở miền Hàn-Giang.
"Con người là Võ-thể-Loan,
"Tuổi vừa
hai bảy dung nhan mặn mà.
"Chữ rằng
Hồ-Việt nhất gia,
"Con đi tới đó trao qua thư này.
"Con dầu bước đạng
thang mây,
"Dưới chân đã sẵn một dây
tơ-hồng.
Chú thích:
phản hồi: trở về

Uyên-ương: có người đọc là oan-ương. Một thứ chim, con đực là uyên, con cái là oan ương, ở từng cặp không khi nào rời nhau. Trong văn-chương mượn hai tiếng uyên-ương để nói về vợ chồng thương nhau.

Nguyệt Lão: tức nguyệt hạ lão nhân: ông lão ở dưới mặt trăng.Tục truyền là vị thần xem việc hôn nhân. Tích Vi Cố người đời Đường, đi kén vợ, một hôm về đêm gặp một ông lão già ngồi trước sân chùa, bên mình có để một túi đựng toàn chỉ hồng, tay mở quyển sách soi ra ánh trăng mà xem. Vi Cố hỏi thì nói: ấy là sách Hôn-thư là sổ những người phải lấy nhau. Chỉ đã buộc rồi, thì dù thân, thù, quí, tiện, thế nào rồi cũng phải hợp. Vi tọc mạch hỏi thăm về duyên nợ của mình, ông già dưới trăng cũng vui vẻ cho biết rằng đã xe dây cho Vi lấy đứa con nhà hàng rau. Sáng ngày Vi ra chợ, theo lời chỉ bảo của ông già dưới trăng, thấy người có duyên nợ với mình nghèo-nàn quá, Vi giận bèn mướn người giết chết đứa con gái ấy đi. Nhưng không giết được. Đến sau Vi cưới vợ té ra người vợ lại chính là người con gái mà Vi đã toan giết ấy.

Ngưu lang: Chàng Khiên Ngưu tức là chàng Ngưu (đọc chạnh ra Ngâu). Tục truyền rằng cứ đêm thất tịch (mồng 7 tháng 7) thì Chức Nữ (xem Chức Nữ) và Ngưu lang gặp nhau

Chức Nữ: người con gái dệt vải-tên một vì sao. Truyện xưa nói rằng sao Chức Nữ là thiên-tôn-nữ (cháu gái trời) gả cho Khiên Ngưu. Vì cả hai say đắm nhau đến quên bổn-phận: chàng chăn trâu nàng dệt vải, Ngọc-Hoàng mới giận đày họ xa nhau, cách một con sông Ngân, mỗi năm chỉ cho phép gặp nhau một đêm, mồng 7 tháng 7 do lũ quạ đen sói đầu bắc cầu cho hai người đến với nhau. Nay tục lệ mồng 7 tháng 7 là tích ấy.

Phủ đàng: dinh-thự của quan tri-phủ

Tùy-nhi: tuỳ: theo. Nhi: con. Bọn theo hầu Nguyệt Nga.

Tiền-trình: bước đường trước mặt.

no nao: do chữ nỏ chuyển ra. Không biết thở nào.

Hậu-đường: nhà sau

Tây-lầu: lầu ở phía tây.

Hoa-đình: viện trồng hoa.

Cố-nhân: người xưa.

Lưu-thủy cao-sơn: nước trôi núi cao. Lấy điển Bá Nha, Tử Kỳ. Quan đại-phu Bá Nha nhân một đêm trăng, lênh-đênh trên thuyền về quê, ngồi ôm đàn khảy.Tử Kỳ ngồi trên bờ lắng nghe, nức-nở khen.Bá Nha cho người mời xuống thuyền cùng nhau trò-truyện lấy làm ưng ý bèn kết làm đôi bạn. Trong khi thử tài nhau, Bá Nha ngồi ôm đàn nghĩ-ngợi, chí ở chốn nước biếc, Tử Kỳ gật đầu, nghe đàn rồi bảo rằng :"Vọi vọi chí đại-nhân ở nơi lưu-thuỷ". Bá Nha chẳng nói gì, lại để chí ở chốn non cao lên tiếng đàn, Tử Kỳ cười bảo :"Vọi vọi chí đại-nhân ở chốn cao-sơn."

Thâm: sâu

Hương-án: bàn đốt hương.

Làu làu: do chữ lau chuyển ra. Sạch như lau.

Sơn-xuyên: núi sông.

Kinh-kỳ: đất ở thủ-đô ở một nước

Dị-kỳ: khác lạ.

Bình-thủy tương-phùng: bèo nước gặp nhau. Thành-ngữ chỉ về sự gặp-gỡ nhau trong cảnh trôi nổi.
Anh-hùng: anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Anh-hùng là người tài-hạnh tót vời. Theo Văn-trung-sử Vương-Thông thì : tự tri giả anh : tự biết mình là anh. Tự thăng giả hùng : người tự biết mình là hùng.

Danh-tánh: tên, họ.

Tánh-tự: chữ tên.

Chính-tà: chính là ngay thẳng và tà là lệch vạy. Người ngay-thẳng và người không ngay-thẳng.

Dị-tướng: tướng-mạo khác lạ.

Bằng hữu chi giao: cái giao tình giữa anh em bạn với nhau.

Võ miếu: miếu thờ vị thần của con nhà võ .Có bản chép là miếu võ ( hoặc vũ: cho đền chùa thờ Thần Phật.

Từ-tạ: cáo-từ mà cảm-tạ.

Tựu trường: đến nhà trường. Ở đây là nơi thi.

Hồi hương: về làng.

Gia công: thêm công-phu vào mà làm. Đèn sách gia công ; lúc nào cũng đem hết sức để vào sự học, làm bạn với sách đèn

Tang-bồng: do thành-ngữ Tang-bồng hồ thỉ là cung bằng gỗ dâu, tên bàng cỏ bồng.- Ngày xưa tục Trung-hoa hễ đẻ con trai thì dùng cung tên bằng gỗ dâu và cỏ bồng bắn sáu phát lên trời xuống đất và ra bốn phương, tỏ ý người con trai sẽ có công việc ở trời đất bốn phương. Vì thế người ta dùng thành-ngữ "Tang-bồng hồ thỉ" để nói về sự vẫy vùng của người trai có chí-khí.

Kim: bây giờ. Nay. Đối với cổ là xưa. Ở câu này, chữ kim cũng đọc là câm để ăn vần với hai câu dưới.

An tâm: yên lòng.

Thanh-khâm: áo màu xanh . Ngày xưa học-trò trường công ở Trung-quốc mặc áo màu xanh, nên gọi học-trò là thanh-khâm. Trả nợ thanh-khâm : trả nợ học-trò. Nghĩa là có công ăn-học thì phải lo đem việc học được giúp đời.

Tiểu-đồng: đứa trẻ-con hầu-hạ.

Phong: đóng kín lại.

Lương-duyên: nhân-duyên tốt lành.

Hưu-trí: về già, nghỉ việc quan.

Hai bảy: 14 tuổi.

Hồ Việt nhất gia.: người Hồ người Việt ở một nhà. Thành-ngữ chỉ về:lạ thành quen, xa thành gần.

Thang mây: do chữ Hán là Vân-thê: nghĩa là cái thang để bước lên mây. Tức đường công-danh. Lên mây tức là lúc được thỏa ý-chí.

Tơ-hồng: do chữ xích-thằng ; tích Vi Cố đời Đường gặp một ông già dưới bóng trăng nói rằng : trong túi có sợi dây đỏ để buộc chân những cặp vợ chồng với nhau (đã dẫn ở trước). 

7.- Vân-Tiên ra đi thi. Ghé nhà Võ-công gặp bạn (câu 331 - câu 418)

331.-
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân-Tiên cùng gã tiểu-đồng dời chân.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân qua hè,
Lại xem dăm liễu đường hoè,
Tiếng ong ngơ ngáo, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn, non dầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười.
341.- Quận thành nhắm
kiểng xem người,
Kiểng xinh như vẽ, người tươi như dồi.
Hàn-Giang phút đã tới nơi,
Vân-Tiên ra mắt một hồi trình thư.
Võ-công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.
Liếc coi
tướng mạo Vân-Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười
phân cốt cách, vuông tròn mười phân.
351.- Những e
kẻ Tấn, người Tần,
Nào hay chữ
ngẫu đặng gần chữ giai.
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Nầy dâu
Nam-Giản, nọ trai Đông-sàng.
Công rằng: "
Ngãi-tế mới sang,
"Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà."
Tiên rằng: "Nhờ lượng
nhạc gia,
"
Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì."
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
"Sao không két bạn mà đi tựu trường?
361.- "Gần đây có một họ Vương,
"Tên là Tử-Trực văn-chương tót vời.
"Cha đà sai trẻ qua mời,
"Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
"Thấp cao, cao thấp, biết tài,
"Vầy sau bạn
trước cùng mai mới mầu."
Xảy đâu Tử-Trực tới hầu,
Võ-công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!
"Thơ hay làm đặng, rượu ngon thưởng liền.
371.- "Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
"Lấy câu '
bình thủy hữu duyên' làm đề."
Song song hai gã giao kề,
Lực, Vương, hai họ đua nghề một khi.
Cho hay
kỳ lại gặp kỳ,
Bạch-Hàm há dễ kém chi Như-Hoành.
Công rằng: "
Đơn quế đôi nhành,
"Bảng vàng, thẻ bạc đã đành làm nên.
"Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
"Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
381.- "Thiệt trang
lương đống đã đành,
"Khá khen hai họ tài lành hoà hai."
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
"Có đâu én
hộc sánh vai một bầy.
"Tình cờ mà gặp nhau đây,
"Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.
"Nay đà nên nghĩa
đệ huynh,
"Xin về mai sẽ
thượng trình cùng nhau."
Phút xem
trăng đã đứng đầu,
Vân-Tiên vào chốn
thư lầu nghỉ an.
391.- Võ-công tở lại
hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể-Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chân trời,
"
Tiểu-nhi trang điểm ra nơi lê-đình.
"Gọi là chút nghĩa
tống tình,
"Phòng sau cho khỏi
bất bình cùng nhau."
Bóng trăng vừa lộ cành dâu,
Văn-Tiên vào tạ giây lâu
xuất hành.
Ra đi vừa thuở
bình minh,
Thể-Loan đứng trước lê-đình
liễm-dung.
401.- Thưa rằng: "Quân tử
phó công,
"Xin thương
bồ liễu chữ tòng ngây-thơ.
"Tấm lòng thương gió nhớ mưa,
"Đương xa ngàn dặm xin đưa một lời.
"Ngày nay
thánh chúa trị đời,
"Nguyền cho
linh-phụng gặp nơi ngô-đồng.
"Quản bao chút phận má hồng,
"Phòng khuya vò-võ, đợi trông khôn lường.
"Chàng dầu
cung quế xuyên dương,
"Thiếp xin hai chữ
tao-khương cho bằng.
411.- "Xin đừng tham đó bỏ đăng,
"Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn."
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
"Dễ trong một bếp mà nhen mấy lò.
"May duyên rủi nợ dễ phò,
"Chớ nghi
Ngô-Khởi, hãy lo Mãi-Thần."
Thể-Loan vội vã lui chân,
Vân-Tiên
từ biệt trông chừng Trường-an.

8.- Vân-Tiên từ-biệt Võ-công, Thể-Loan. Lên đường ra kinh thi, gặp:Vương-Tử-Trực, Trịnh-Hâm, Bùi-Kiệm (câu 419 - câu 552)

Xa xa vừa mấy dặm đường,
Gặp Vương-tử-Trực vầy đoàn đều đi.
421.- Trải qua thủy tú, sơn kỳ,
Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên-tử chơi rày Bồng-Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa võ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
Chữ tài chữ mệnh xưa hòa ghét nhau.
431.- Trực rằng: "Rồng xuống vực xâu,
"Mặc dầu dỡn sóng mặc dầu chơi mây."
Tiên rằng: "Hồng-hộc đều bay,
"E khi mỏi cánh lạc bầy về sau."
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
Phút đâu gặp bạn đi thi,
Đều bày tên họ môt khi mới tường.
441.- Một người ở quận Phan-Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở quận Dương-xuân,
Họ Bùi, tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả-nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
"Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao."
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
"Làm thơ mới biết bậc nào tài năng."
451.- Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm-sửa đồ ăn cho bề.
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
"Khô lân chả phụng bộn-bề thiếu đâu.
"Kià là thuốc lá ướp ngâu,
"Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
"Để khi đãi khách giầu sang,
"Đãi người văn-vật, đãi trang anh hùng."
Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ,
461.- Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ.
"Cười người Tôn-Tẫn không lừa,
"Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng-Quyên.
471.- Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
"Thế trong kinh sửtuyền cùng chăng?"
Quán rằng: "Kinh-sử đã từng,
"Coi rồi lại khiến lòng hằng xót-xa.
"Hỏi thời ta phải nói ra,
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương."
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
"Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
"Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
481.- "Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
"Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
"Ghét đời U, Lệ đa đoan,
"Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
"Ghét đời Ngũ-bá phân vân,
"Chuộng bề
dối trá, làm dân nhọc nhằn.
"Ghét đời Thúc-quí phân băng,
"Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân.
"Thương là thương đức thánh nhân,
"Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.
491.- "Thương thầy Nhan-tử dở dang,
"Ba-mươi-mốt tuổi, tách đàng công-danh.
"Thương ông Gia-Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
"Thương thầy Đồng-tử cao xa,
"Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
"Thương người Nguyên-Lượng bùi-ngùi,
"Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
"Thương ông Hàn-Dũ chẳng may,
"Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
501.- "Thương thầy Liêm-Lạc đã ra,
"Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
"Xem qua kinh sử mấy lần,
"Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương."
Trực rằng: "Chùa rách phật vàng,
"Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
"Thương dân sao chẳng lập thân,
"Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu, Thuấn thuở xưa,
"Khó ngăn Sào-Phủ, khôn ngừa Hứa-Do.
511.- "Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,
"Môt mình một núi, ai hầu chi ai.
"Ông Y, ông Phó ôm tài,
"Kẻ cày, người cuốc đoái-hoài chi đâu?
"Thái công xưa một cần câu,
"Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
"Nghiêm-Lăng đã mấy đua bơi,
"Cày mây, cần nguyệt tả-tơi áo cầu.
Trần-Đoàn chẳng chút lo âu,
"Gió trăng môt túi công hầu chiêm-bao.
521.- "Người nay có khác xưa nào?
"Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn."
Kiệm rằng: "Lão quán nói nhăng,
"Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
"Gối rơm theo phận gối rơm,
"Có đâu ở thấp mà chồm lên cao."
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
"ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
"Sông trong cá lội thảnh thơi,
"Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
531.- "Uổng thay đàn gảy tai trâu,
"Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cưòi."
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
"Đây đà nhớ đặng bảy người Trước-lâm.
"Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
"Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
"Công danh phú-quí màng chi,
"Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.
"Rừng nho biển thánh mênh mông,
"Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay."
541.- Quán rằng: "Đó biết lòng đây,
"Lời kia đã cạn, rượu nầy thưởng cho."
Kiệm, Hâm, là đứa so-đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
Lao-xao đoàn bảy, chàng-ràng lũ ba.
551.- Vân-Tiên vừa bưóc chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà đưa thư.
Chú thích:
Song thân: hai đấng thân, tức cha và mẹ.

Kiểng: do chữ cảnh . Cũng như: vi thành biến ra vi thiềng, vi cánh biến ra vi kiếng

Cầm-sắt: đàn cầm và đàn sắt. Duyên cầm-sắt là duyên vợ chồng hòa-hiệp, như đàn sắt đàn cầm hòa nhau.

Tướng-mạo : vẻ mặt dáng-dấp.

Phân: phần

Cốt cách: kiểu-dáng con người.

Tấn Tần: hai nước đời Xuân-thu ở Trung-quốc, nhà vua hai nước ấy kết hôn cùng nhau đời đời.

Ngẫu: đôi lứa

Giai: tốt-đẹp. Chữ ngẫu dăng gần chữ giai : ý nói đôi lứa tốt đẹp.

Nam-giản: người đi làm dâu. Lấy điển Kinh Thi có câu :"Vu dĩ thể tần,nam giảng chi tân, Nghĩa : hái rau tần nơi khe núi phía nam. Do đó dùng câu nam-giản, chỉ về sự chịu thương chịu khó của người con gái về làm dâu đi hái rau bắt ốc đơm quảy tiền-nhân bên chồng.

Đông-sàng: giường phía đông. Lấy điển :đời Tấn họ Tạ sai người sang nhà họ Vương để kén rể cho con gái mình là Tạ đạo Uẩn. Con em nhà họ Vương có nhiều người đẹp-đẽ hay giỏi, nghe được tin họ Tạ sai người đến, các anh rủ nhau làm ra bộ nghiêm-chỉnh, duy có Vương-Hựu Quân cứ nằm ưỡn bụng trên giường phía đông mà ăn bánh, làm như cách không nghe đến. Tạ-công khen rằng: thằng ấy là thằng rể tốt lắm. Do đó người ta gọi chàng rể là đông sàng.

Ngãi tế: con rể có nghĩa.

Nhạc-gia: nhà ông nhạc, tức nhà cha mẹ vợ.

Đại-khoa: Đại đăng khoa. Những người đậu khoa thi Hội, thi Đình.

Tiểu-khoa: tiểu đăng khoa. Người mình hay nói; thi đậu là đại đăng khoa, cưới vợ là tiểu đăng khoa. Ý rằng cưới vợ cũng là một việc mừng như thi đỗ.

Trước (trúc): tre. Người ta sánh trúc như quân-tử vì thân cao thẳng.

Mai: cây mai. Ví với người đẹp đẽ trinh-chính. Vì mai là thứ cây trổ bông trước nhất trong tiết dông lạnh, có vẻ cao nhã khảng-khái. Trúc và mai là hai thứ cây đến mùa đông đều cùng xanh tốt. Tranh vẽ của người Tàu thường vẽ cây trúc với cây mai luôn. Có chỗ cho cây "mai" là cây tre lớn để đi cặp với cây trúc là cây tre nhỏ. Sách "Lưỡng bạn thu vũ tuỳ bút" lại chép : có một chàng trai và cô gái đứng trò chuyện với nhau trên bờ một đầm kia ở huyện Long-môn, tỉnh Quảng-đông. Hai người cầm hai cây thanh trúc mà nói rằng. " hai thanh trúc này mà khép lại với nhau thì chúng ta sẽ lấy nhau làm vợ chồng". May sao hai thanh trúc cùng hiệp lại làm một như lời nguyện của đôi trai gái. Sau thiên-hạ vùng đó gọi đầm ấy là "Đỗ phụ đầm" nghĩa là đầm đánh cá được vợ. Còn trúc mọc trên đầm ấy gọi là mai trúc.

Bình thủy hữu duyên: bèo nước có duyên .

Kỳ: lạ thường

Bạch-Hàm, Nhu-Hoành: Hai nhân-vật trong tiểu-thuyết "Bình-sơn Lãng-Yến"tài-hoa nổi tiếng.

Đơn quế: tương truyền trên cung trăng có cây quế. Ý nói: cao cả, giỏi-dắn.

Lương-đống: giường cột. Người có tài-năng giúp việc cho nước nhà.

Hộc: thứ chim giống như con nhạn, cũng gọi là thiên nga.

Đệ-huynh: anh em

Thượng trình: lên đường.

Trăng đã đứng đầu: 12 giờ khuya.

Thư-lầu: lầu chứa sách vở.

Hậu-đàng (đường): nhà sau.

Tiểu-nhi: con trẻ

Trang-điểm: trau-dồi, tô-vẽ.

Lê-đình: sân lê

Tống tình : đưa tình

Bất bình: không bằng lòng.

Xuất hành : ra đi.

Bình-minh: lúc trời mới sáng.

Liễm-dung: nghiêm-chỉnh hình-dung để bày tỏ lòng kính.

Phó công: đi đến nơi công cộng.

Bồ-liễu: cây thùy-dương. Thể-chất yếu-ớt. Bồ là cỏ bồ ta gọi là cói, liễu là cây liễu. Cỏ bồ yếu ớt, cây liễu mềm mỏng, vì thế ta thường ví con gái mảnh dẻ như bồ liễu. Cố Duyệt cùng tuổi với Giản Văn mà đầu lại bạc trước. Giản Văn hỏi:"Tại sao bác lại chóng bạc đầu như thế ?" Cố đáp:"Bồ liễu chi tư vọng thu nhi lạc; Tùng bách chi chất, kinh sương độc mậu". Nghĩa là cây bồ cây liễu là thứ cây yếu ớt, hrễ trông thấy mùa thu đến thì đã rụng và héo rồi. Tính-chất của cây tùng, trải sương tuyết vẫn riêng sum-sê.

Tòng (tùng ): vâng, theo.

Thánh-chúa: chúa thánh.

Linh-phụng: chim phụng linh.

Ngô-đồng: cây ngô-đồng hình-dáng đẹp-đẽ cao-lớn. Tục truyền chim linh-phụng gặp cây ngô-đồng mới chịu đậu.

Cung quế: Do chữ quế cung tức cung trăng .Vì tục truyền trên cung trăng có cây quế. Ý nóí : được nơi đẹp-đẽ. Xưa Hán Vũ-đế (140-87tr.t.l.)có làm một cái cung gọi là quế cung cho nàng Trương Lệ Hoa ở. Cửa tròn như mặt trăng, lộng kiếng. Sau sân dựng một bức tường vôi, tô phấn trắng, giữa sân trồng một cây quế, có ý xây dựng theo như lời tục truyền trên cung trăng.

Xuyên dương: suốt qua cây dương. Lấy điển: Dưỡng do Cơ người nước Sở đời Chiến-quốc, làm tùy tướng quan lệnh doãn Nhạc Bá đời Sở Trang-vương, có tài bắn hay. Đứng xa cây dương liễu một trăm bước để bắn lá cây dương mà Dưỡng bắn phát nào trúng phát nấy. Ý nói: mưu việc đều được cả. Do đó có thành ngữ : bách bộ xuyên dương: trăm bước bắn suốt dương liễu. Câu:"Chàng dầu cung quế xuyên dương" có nghĩa là: dầu chàng có lấy được ai khác đẹp. (vì tài học của chàng ắt thi đỗ cao, có thiếu gì nơi gấm-ghé).

Tao-khương: tấm cám.Ý nói: vợ chồng lấy nhau từ khi nghèo -hèn, dầu đến khi giàu sang không nỡ bỏ nhau.Lấy điển:người đời Hán là Tống Hoằng, nhân thấy vua có ý muốn Tống bỏ vợ để gả người chị gái hóa là Hồ Dương công-chúa cho, Tống nói : tao-khang chi thê bất cả hạ đường. Nghĩa: vợ chồng hồi tấm mẳn có nhau, chẳng khá bỏ nhau. Hồ Dương ngồi núp trong màn nghe vậy thì biết việc không xong rồi, lấy làm hổ thẹn nhưng vẫn có lòng kính trọng Tống Hoàng là người có tình nghĩa.

Ngô-Khởi: viên tướng giỏi ở nước Vệ, đời Đông Chu. Lúc trẻ, từ-giã mẹ đi tìm thầy mà học, thề trước mặt mẹ rằng : chừng nào được công-danh mới trở về thăm. Đến cầu học với Tăng Sâm là học trò đức Không-tử. Được ít lâu, Ngô nghe tin mẹ chết mà không tỏ vẻ thương-nhớ gì cả. Thầy học chê là người bất hiếu bất nghĩa, bèn đuổi đi. Ngô bỏ đi sang nước Tề. Uốn ba tấc lưỡi, Ngô được vua Tề gả công chúa cho. Nhưng sau đó, Ngô lại bỏ Tề, dắt vợ sang ở bên Lỗ. Chừng Lỗ muốn đánh Tề, Tề-tướng nước Lỗ là Công-nghi Hựu tiến cử Ngô với vua Lỗ. Lỗ-hầu sợ vợ Ngô là người nước Tề e Ngô không thiệt lòng. Ngô biết ý bèn về giết vợ đem dâng đầu cho Lỗ-hầu, rồi lãnh binh đi phạt Tề, có công được Lỗ Mục-công phong tước trọng hậu. Nhưng về sau nước Lỗ cũng không dám dùng Ngô vì xét thấy là người tàn nhẫn, vô tình. Ngô lại bỏ Lỗ qua đầu vua Diệu-vương nước Sở. Rốt lại Ngô chết vì nước Sở có loạn.

Mãi-thần: Chu Mãi-Thần người đời Hán thuở nghèo khó đi đốn củi đổi gạo mà ăn. Nhưng tính chăm học, hay treo sách trên đầu gióng, vừa gánh củi vừa học, Vợ thường hăm để bỏ, Mãi-Thần xin vợ đừng buồn, thế nào về sau cũng hiển-đạt. Vợ không nghe, bỏ đi lấy chồng khác. Sau, Mãi-Thần nên quan cao lộc cả, vợ xin về ở lại. Mãi -Thần đang cầm chén nước bèn đổ xuống đất mà bảo : hốt lại cho đầy thì xin vâng. Vợ xấu-hổ tự-vận chết.

Từ-biệt : cáo-từ để đi.

Thủy-tú sơn-kỳ: sông đẹp núi lạ.

Cá nhảy rồng bay: cá nhảy qua cửa Võ thì hóa rồng (xem chú-thích "cửa Võ" ở dưới).Rồng bay thì mưa thuận gió hòa.Cá nhảy rồng bay là thành ngữ chỉ về sự mong-ước được thỏa.

Tiên-tử: người tiên.Người thanh-cao đạo-đức.

Bồng lai : chỗ tiên ở. Theo thần-thoại, Bồng lai, Phương-trượng, Doanh-Châu là tên ba hòn núi của tiên ở trong bể Bột.

Tình hoài: Mối tình ở trong lòng.

Võ-môn: Một khúc núi ở thượng-du sông Trường-giang bên Tàu, tỉnh Tứ-xuyên. Ở dưới chân núi có vực sâu. Tương truyền đến mùa thu nước lụt, cá đua nhau nhảy qua. Con nào nhảy khỏi thì hóa rồng.-Nước ta có huyện Hương-khê, tỉnh Hà-tĩnh cũng có một vực như thế.

Kinh-địa: Dất Kinh-đô. Thủ-phủ một nước.

Phút đâu gặp bạn đi thi: Nguyên bản của cụ Trương vĩnh Ký...gặp bạn cố-tri.

Phan-dương: hoặc đọc là Bà-dương.

Bề: Do chữ bế-hệ chuyển ra. Nghĩa là đóng cửa nằm nhà cũng chẳng thiếu thốn gì.

Tuyết điểm: Lấm-tấm màu tuyết. Ý nói trà thơm trong sạch.

Cúc hương: hương của hoa cúc.Rượu cúc rất quý. Lại sách "Phong tục thông" đời Hán có chép : truyền rằng ở huyện Lịch, tức huyện Nội-hương, tỉnh Hà-nam bên Tàu, có núi Cam-cúc, trên núi có thứ cỏ cúc rất tốt, nước khe núi chảy xuống ngon ngọt, uống được nước đó thì được sống lâu.

Văn-vật: những sản-vật của văn-hóa, như lễ-nhạc, chế-độ.Người văn-vật : người có văn-vẻ, học-thức.

Bĩ (bàng ): do chữ Bị là đầy-đủ chuyển ra Việt-hóa.Bàng là tiếng đệm, tự nó không có nghĩa gì. Bĩ-bàng : đầy-đủ

Phút: mau lẹ. chợt.

Tùng: theo

Cổ thi: thơ xưa.

Bất tài: chẳng có tài gì.

Đồ thơ (thi): bôi lọ thơ.

Tôn-Tẫn, Bàng-Quyên: là hai nhân-vật đời Xuân-thu. Tôn, Bàng kết nghĩa, nhưng về sau Bàng mưu hại Tôn. Trước kia thầy Tôn là Vương-Thuyền vẫn có nói cho Tôn biết nên ngăn-ngừa họ Bàng, mà Tôn vẫn thản-nhiên, đến nỗi còn bị hại về tay Bàng, vướng cái họa chặt cụt mấy ngón chân. Hai câu này ý nói : sợ Vân Tiên kết bạn với kẻ chẳng lành, e như Tôn, Bàng chuyện cũ.

Hữu duyên: có duyên.

Kinh-sử: kinh-điển và lịch-sử,

Tuyền (toàn): Trọn-vẹn.Tóm quát cả.

Hằng: có bản chép hừng. Ở câu này, chữ hằng trong bản Trương vĩnh Ký e kém hơn chữ hừng chăng ? Hằng là thường. Hừng là hừng lên, chữ nào cũng hay, nhưng hừng nghe mạnh hơn.

Kiệt, Trụ: vua Kiệt (1818-1767) đời Hạ, Trụ (1154-1123) đời Thương là hai vị vua sau rốt hai đời ấy, vì bạo ngược mà mất ngôi. Đời sau người ta thường dùng chuyên danh từ Kiệt-Trụ để chỉ vua hung-bạo.

U, Lệ: hai vua nhà Chu làm rối việc chính.

Đa đoan: nhiều mối lôi thôi.

Ngũ-bá: Năm đời bá trong thời Chiến_quốc : Tề Hoàn-công, Tống Tương-công, Tấn Văn-công, Tần Mục-công và Sở Trang-công.

Phân vân: nhiều người mà lộn-xộn bối-rối,

Dối-trá: lừa-phỉnh, gạt-gẫm.

Thúc-quí: cuối nhà Đường, thiên-hạ nhiễu-lọan năm họ mạnh lần lượt tranh hoành. Ấy là đời Ngũ-đại hay Ngũ-quí : Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu. Thường gay rối, cậy mạnh bè đánh nhau, khổ dân.

Phân băng: chia ra để mà đổ-nát hư-hỏng cả.

Thương đức Thánh-nhân: đây là nói Đức Khổng-tử trong lúc chu du thiên-hạ, trăm-phần khổ-sở vì dân vì đạo.

Nhan-tử: tên là Hồi. Học-trò Khổng -tử. Nổi tiếng là hiền, được Khổng-tử khen

Công-danh: có công-nghiệp và có danh-dự.

Gia-Cát: hoặc đọc là Chư-cát tức Gia-Cát Lượng hiệu Khổng-Minh đời Tam-quốc hết sức khuông-phù nhà Hán cho thành nghiệp cả mà rốt cuộc vẫ phải chịu thua cơ trời : cõi nước chia ba.

Hán mạt: rốt đời nhà Hán.

Đổng-tử: Đổng-Trọng Thư một bậc đại nho. Người quận Quản xuyên. Chuyên trị kinh Xuân-thu. Có dạy thái-tử và có dâng cho vua Hán Vũ-đế (140-97 tr.t.l.) ba bộ sách kêu là Thiên-nhân tam-sách. Vua khen hay mà không dùng, chỉ cho ra làm quan đất Giang-đô mà thôi.

Đào Tiềm: tự là Uyên-Minh, hiệu Nguyên-Lương, người đời Tấn, làm tri huyện ở Bành-trạch (nên cũng gọi là Đào-lệnh, hoặc Đào Bành-trạch) mới có 80 ngày, nước Tấn bị Tống lấy. Lệnh truyền tới huyện bảo phải mặc áo gài đãi ra mà rước. Đào cho mình làm tôi nhà Tấn thì không lý lại đi rước kẻ làm tôi nhà Tống. Bèn treo ấn bỏ đi. Người này tức là tác-giả bài "Qui khứ lai từ" và là nhân-vật từng nổi tiếng : không vì năm đấu gạo mà uốn lưng vậy.

Hàn-Dũ: học-giả đời Đường, nghiên-cứu lục-kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân-thu) rất tinh, văn-chương tự thành một phái, rất phản-đối Phật-giáo. Cũng vì thế mà khi dâng sớ bài Phật, vua không vừa ý, sớm dâng thì chiều có chiếu vua dạy bắt đi đày. Nên có câu:Nhất phong triêu tấn cửu-trùng thiên. Tịch biến Triều-dương lộ bát thiên.

Giáo dân: dạy-dỗ dân-chúng.

Chùa rách phật vàng: thành ngữ chỉ về sự nhân-tài sinh trong cửa nhà nghèo.

Ẩn-tàng : dấu-diếm.

Kinh-luân: việc kéo tơ, lấy từng mối tơ mà chia ra gọi là kinh, so những sợi tơ một thứ mà họp lại là luân. Do đó, lấy nghĩa bóng : phàm sửa-sang sắp đặt về chính-trị đều gọi là kinh-luân.

Để khi nắng hạ toan phần làm mưa: ý nói : có tài, có lòng thương dân sao chẳng ra lập thân, để khi dân khổ (nắng hạ) đặng cứu (làm mưa).

Sào-Phủ, Hứa-Do: Hai cao-sĩ đời Nghiêu, Thuấn. Vua Nghiêu nghe tiếng Do hiền, xin nhường ngôi cho, nhưng Do không nhận. Đến sau vua Thuấn lại nói chuyện nhường ngôi, bèn bỏ đi, xuống một con sông gần đó để rửa tai, có ý trút bỏ điều danh-lợi vừa nghe. Xảy gặp Sào-Phủ, Phủ hỏi: Do đi đâu mà lật-đật. Do thuật chuyện, Phủ đang dẫn trâu xuống sông cho uống nước bèn dắt trâu đi mà rằng: "uống nước con sông này, e bẩn miệng trâu của tôi đi."

Di,Tề: Bá Di,Thúc Tề là hai người con vua Cô-trúc cuối đời ân. Cha mất, anh em nhường ngôi lẫn nhau, rồi đều bỏ ngôi cùng đi cả. Đến sau, khi Võ-Vương phạt Trụ, anh em Di Tề đến can ngăn trước đầu ngựa. SauVõ Vương được nước, hai anh em không thèm ăn gạo nhà Chu, bỏ vào núi Thú-dương, ở ẩn ăn rau. Đến sau có người lại chê rằng: "Không ăn thóc nhà Chu mà lại ăn rau nhà Chu để mà sống; vậy chớ ngọn rau tấc đất không phải của nhà Chu là gì ?".Bá Di,Thúc-Tề nghe được lời ấy bèn chịu đói mà chết.

Y, Phó: Y Doãn: một vị khai-quốc công-thần nhàThương ở Trung-quốc. Phó Duyệt: một nhà chính-trị có tài ngang với Y Doãn. Có tên khác nữa là Phó Nham. Sách Thượng-thư chép :đời Thương, vua Cao-tông Võ-định (1324-1266tr.t.l.), Phó Duyệt ở ẩn cày ruộng ở đất Bản-trúc. VuaCao-tông nằm chiêm-bao thấy trời cho một tướng hiền giúp nước, mới khiến thợ vẽ hình, theo đồ hình mà dọ tìm thì được Phó Duyệt.

Thái-công: tên Khương Thượng tự Tử-nha hiệu Lữ-Vọng (hay Lã).Thường ngày ngồi câu nơi sông vị. Vua nhà Chu nghe tiếng Lữ là bậc cao-hiền, đem xe đến rước, phong tước trọng hậu đến xưng tụng là Thái-công để tỏ lòng kính-trọng. Vì ngày xưa thường gọi cha là thái-công, có khi cũng xưng tổ-phụ là thái-công, xưng tằng-tổ là thái-công. Có làm bộ sách về binh-bị nổi tiếng.

Sông Vị: một con sông ở tỉnh Thiểm-tây.

Nghiêm-Lăng: Cao-sĩ đời Hán. Bạn của Lưu-Tú. Giúp Lưu-Tú diệt được Vương-Mãng mà trung hưng nghiệp Hán. Khi Tú lên ngôi xưng là Quang-Vũ-đế, có sai người đi rước Nghiêm nhiều lần. Nghiêm đều từ chối. Bấy giờ Nghiêm về ở núi Phú-xuân, mặc áo tơi, sớm cày tối câu. Sau, Quang-Vũ khẩn-thiết yêu-cầu cho gặp mặt Nghiêm một đêm thôi để thỏa lòng cùng nhau trò-chuyện, chớ không dám nài ép phong quan. Nghiêm nhận lời .Và chỉ nhận một ngày rồi đi. Đêm ấy cùng vua Quang-Vũ ngủ chung giường. Nghiêm gác chân ngang bụng vua. Nhà vua vẫn vui-cười.

Áo cầu: áo bằng da.

Trần Đoàn: hiệu Hi-di. Một vị đại tiên. Người đời Tống, tài cao ở ẩn. Gặp thời loạn, ngủ luôn ba năm ở núi Hạ-sơn. Đến khi dậy, cười mừng cho thiên-hạ có thái-bình.

Ếch nằm đáy giếng: thành-ngữ:không thấy được gì hết.

Đàn gảy tai trâu: trâu không biết nghe đàn, thàng-ngữ: nói gì với người ngu cũng là thừa.

Nước xao đầu vịt: đem bao nhiêu nước mà xao động trước đầu vịt, rốt cuộc cũng như không.Thành ngữ: làm thế nào kẻ khờ cũng không biết sợ.

Bảy người trước-lâm(trúc): Trúc-lâm thất hiền: Bảy người người học-giả đời Tấn là: Kê-Khang, Nguyễn-Tịch, Sơn-Đào, Hương-Tú, Lưu-linh. Nguyễn-Hàm, Vương-Nhung, cùng nhau đi chơi ở Trước-lâm (rừng tre), đời mới xưng danh-hiệu ấy.

Đồng tâm: cùng một lòng.

Công-danh phú-quí: có công-nghiệp, có danh-dự,được giàu được sang.

Rừng nhu (nho): do chữ Nho-lâm. Ý nói Đạo nho thạnh-mậu.

Biển thánh: ý nói: thánh-học rộng sâu như biển không mấy người thấu đến. Rừng nhu biển thánh: thành ngữ chỉ về việc học phải khổ công lắm mới được.

Chàng-ràng: do chữ "Chẳng thành hàng" thúc vần lại, biến ra "Chàng". Còn ràng : rõ-ràng. Ghép lại thành tiếng đôi. Chàng-ràng : bày hàng trước mắt.. 

............ Còn tiếp .................

No comments:

Post a Comment