Friday, November 20, 2015

Nhị Độ Mai

............................. Phần cuối .............................

46.- Sau khi rõ tình, hai người cùng khỏi bệnh (câu 1835 - câu 1880)
Bên giường mấy nỗi dặn-dò,
Phu-nhân nghĩ-ngợi thêm hồ-nghi ra.
Cùng nhau bàn mảnh trong nhà,
Xuân-Hương mách-lẻo trình bà phu-nhân:
"Chuyện này xin chớ ngại-ngần,
"Tôi đà tỏ hết nỗi gần nỗi xa.
"Cũng vì có một chiếc thoa,
"Kẻ bâng-khuâng nhớ, người ngờ-ngẫn thương.
"Hai phòng bệnh cũng một đường,
"Mê rồi lại tỉnh, mơ-màng lăng-nhăng.
"Vả xem những tiếng trối-trăng,
"Kẻ rằng chính bắc, người rằng chính nam.
"Chuyện này để vậy chưa cam,
"Xin dò nhắc lại xem làm sao đây."
Theo Vân-thư mới đi ngay,
1850.- Phen này quyết tỏ lòng này cho ai.
Lẳng-lơ đứng trước thư-trai,
Đem thơ tiễn-biệt Trùng-đài đọc chơi.
Mục-Vinh nghe vẳng bên tai,
Bằng dường xét đánh lưng trời bỗng đâu.
Gọi vào, hỏi trước, hỏi sau,
Mỉm cười, Hương mới kể đầu, kể đuôi.
Nỗi nàng mách hết rạch-ròi:
"Khi thần đưa đến, khi người bắt nuôi.
"Trộm thoa, tội ấy về tôi,
1860.- "Khiến trong nhìn nhận, để ngoài xót-xa.
"Mấy câu tôi đọc bây giờ,
"Thơ này bắt được với thoa một lần.
"Làm khuây, xin hãy tỉnh dần
"Đã đành tài-tử, giai-nhân một nhà.
"Vả ông tôi dặn trong tờ,
"Đinh-ninh dành gả tiểu-thư cho chàng,
"Bây giờ gặp nghĩa cũ-càng,
"Chẳng hay duyên mới có mang-mể cùng ?"
Sinh rằng: "Muôn đội ơn lòng,
1870.- "Nỗi bà trân-trọng, nỗi ông yêu-vì.
"Ví bằng được hẳn thế thì,
"Duyên sau nghĩa trước, hai bề vẹn hai."
Bỗng như nói nói, cười cười,
Mười phần bệnh, phỏng còn vài bốn phân,
Xuân-Hương tức-tốc dời chân,
Tình đầu bạch với phu-nhân bấy giờ.
Lại vào bảo thực Hạnh-thư:
"Mục-Vinh ngoài ấy, ấy là Mai-sinh."
Hạnh-Nguyên nghe rõ thực tình,
1880.- Cất quang-quảng bệnh, nhẹ thênh-thểnh người.
47.- Mai-sinh và Hạnh-Nguyên nhận nhau ở Châu phủ (câu 1881 - câu 1902)
Cho hay những bậc sắc tài,
Thảm vì tình lắm, lại vui vì tình.
Phu-nhân chọn được ngày lành,
Mới truyền dọn-dẹp, mời sinh vội-vàng.
Sửa-sang cuộc rượu hai bàn,
Cách rèm làm lễ truy-hoanmột nhà.
Hạnh-Nguyên quốc-phục như xưa,
Khoác mành-mành, mới bước ra hỏi chàng.
Rõ mười còn tưởng mơ-màng,
1890.- Mừng mừng, tủi tủi, khóc than một hồi.
Khóc rồi kể lể đầu đuôi :
Nỗi trên núi nhạn, chuyện ngoài ải mây.
Chết thừa sống thiếu là may,
Bên kia quan gặp, bên này thần đưa.
Bèo trôi, sóng vỗ đến giờ,
Kẻ sang Châu-phủ, người nhờ Phùng-công.
Biết bao nhiêu chuyện đau lòng,
Xuân-sinh lưu-lạc, Sơn-đông cách vời.
Một phen nói, một bồi-hồi,
1900.- Bâng-khuâng cố-quậnngậm ngùi thiên-lao.
Phu-nhân khuyên-giải thấp cao,
Cùng thôi nước mắt lại vào tiệc hoa.
48.- Châu-công về thăm nhà bàn gả Vân Anh cho Mai-sinh (câu 1903 - câu 1970)
Tin Kinh bỗng thấy đưa ra:
Châu-công thăng chức hiệu là Thị-lang.
Chỉ ban về lễ từ-đường,
Chàng ra mười dặm đình-trường đón xa.
Ngó trông rợp bóng quan-hà,
Thẻ bài phụng-chỉ ngọn cờ vinh-hương.
Giáp nhau ông đã gặp chường,
1910.- Song song đôi ngựa trỏ đường cố-gia.
Thu quân hồi trống vào nhà,
Trên yên vách phấn, cắm cờ giá son.
Vào trong thong-thả ôn-tồn,
Một nhà thầy, tớ, vợ, con lạy mừng.
Trong nhà nhộn-nhịp, tưng-bừng,
Âm-thầm thiều nhạc, lẫy-lừng tiệc hoa.
Phu-nhân giả cách lơ-mơ,
Truyền đòi đệ-nhất tiểu-thư ra hầu.
Ông rằng : "Khéo lẽ dối nhau,
1920.- "Hiếm-hoi một gái lấy đâu nhất nhì ?"
Hạnh-Nguyên ra trước lạy quì,
Nỗi nàng bà kể mọi bề gian-truân:
"Nghĩ rằng xa, chẳng là gần,
"Ai hay con gái bác Trần Đông Sơ !
"Tơ đào nghĩ những bao giờ,
"Nhân-duyên sớm định về nhà họ Mai.
"Hôm xưa lắm chuyện nực cười,
"Kẻ trong nhận của, người ngoài mất thoa.
"Hai buồng gang tấc nên xa,
1930.- "Thất tình bệnh đã hóa ra mấy ngày.
"Tỏ ra mười mấy hôm nay,
"Bên kia nhận vợ, bên nây nhận chồng."
Ông nghe thấu hết sự lòng,
Cả cười, mới dạy rằng: "Trong đạo trời.
"May ta gặp cả hòa hai,
"Trọn tình bè-bạn, được người thi-thư.
"Nghĩ chăng, dở một nỗi nhà,
"Tính vào thế ấy, hóa ra thế này !"
Bà rằng: "Tôi cũng nghĩ đây,
1940.- "Xưa nay đôi quả một tay cũng nhiều.
"Vả trong hai ả tiểu-kiều,
"Mười phần xem đã kính yêu cả mười.
"Bấy nay hình-ảnh chẳng rời,
"Thờ chung quân-tử một người cũng nên.
"Mai-sinh nghĩa cả chưa đền,
"Phỏng chừng ép-uổng cũng nên một lòng."
Châu-công nghe nói thỉ-chung,
Liền ra tiệc ngọc thư-phòng với sinh.
Lòng chàng nghe đã tỏ tình,
1950.- Lẽ nào giấu quẩn giấu quanh được rày !
Thưa rằng: "Chút phận hèn ngây,
"Bấy nay giả-dối, tội rày đã cam."
Ông rằng việc tỉnh Hà-nam,
"Bấy lâu cậy một tay làm biết bao ?
"Kinh-luân đã tỏ tài cao,
"Thớ cong, rễ quánh, thủ dao long-tuyền.
"Hiếm-hoi chút gái vụng-hèn,
"Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ."
Sinh rằng: "Nguyệt lão xe tơ,
1960.- "Nhân-duyên đã định Trần-gianhững ngày,
"Làm chi bể ái vơi đầy,
"Hạ-đườngdám lụy, tiếng này đến ai ?
"Vả con hổ phận bất tài,
"Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông-sàng."
Ông rằng: "Thôi chớ rẫy-ruồng,
"Nhà Ngu xưa có Nga Hoàng, Nữ Anh.
"Trượng-phu dù quyết hẹp tình.
"Thẹn thay phụ tấm lòng thành lão nô."
Chàng nghe lạy trước thềm hoa,
1970.- Xưa còn gia-khách nay ra thân tình.
49-Mai-sinh đi thi đội tên Mục Vinh (câu 1971-câu 1994)
Năm mây nghe chiếu rành rành,
Thi hương, thi hội, thi đình một phen.
Bàn rồi dường lẽ chưa yên,
Chấp kinh cứ thực họ tên sao đành.
Sổ dâng quán chỉ đại-danh,
Quyển đề họ Mục, tên Vinh vào trường.
Đua tài tỉnh thí, khoa hương,
Bảng đầu đã rõ tên chàng Mục Vinh.
Phủ Châu mừng-rỡ linh đình,
1980.- Hết lòng sắm-sửa tiến Kinh cho chàng.
Chân hề, giong-ruổi dặm tràng>
Đứa đeo thơ túi, đứa mang rượu bầu.
Mấy tuần gióng- giả vó câu,
Tràng-an trông đã thoắt đâu tới gần.
Tớ thầy tìm chốn chứa chân,
Chờ ngày nhảy sóng, đợi tuần hóa long.
Chen vai tài-tử, danh công,
Kẻ toan bẻ quế, người hòng tung mây.
Qui-mô trường-ốc ai xây ?
1990.- Chia khu thập đạo, rào vây bốn thành.
Ba bề chín cửa thênh-thênh,
Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu cao
Cậy tài sinh cũng xem sao,
Vũ-môn ba đợt sóng đào xem khinh,
50.- Xuân-sinh đi thi đội tên Khâu-Khôi (câu 1995 - câu 2024)
Lại còn một nỗi Xuân-sinh,
Khâu-Khôi đã đổi tính-danh những ngày.
Hà-nam nhập bạ phen này,
Đỗ hương cũng định ngày rày tiến Kinh.
Mấy tuần vừa tới đô-thành,
2000.- Trời kia xui-khiến hai sinh đỗ đầu.
Cửa Phùng Đô-sát gặp nhau,
Người tầm mẫu-cữu kẻ cầu ân-sư.
Quân hầu vâng dặn vào thưa,
Mời hai sinh hãy ngồi nhà nghênh tân.
Kìa thì Mai, nọ thì Trần,
Bâng-khuâng suốt buổi, tần-ngần giờ lâu.
Khóc than kể hết chuyện nhau,
Hợp tan mấy độ, trước sau mấy từng.
Tỏ-tường chân tóc kẽ răng,
2010.- Kẻ mừng chị sống, người mừng mẹ yên.
Hay đâu Đô-sát Lạc Thiên,
Chiếu theo chủ khảo cầm quyền chưởng văn.
Biết đâu truyền gọi gia-nhân,
Vâng lời ra quán nghênh tân đón vào.
Phùng công mừng-rỡ xiết bao,
Hai sinh kể hết tiêu-hao chuyện mình.
Ông rằng: "Gác chuyện gia-tình,
"Trường-quan, Cống-sĩ có hình hiềm-nghi.
"Ra ngoài hãy đợi trường kỳ,
2020.- "Nhờ trời khi dễ việc gì cũng xong."
Hai chàng bái tạ Phùng-công,
Ra chùa Tướng-quốc, trú chung một phường.
Nhân khi vắng-vẻ đêm trường,
Tỏ nguồn cơn trước, kể đường đất xưa.
Hạnh-thư: Tức Hạnh Nguyên.

truy-hoan: Theo đuổi cuộc vui-vẻ, nhưng chữ truy-hoan ở đây có lẽ không ổn, đáng đổi ra giao-hoan : sum-họp vui- vẻ.

quốc-phục: Ăn vận quần áo bản-quốc. Có bản chép cố-phục, có lẽ lầm chữ cố với chữ quốc ? Chữ "cố" là cũ thì tối nghĩa, vì bên dưới có chữ như xưa.

cố-quận: Quận cũ.

Thị-lang: Một chức quan trong Bộ.

từ-đường: Nhà thờ.

đình-trường: tức trường-đình đã chú-thích ở trên.

quan-hà: nghĩa đen quan là cửa aỉ, hà là sông, đây chỉ là nói về đường đất đi lại.

phụng-chỉ: vâng chiếu-chỉ nhà vua.

vinh-hương: vinh hiển về làng cũng như nói phú quý qui có hương, giàu-sang về làng cũ.

cố-gia: nhà cũ.

đệ-nhất tiểu-thư: Tiểu-thư thứ nhất. Cô cả.

thi-thư: Kinh Thi,kinh Thư, hai kinh trong sáu kinh, biểu-hiệu Nho-giáo.

Kinh-luân: Sửa-sang tô-điểm việc chính-trị.

long-tuyền: tên một thanh gươm sắc.

Nguyệt lão: Vy Cố đời nhà Đường đi cầu hôn, gặp một cụ già ngồi tựa cái túi vải, hướng ra bóng trăng coi một quyển sách. Hỏi thì cụ nói : Đây là quyển sổ hôn-thú, trong túi này có sẵn dây đỏ, để buộc chân những cặp vợ chồng đã có tên trong sổ, dù sao cũng không tránh khỏi. Như thế ta mới gọi người xe duyên là Nguyệt-lão nghĩa là ông cụ già dưới bóng trăng.

Trần-gia: nhà họ Trần, đây trỏ Hạnh Nguyên, con gái Trần Đông Sơ.

Hạ-đường: xuống thềm . Vua Quang-Vũ nhà Hán có chị gái góa chồng, muốn lấy Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ cả, Quang-Vũ hỏi ý : " Trẫm nghe người ta giàu thì đổi bạn, sang thì đổi vợ, có không ? " Hoằng thưa; "Tôi nghe nói người vợ lúc hàn-vi ăn tấm ăn cám có nhau, thì không bao giờ để ở dưới thềm, mà người bạn lúc nghèo hèn thì không có thể quên" (Thần văn Tào-khang chi thê bất khả hạ đường, bần tiện chi giao bất khả vong) .Quang-Vũ bảo chị : Việc không xuôi rồi !

Nga Hoàng, Nữ Anh: là hai con gái vua Nghiêu để gả cho vua Ngu-Thuấn.

lão nô: Thằng già này. Châu-công tự nói nhún.

gia-khách: Khách trong nhà.

Năm mây: bởi chữ Ngũ vân.

Thi hương, thi hội, thi đình: Thi hương : hương thi, thi hội : hội thí, thi đình : đình thi .

Tràng-an: Kinh-đô đời Đường, nay là huyện Trường-an thuộc tỉnh Thiểm-tây.

nhảy sóng, đợi tuần hóa long: Nhảy sóng bởi chữ Khóa lãng. Hóa long : hóa rồng, cá chép hóa long, nói bóng về thi cử đỗ đạt.

tài-tử, danh công: Kẻ có tài, người có tiếng

bẻ quế, người hòng tung mây: Bẻ quế do chữ triệt quế . Tung mây do chữ phi vân, đều nói về đỗ đạt bay nhảy.

Qui-mô trường-ốc: Qui-mô : khuôn phép . Trường-ốc : nơi trường thi.

thập đạo: Mười ngả đường, con đường trước cửa trường đi vào các vi.

bốn thành: trường thi ngăn riêng ra làm bốn vi tiền, hậu, tả, hữu.

Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu cao: Cột huyền bảng : cột treo bảng. Cây đình liệu : Cột đuốc đốt sáng ngoài sân . Đều là vật-dụng nơi trường thi.

Vũ-môn ba đợt sóng đào: Câu này bởi câu " Vũ môn tam-cấp lãng " : người thi đỗ ví như cá hóa long nhảy qua ba lần sóng cửa vũ.

nhập bạ: Vào sổ cũnh như nhập tịch. biên tên vào sổ đinh, đây nói Khâu Khôi nhận quán-chỉ ở Hà-nam.

mẫu-cữu: Cậu - họ nhà mẹ -

ân-sư:Thầy, người cất nhắc, làm ơn, cũng như người đỡ đầu.

nghênh tân: Đón khách.

chủ khảo: Người đứng chủ việc chấm trường, đứng đầu chấm thi.

chưởng văn: Coi việc văn-học.

gia-nhân: người nhà, đầy tớ.

tiêu-hao: Tin tức.

Trường-quan, Cống-sĩ: Trường-quan : Quan chấm trường . Cống-sĩ : Các sinh-viên thi hương đã đỗ Cống-sinh - cử-nhân - đi thi hội.

trường kỳ: Kỳ hạn vào thi.

51.- Mục Vinh đỗ Trạng-nguyên Khâu Khôi đỗ Bảng-nhãn (câu 2025 - câu 2048)
Mới hay những kẻ tài-hoa,
Bảng vàng trời đã đợi chờ cho ai.
Một phen hội thí đua tài,
Giọng văn tú khẩu, hơi bài cẩm tâm.
Quan trường công-chính không lầm,
2030.- Khéo thay mực nẩy cân cầm chẳng sai.
Bảng treo trên đã rõ mười,
Mục-Vinh thứ nhất, Khâu-Khôi thứ nhì.
Văn trường đã định nhật kỳ,
Vừa xong thi Hội, lại thi Đình liền.
Thỏa lòng văn nhẹ như tên,
Tài hay có tám, sức lên đến mười.
Ưu phân đáng giá tam khôi,
Mới hay trời có chiều người khi nên.
Phán truyền họ Mục, Trạng-nguyên,
2040.- Họ Khâu, Bảng-nhãn hai tên rành rành.
Thiên ân ban trước phong đình,
Ba tuần ngự tửu, hai cành cung hoa,
Hương trời, lộc nước, phấn vua,
Rỡ-ràng bông mãng, lập-lòe vàng đai.
Ba ngày thượng mã du nhai,
Lòng vua ưu hậu mắt người quan chiêm,
Vẻ-vang gấm lại hoa thêm,
Thỏa lòng bẻ quế cung thiềm bấy lâu
,
52.- Bảng-nhãnKhâu Khôi bị Lư Kỷ ép gả con gái (câu 2049 - câu 2072)
Tân-khoa một lũ trước sau,
2050.- Cùng sang tướng-phủ vào hầu Lư-công.
Tạ từ ai nấy ra xong,
Mời riêng Bảng-nhãn vào trong rốn ngồi.
Khoản trà lễ mạo hẳn-hoi,
Dập-dìu sớm đã cho mời Hoàng Tung.
Giả điều vua triệu tướng-công,
Khâu, Hoàng ngồi lại vui trong chén quỳnh.
Tung rằng: "Hai chữ khoa danh,
"Tướng-công đây những hậu tình quá yêu.
"Buồng hương có ả tiểu-kiều,
2060.- "Sàng-đông cũng rắp toan điều cầu thân.
"Thôi thì dư thế, dư thần,
"Quan sang, chức trọng mười phân đến chàng.
Khâu-sinh cười nói, thưa rằng:
"Tình người quyến cố xem bằng bể non.
"Duyên này đã định tao-khang,
" Có đâu phụ nghĩa, tham sang lẽ nào !"
Tung rằng: "Khéo chấp-nê sao,
"Xưa nay đổi vợ biết bao nhiêu người ?
"Con người sắc nước hương trời,
2070.- "Quá thương khi đã ngỏ lời dễ đâu.
"Cạn lòng nếu chẳng nghĩ sâu,
"Ăn-năn e nữa đến sau lụy mình."
53.- Khâu Khôn từ hôn bị bắt giam (câu 2073 - câu 2102)
Sinh nghe mấy tiếng dỗ-dành,
Đùng đùng nổi giận, bất bình khêu gan.
Mắng rằng: "Một lũ quyền-gian,
"Nhơ mình chưa chán, lại toan hại người !
"Mình đà là phận con nuôi,
"Nửa con hòng lại dắt ai vào cùng.
"Ta đây một tấm lòng trung,
2080.- "Quyết đem giãi trước mặt rồng có phen.
"Thề không dung kẻ lộng quyền,
"Vì dân trừ hại mới nên anh tài.
"Khéo tay mối-lái cũng đòi,
"Vo-ve tiếng Trịnh nhàm tai phượng hoàng."
Nói rồi lên kiệu vội-vàng,
Trở về vừa đến nửa đường nghĩ ra:
"Ăn-năn chút chửa xem cơ,
"Thôi thôi ! nóng giận đến ta là cùng.
"Lánh đi, nếu chẳng quyết lòng,
2090.- "Chân loan chưa dễ lọt vòng lưới gian."
Bàn riêng hai lẽ vừa an,
Thoắt đà đổi áo thay quan lánh mình.
Chuyện chàng đồn dậy kinh-thành,
Gần xa ai cũng biết tình từ hôn.
Lư-công nổi giận ồn ồn,
Kíp sai binh-mã đổ dồn tìm quanh.
Cách xa mười dặm ngoài thành,
Thấy chàng thoắt đã giao binh điệu về.
Kể khoan, kể nhặt mọi bề,
2100.- Rằng khinh phép nước, rằng chê lộc trời.
Truyền đem giam cấm một nơi,
Luận xong tội ấy, ngày mai tiến trình.
54.- Các Cống sĩ mưu cứu Khâu Khôi (câu 2103 - câu 2142)
Trường quan nghe tỏ phong thanh,
Hòng làm sớ tấu giãi tình Khâu Khôi.
Lòng người vốn sẵn lẽ trời,
Mới hay trọng đạo ai ai cũng lòng.
Bấy giờ hội thí vừa xong,
Bốn phương sĩ-tử còn đông Kinh-thành.
Bực mình hai chữ công-danh,
2110.- Về nhà thẹn mặt, xuất-hành ngại chân.
Tam khôi mừng những đắc nhân,
Nghe tin nhủ-bảo xa gần thiếu ai ?
Họp-hành bàn-bạc mấy lời,
Giận ai ép-uổng, thương người oan-khiên.
Việc này nhẫn-nhục sao yên,
Bè gian rồi nữa lộng quyền đến đâu ?
Lấn cành tầm-gửi chẳng lâu,
Người kia trước, chúng ta sau cũng vừa.
Thôi thì ta lại vì ta,
2120.- Nhẹ mình nặng nghĩa mới là trượng-phu.
Kẻ rằng xin chớ hồ-đồ,
Đón đường ta sẽ sửa cho một hồi.
Làm cho gian-đảng đi đời,
Hãy khoan văn-bút, thử chơi vũ-bài.
Ở đâu bỗng có một người,
Thưa rằng : "Chuyện ấy xin người chớ nghi.
"Phỏng mà có đến lẽ gì,
"Đầu đoàn chuyện ấy, em thì xin đương.
"Vả em chút phận lỡ-làng,
2130.- "Tên thi vừa hỏng, tư lương cạn rồi.
"Về nhà thân-thích không ai,
"Xin liều thân ấy, cứu người khôi-khoa."
Được lời như mở lòng ra,
Kéo nhau một lũ vào tòa Phùng-công.
Lạy rồi thưa hết thỉ-chung,
Ông vừa thảo sớ để hòng vào tâu.
Khen rằng: "Sao khéo bảo nhau,
"Việc là việc nghĩa, lẽ đâu bảo đừng.
"Chỉn e tai vách mạch rừng,
2140.- "Làm cho kín mít như bưng mới là."
Vâng lời ai nấy trở ra,
Hẹn nhau chừng nửa canh ba đón đường.
55.- Lư Kỷ, Hoàng Tung bị đón đánh (câu 2143 - câu 2254)
Xin cho bắt được Lư, Hoàng,
Đừng phân trái phải, hãy toan đánh đòn.
Rày đừng vây cánh cha con,
Gian mưu đứt nọc, xảo ngôn hết nghề.
Đã đành tội hữu sở qui,
Rồi ra, ra đến những gì thì ra.
Kẻ rằng: "E lũ chúng ta,
2150.- Người gần còn có người xa ngại-ngùng.
"Xin về một chốn trú chân,
"Nhà tôi trọ đấy cũng gần ngọ-môn.
"Buổi triều xe ngựa ồn ồn,
"Tiện đường đón đấy, nghĩ khôn lên trời."
Cùng nhau miệng nói chân dời,
Sẵn nhà cùng ở một nơi đợi chờ.
Lặng nghe canh đã sang ba,
Kiệu đâu một lũ trông ra ngoài trường.
Phùng-công kiệu trước thét đường,
2160.- Kiệu sau Đảng Lục với chàng tân-khoa.
Bảo nhau hai dãy dẹp ra,
Kiệu đâu sao thấy xa xa đến liền.
Tiền hô hậu ủng chật lèn,
Phủ Lư mới tỏ hiệu đèn là đây.
Hai bên chực sẵn đã đầy,
Kẻ trần tay áo, người xoay cánh đoài.
Người bẻ lọng, kẻ giằng roi,
Ầm ầm hơi giận, hồi hồi tiếng la.
Xúm quanh trước kiệu hỏi qua :
2170.- "Khâu Khôi, Bảng-nhãn tân-khoa tội gì ?
"Quyền như chú, chắc mạnh bè,
"Vu oan cho kẻ trung-nhì được chưa ?"
Bốn bên trận đánh như mưa,
Xé tan xương nịnh, ngay đờ mặt gian.
Trận đòn hội chợ ai can ?
Bướm bay giấy lọng, kiệu tan lũ hầu.
Hoàng Tung kiệu đã đến sau,
Người kéo tóc, kẻ giằng đầu, xúm quanh.
Mảnh xiêm mảnh mãng tan tành,
2180.- Tối-tăm mắt nịnh thất kinh hồn tà.
Mới hay nhất quỉ nhì ma,
Học trò đến bực thứ ba thực là
Người kêu dưỡng-tử cứu cha,
Kẻ kêu nghĩa-phụ, ân-gia cứu mình.
Tưng tưng trời mới bình-minh,
Đường hoàng ngự trước, phong đình phân-ban.
Lư, Hoàng thoát khỏi vòng oan,
Bưng đầu theo lũ bách-quan vào quì.
Gượng đau lạy trước đan-trì.
2190.- Áo tươm-tướp rách, mặt bì-bì sưng.
Khóc than rền-rĩ tâu rằng:
"Khâu-Khôi hôm nọ tự dưng bôn đào
"Bắt về chưa kịp tâu vào,
"Hai quan chủ khảo sắp mưu hại người.
"Họp hàng sĩ-tử một nơi,
"Đón đường, đánh đánh, lôi lôi một hồi.
"Cao minh xin tỏ đèn trời,
"Tra người vô phép, hỏi người mưu gian."
Phán rằng: "Ngươi hãy ngồi an,
2200.- "Còn tra dù thực, du gian rạch ròi.
"Chỉ đòi Phùng, Đảng hai người,
"Làm sao tâu thực mấy lời được hay,"
Tâu rằng: "Chút phận hèn ngây,
"Dám cho được dự khoa này chưởng văn.
"Đêm ngày lo-lắng trăm phần,
"Di tài những sợ, đắc nhân là mừng.
"Gieo cho những tiếng hay chăng,
"Xét soi nhật nguyệt đôi vầng xin thương.
"Phường thi hỏng, với quan trường,
2210.- "Còn chi tình diện toan đường giao-thông.
"Chực ngoài lũ ấy còn đông,
"Dám xin tra thấu thỉ-chung được nhờ,"
Tiếng vàng sang-sảng ban ra,
Đòi vào sĩ-tử hỏi qua tình đầu.
Bắt vào một lũ theo nhau,
Dưới sân kẻ trước, người sau lạy quì.
Phán rằng trong chốn trường-qui.
"Làm điều bất pháp tội thì tại ai ?"
Muôn tâu: "Hổ phận bất tài,
2220.- "Tranh lèo, giật giải,nhường người quyết khoa.
"Nghĩ trong tảo-vãn cũng là,
"Bằng bay, côn nhảy còn chờ hội sau.
"Phép vua, lời thánh để đâu ?
"Tay cầm bìa sách, dám hầu phi vi ?
"Việc này lắm mối gian-khi.
"Dám xin tâu dưới đan-trì đầu đuôi :
"Khoa này Bảng-nhãn Khâu-Khôi,
"Bậc người khoa giáp, vẻ người phong-lưu.
"Hôm xưa Tướng-phủ mời vào,
2230.- "Khoe con má phấn, ướm trao chỉ hồng.
"Tân-khoa một mực rằng không,
"Dám tham phú-quí, phụ lòng tao-khang.
"Tâng công bởi tại họ Hoàng,
"Quyết đường ép-uổng, xui đường phân chia.
"Sợ vì phép, khiếp vì uy,
"Tân-khoa mới phải tìm đi lánh mình.
"Nào còn dám tưởng công-danh,
"Lư-công biết thóp sai binh nã về.
"Làm cho bỏ lúc từ qui,
2240.- "Vu cho phi pháp toan bề tâu gian,
"Chúng tôi cả quyết làm đơn,
"Muốn vì Bảng-nhãn lo toan giãi bày,
"Nào ngờ tướng-phủ đã hay,
"Canh khuya đuổi đánh toan bày mưu gian.
"Làm ra vò mũ, xé tàn,
"Cào mình, rạch mặt, vu oan cho người."
Ngự nghe thấu hết đầu đuôi,
Lư, Hoàng khi ấy những lời tâu sai.
Phán rằng: "Những chúng vô loài,
2250.- "Thương con, kén rể, bức người ép duyên "
Lư tâu rằng: "Việc nhỏ-nhen,
"Tình riêng nhi-nữ lọ phiền hỏi-han ?
"Chàng kia vô phép khi quan,
"Lũ kia đấu ẩu xin ban nghị hình."
công-chính: Công bằng, ngay thẳng.

Ưu phân: Phần hơn, phần tốt tột bực.

tam khôi: Cũng như tam nguyên : Ba lần đều đỗ đầu.

Bảng-nhãn: Khoa thi Tiến-sĩ chia ra làm ba giáp : Đệ nhất giáp có ba vị là là Trạng-nguyên, Bảng-nhãn và Thám-hoa ; Đệ nhị giáp có một vị là Hoàng-giáp ; Đệ tam giáp có hai vị là Tiến-sĩ và đồng Tiến-sĩ.

Thiên ân: Ơn trời tức ơn vua. Phong đình : sân cây phong - một thứ cây to lớn - tức sân nhà vua.

ngự tửu, hai cành cung hoa: Ngự tửu : Rượu vua ban. Cung hoa : hoa trồng nơi cung cấm.

du nhai: Chơi ngoài phố. theo lệ các ông tân khoa được vua ban ơn vào xem hoa tại vườn Thượng-uyển và cỡi ngựa đi rong chơi các phố trong hoàng-thành.

ưu hậu: Hậu-hĩ hơn, đối-đãi đặc-biệt,

quan chiêm: Trông nhìn, ý nói để người ta trông vào.

gấm lại hoa thêm: Bởi chữ cấm thượng thiêm hoa.

bẻ quế cung thiềm: bởi chữ Thiềm cung triết quế.

Tân-khoa: Người mới đỗ.

tướng-phủ: Dinh quan tướng.

Khoản trà: Đãi trà.

quyến cố: Đoái, thương-yêu đến.

bể non: bởi chữ hải hà, ý nói ân sâu rộng.

Nửa con: bán tử, tức con nuôi.

tiếng Trịnh: Có lẽ do câu " Trịnh thanh dâm, tiếng nước Trịnh dâm đãng.

Lòng người vốn sẵn lẽ trời: bởi câu " Thiên-lý tại nhân tâm " .

đắc nhân: Được người xứng đáng.

Nhẹ mình nặng nghĩa: bởi chữ " khinh thân trọng nghĩa " .

tai vách mạch rừng: bởi câu phương-ngôn " rừng có mạch, vách có tai " .

Gian mưu đứt nọc, xảo ngôn hết nghề: Gian-mưu : mưu gian ; xảo ngôn : nói khéo .

tội hữu sở qui: Tội đã có người chịu .

ngọ-môn: Cửa chính của kinh-sư, ngay trước tử cấm thành , đó là một tòa lâu-đài trên gác 9 gian, dưới chia ra 3 cửa ra vào, cửa giữa tiếp thẳng tới đoan môn của hoàng-thành, chỉ có vua mới ngự qua, còn thần-thứ đều đi hai cửa bên tả hữu .

Tiền hô hậu ủng: Ngày xưa mỗi khi các bậc đại-thần ra đến ngoài, có quan lính đi hầu, đằng trước thì quát thét dẹp đường đàng sau thì có lính yểm-hộ.

bực thứ ba: Phương ngôn ta có câu " nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò " .

dưỡng-tử: Con nuôi.

nghĩa-phụ, ân-gia: Đều là cha nuôi.

bình-minh: Sáng sớm.

phân-ban: Chia hàng, các quan vào chầu vua, chia ra hai hàng : bên hữu quan văn, bên tả quan võ, gọi là phân ban.

bách-quan: Trăm quan, các quan, nói về số nhiều, cũng gọi là " bá quan ".

đan-trì: Thềm đỏ, thềm nhà vua lát gạch hay đá đỏ.

bôn đào: bỏ trốn đi (đào : trốn)

Di tài: Bỏ sót người có tài.

tình diện: Tình ngoài mặt, mặt tình nể mặt.

trường-qui: Phép của trường thi.

bất pháp: Chẳng theo phép, trái phép.

quyết khoa: Ý nói đi thi quyết lấy đỗ trong khoa ấy.

tảo-vãn: Sớm, muộn, hoặc sớm hoặc muộn.

Bằng bay, côn nhảy: Sách Trang-tử : Bể bắc có con cá tên là cá côn lớn không biết là mấy nghìn dặm, hóa làm con chim, tên là chim bằng, lưng như núi Thái-sơn, cánh như đám mây rủ trên trời. Đó là hai vật lớn nhất trên cạn và dưới nước. Đây nói bằng bay côn nhảy là do chữ " bằng đoàn côn vược" , ví với bước tương lai bay nhảy của người ta.

phi vi: Ngang trái.

gian-khi: Gian-dối.

từ qui: Từ chối trở về.

đấu ẩu: Ẩu đả : Xô đánh.

56.- Lư, Hoàng bị giao tam pháp xét (câu 2255 - câu 2364)
Ngự nghe thấu hết mọi tình,
Tức thì nổi giận lôi-dình bởi đâu.
Phán rằng: "Gian-đảng họp nhau,
"Dối trên hại dưới bấy lâu thông đồng.
"Thử xem lòng lại hỏi lòng,
2260.- "Thẹn chưng mũ áo, hổ cùng cân đai.
"Nhàm tai, chẳng nói chi dài,
"Giao Tam-pháp nghị, rạch-ròi sẽ tâu.
Phùng-công Đô-sát làm đầu,
Thứ nhì Đại-lý, đến sau bộ Hình.
Ba tòa ngồi trước cung-đình,
Nha-môn chực dưới, long-đình đăt trên.
Kia thì bị nọ thì nguyên,
Một bên sỉ-tử, một bên Lư, Hoàng.
Nọc roi sắp sẵn hai hàng,
2270.- Sai vào ngục-viện đòi chàng Khâu-Khôi.
Phùng-công dạy trước mấy lời:
"Chào Lư Thái-phó đầu đuôi đồng từ !"
Tư công nói hãy lờ đờ:
"Tôi cùng ba bác có là người đâu ?
"Tờ bồi ráo-riết chi nhau,
"Rồi ra, tình diện về sau còn dài."
Quan rằng: "Nói cũng lạ đời,
"Tình trong đã vậy, lý ngoài làm sao ?
"Ép duyên sai bắt thế nào ?
2280.- "Việc rành-rành, phải đem vào lời cung.
Lư rằng: "Việc ép thì không,
"Con đây chưa dễ sàng-đông thiếu người ?
"Còn như chuyện bắt Khâu-Khôi,
"Xưa nay quen vẫn làm rồi mới tâu."
Ông rằng: "Binh sự là đầu,
"Đạo làm thần-tử, dám hầu tự chuyên ?
"Khi quân tội ấy đã nên,
"Lại còn nhắc chuyện lộng quyền vi phi.
"Bá Cao chết tại tội gì ?
2290.- "Đông Sơ bỏ ngục tội thì tại ai ?"
Lư rằng: "Sao kể đường dài,
"Hãy cho xong án Khâu-Khôi đã mà !
"Bá Cao với lại Đông Sơ,
"Tội làm trở đậu quân-cơ bấy giờ.
"Trọng khinh bởi chữ lượng vua,
"Như đây có dự chi mà can liên."
Ông rằng: "Liệu đấy mà xem,
"Nếu còn già miệng thì nên mất lòng!"
Còn đương tra hỏi chưa xong,
2300.- Trông ra đã thấy quan trong, họ Hoàng
Đem vào đặt trước sảnh-đường,
Long-côn một chiếc, niêm hoàng một chương.
Ba toà tiếp chỉ vộì-vàng,
Mấy lời ỏn-ẻn họ Hoàng đã thưa:
"Này đồ phụng chỉ ban ra,
"Sao cho tận pháp mới là công minh.
"Gìa tay xin chớ ngại tình,
"Phen này hai mạng súc-sinh đi đời."
Phùng-công hỏi thử mấy lời,
2310.- Rỉ tai Hoàng mới khúc-nôi kể bày.
Thưa rằng tôi đã tỏ đây,
"Đông-cung nghĩ chút đạo thầy, toan bênh.
"Mặt rồng nổi giận lôi đình,
"Buộc công-pháp lại, gác tình riêng ra.
"Thôi ! thì trời cũng chẳng xa,
"Xưa nay hãm-hại người ta đã đầy."
Nói rồi mắm miệng, day tay,
Trông Lư Kỷ, lại rút giày ném theo.
Hung-hăng mắng ít, nhiếc nhiều,
2320.- Còn the-thé giọng, toan điều nọ kia,
Phùng-công khêu-gợi tỉ-tê;
"Bố mầy dường có thù gì với ai.
"Tội đâu có phép đấy rồi,
"Can chi mà cứ xơi-xơi nhọc mình."
Mặt còn men-mét xám xanh,
Được lời, Hoàng mới kể tình xa xưa;
"Rằng tôi có chút cháu nhà,
"Lỵ Giang-tây đạo tên là Thái Câu
"Chứng oan mắc phải mưu sâu,
2330.- "Cũng vì thanh giản lấy đâu nhân tình ?
"Giặc Hoàng-Thổ trấn dấy binh,
"Án thông phỉ ấy, đã dành cho ngay.
"Kiến bò miệng chén mau thay,
"Mưu kia đã lắm, vạ này cũng thâm.
Họ Hoàng quen thói thâm-trầm
Ngoài thơn-thớt miệng, trong tâm-ngẩm lòng.
Cắm gần sẵn có roi đồng,
Dang tay đã diệt Hoàng Tung một hồi.
Bước ra còn nói mấy lời :
2340.- "Đại-nhân, xin xét một hai cho cùng."
Ông rằng: "Phải việc nói không,
"Lòng người là sắt, phép công là lò.
"Bây giờ còn dám quanh-co,
"Truyền đòi Hình-bộ, hãy cho giở nghề."
Dạ rân sát-sạt xa nghe,
Đỉa, giăng thẳng nọc, đuối, vì-vụt roi
Một sân thịt nát, xương rơi,
Ngất đi một lúc, lại hôì mấy phen.
Lư, Hoàng biết thế khôn kiêng,
2350.- Xin khoan roi, để việc liền chiêu ra.
Mai, Trần hai án ngày xưa,
Khôi-Khâu một án bây giờ, chịu đoan.
Ba toà một mực truyền ban
Sai nghiên-bút, lấy cung đoan mấy tờ.
Phùng-công truyền phó canh giờ,
Rồi xem án tấu, đợi chờ xử phân.
Kíp về tư thất dời chân,
Mời chàng Mai với chàng Xuân dặn dò.
Trời đà chứng kẻ oan vu,
2360.-Trừ gian, may lại phục thù có cơ.
Mặt rồng gang tấc không xa ,
Giãi tình oan khuất, họa nhờ thiên-ân
Vâng lời dặn-dỗ ân cần,
Hai chàng thảo sẵn sớ-văn hai bài.
57.- Lư Kỷ, HoàngTung bị chính-pháp bêu đầu (câu 2365 - câu 2390)
Buổi triều vừa rạng ngày mai,
Hơn trăm sĩ-tử chực ngoài hành-lang
Phùng-công tâu án Lư, Hoàng,
Phân-minh trạng chỉ, rõ ràng tờ cung,
Đường hoàng xem hết thỉ-chung,
2370.- Phán rằng: "Gian-tặc thông đồng bấy nay.
"Bá Cao oan-uổng thương thay !
"Đông Sơ bỏ ngục, nào hay tội gì ?"
Cửu-trùng hạ chỉ tức thì:
Họ Trần tha tội, lại về chức xưa.
Mai-công oan khuất xót-xa,
Chẳng hay con cái bây giờ còn ai ?
Phùng-công tâu trước mấy lời :
"Chuyện ny chân, giả đèn trời xin soi.
"Trạng-nguyên ấy thực họ Mai,
2380.- Mà Khâu Bảng-nhãn hẳn-hoi họ Trần.
Phán rằng một cửa trung-thần,
"Truyền cho hai gã vào sân đan-trì.
Lễ rồi, trước điện đều quỳ,
Bạch oan sẵn sớ tức thì dâng lên.
Vua Đường xem hết sự duyên,
Phán rằng: "Tung, Kỷ hại liền bấy lâu.
Truyền đem chính-pháp bêu đầu,
Trạng-nguyên Bảng-nhãn đứng đầu hai bên.
Ban cho phục họ, phục tên,
2390.- Cao minh muôn đội ơn trên chín lần
58.- Trần Đông Sơ được tha ra khỏi thiên-lao (câu 2391 - câu 2414)
Suy ra mới biết trời gần,
Chính-tà một bụng, quỉ-thần hai vai.
Gian-thần chưa chắc nẩy chồi,
Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.
Trung-trinh dẫu có mắc oan,
Vẫn trơ cây cứng, không chồn gió lay.
Về sau ngay lại ra ngay,
Khỏi tuần hoạn nạn, đến ngày hiển-vinh.
Lư, Hoàng thực đã đáng tình,
2400.- Đem ra chính-pháp hành-hình một giây.
Tan-tành thịt nát, xương bay,
Nắng bêu mặt nịnh, đất rây máu tà.
Chán lời kẻ lại, người qua:
"Bây giờ thế ấy thuở xưa thế nào ?"
Trần-công ra khỏi thiên-lao,
Ngọ-môn chực sẵn đã vào tạ ân.
Phùng-công mừng-rỡ cố-nhân,
Mời về tư-thất ân-cần thở-than.
Rể con sum-họp một đoàn.
2410.- Người than chuyện trước, kẻ bàn nỗi xưa.
Nhớ-nhung kẽ tóc chân tơ,
Gian-nan là mấy, nương-nhờ những đâu ?
Bao nhiêu tân khổbấy lâu,
Giật mình đòi lúc, lắc đầu đòi phen.
59.- Mai Bá Cao được quốc tế (câu 2415 - câu 2456)
Khi nên mọi việc mọi nên,
Chiếu trời đâu đã tốc truyền tới nơi.
Định ngày ngự tế họ Mai,
Phong làm Thái bảo dựng bài liệt-trung
Trạng-nguyên với lại Trần, Phùng,
2420.- Ban quyền Học-sĩ dự phần yếu thanh .
Còn như Bảng-nhãn Xuân-sinh,
Làm Đô-ngự-sử, quyền hành hạch tâu
Họ Trần, họ Đảng, họ Khâu,
Trật gia tam cấp đợi sau kén dùng.
Vợ Mai-công, vợ Trần-công,
Lại cùng Trần Hạnh, lại cùng Vân Anh
Phu-nhân nhất phẩm cực vinh,
Khen cho chữ nghĩa, chữ trinh một nhà,
Vân Tiên với lại Ngọc Thư,
2430.- Phẩm đề đệ-nhị, cũng là phu-nhân.
Mai-công khai táng đến tuần,
Hoàng-thân tế điện, triều-thần trợ nghi.
Trạng-nguyên nhân tiện đường đi,
Duyên đồ hộ-tống, về quê châu Thường.
Lại ban tuần-thú bốn phương,
Ấn vàng một quả, kiếm vàng một thanh.
Một mình quyền được tiện hành,
Thẳng tay nẩy mực, công bình cầm cân.
Lại cho về việc đại tuần
2440.- Hoàn-hôn ngự tứ nghênh thân một ngày.
Lắng tay rõ chiếu năm mây,
Hai chàng vào trước, lạy bày tạ ân.
Xem ngày ngự tế đã gần,
Cho tin báo trước tăng-nhân dọn chùa.
Trạng-nguyên mặc áo thôi-ma,
Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần.
Điển-nghi khắp mặt triều-thần,
Một tờ dụ-chỉ, ba tuần rượu hoa.
Cột kết thái, trướng rủ là,
2450.- Đèn gần chong sáp, đỉnh xa bay trầm.
Trống tam nghiêm, nhạc bát âm,
Mấy mâm sinh lễ mấy mâm tư thình.
Sống trung-liệt thác anh-linh,
Suối vàng thơm phách, mây xanh thỏa hồn.
Đã đành trung hiếu nhất môn,
Ơn vua nhuần gội, tiếng con rỡ-ràng.
60.- Mai Trạng-nguyên được ân ban (câu 2457 - câu 2484)
Tế rồi linh-cữu lên đường,
Trạng-nguyên lĩnh ấn, gươm vàng ra đi.
Tạ ân vào trước tâu quì,
2460.- "Việc công đâu dám bận vì tình riêng.
"Tưởng khi lánh nạn băng miền,
"Theo chân cậy có một tên Hỉ Đồng.
"Nghĩ trong thầy tớ xét công,
"Mấy cơn nguy-hiểm, mấy vòng gian-nan.
"Tìm vào nhạc-phụ Hầu Loan,
"Hay đâu cùng với quyền gian một lòng.
"Cũng toan bắt nộp lấy công,
"Giả hình khi ấy Hỉ Đồng đỡ thay,
"Rày nhờ rộng bước đường mây,
2470.- "Ngậm-ngùi đạo tớ, nghĩa thầy chưa quên.
"Móc mưa xin tưới cửu-tuyền,
"Gọi là tinh-biểu "để đền chút công."
Vua Đường nghe hết thỉ-chung,
Khen rằng tiết nghĩa hiếu-trung một nhà.
Của kho ban dựng miếu thờ,
Chức ban Thất phẩm. gọi là tặng phong
Tạ từ năm lạy đền rồng,
Trở ra rước cữu Mai-công xuống thuyền.
Tiễn đưa xe ngựa như nêm,
2480.- Trống ran mặt đất, cờ liền bóng sông.
Đồ hiếu-sự vẻ quân-dung,
Sông lồng giới-trượng gió tung biển-kỳ.
Đến đâu quyền được tiện nghi,
Một tay thưởng-phạt hai bề công-minh
lôi-dình: Sấm sét.

Giao Tam-pháp: tức Tam-pháp ty : Tòa Tam-pháp. Tòa này mỗi khi có việc xét xử gì quan-trọng mới lập, cũng như tòa án đại hình. Gồm có quan-chức ba tòa là Đô-sát viện, Đại-lý-tự và Hình bộ họp nhau xét nghị người ta quen gọi là "Ba tòa".

cung-đình: Sân trong cung, cũng như triều-đình, nơi công-đình.

Nha-môn: Thuộc trong dinh.

long-đình: Cái án có mui chạm rồng gọi là long-đình, để đặt những giấy tờ sắc-chỉ hay đồ-vật gì do nhà vua ban ra cho được tôn-kính,

ngục-viện: Nhà giam.

Thái-phó: Một chức quan cao-cấp vào hàng Tam-công.

ba bác: Đây là Lư Kỷ gọi ba quan Tam-pháp.

Binh sự: Việc binh. Lư Kỷ sai đem binh đi bắt Khâu Khôi.

thần-tử: Tôi con.

Khi quân: Dối vua.

lộng quyền vi phi: Lộng quyền làm bậy.

trở đậu quân-cơ: Làm ngăn-trở, chậm-trễ việc quân.

can liên: Dính-dáng giây-dưa đến, liên-lụy, vạ lây.

họ Hoàng: Đây là trỏ vào quan Hoàng-môn tức hoạn-quan hay quan Thị-hầu chực ở hậu-cung.

Long-côn: Roi của vua.

niêm hoàng: Tờ chiếu chỉ của vua viết bằng vàng và niêm phong lại, nên gọi là "niêm hoàng" cũng như đằng hòang.

tận pháp: Hết phép.

súc-sinh: Giống vật nuôi trong nhà, tiếng khinh-bỉ, đây trỏ Lư, Hoàng.

Đông-cung: Cung bên đông, nơi Thái-tử (con cả nhà vua) ở, nên cũng gọi Thái-tử là Đông-cung.

Bố mầy: các hoạn-quan theo tiếng xưng hô chữ Hán thường gọi là "Công-công" hay "lã công". Chữ "Bố mầy" phải chăng do những chữ đó dịch chạnh đi,

Lỵ Giang-tây đạo: Nhậm chức ở đạo Giang-tây.

Thái Câu: Xem chú-thích ở trên.

thanh giản: Trong-sạch, giản-dị.

nhân tình: Do chữ tố cá nhân tình, ý nói giao-thiệp thù phụng người cho được việc.

thông phỉ: Giao-thông với giặc.

thâm-trầm: Sâu, chìm, ý nói người sâu-sắc.

Lòng người là sắt, phép công là lò : Câu này do câu chữ " nhân tâm như thiết, quan pháp như lô ".

Đỉa, giăng thẳng nọc, đuối, vì-vụt roi: Câu này nói nọc thẳng ra như con đỉa và dùng roi xương đuôi cá đuối mà đánh.

Mặt rồng gang tấc không xa: Câu này do câu " Thiên uy bất vi nhan chỉ xích ".

thiên-ân: Ơn trời.

sớ-văn: Tờ sớ tâu vua.

hành-lang: Dãy nhà ngang chạy dài ở các cung điện.

chân, giả: Thực, dối.

Bạch oan: Tỏ nỗi oan.

Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan: Núi băng do chữ băng sơn : Trương Triện đời nhà Đường nói : Các ông coi Dương Hữu-tướng (Dương Quốc Trung) như núi Thái, tôi thì cho là núi băng hễ mặt trời mọc là tan, các ông trông-cậy mãi được ru !

tân khổ: Cay đắng.

Thái bảo: Một chức quan cao-cấp về Cung-hàm hàng tam công.

liệt-trung: bậc nghĩa-liệt kiên-trung,

Học-sĩ: một chức quan văn-học.

yếu thanh: Trọng yếu mà thanh-cao.

Đô-ngự-sử: Một chức gián quan.

Trật gia tam cấp: Chức thêm ba bực.

Lại cùng Trần Hạnh, lại cùng Vân Anh: Hai vợ Trạng-nguyên Mai Bích.

Vân Tiên với lại Ngọc Thư: Hai vợ Bảng nhãn Xuân-sinh.

khai táng: Mở huyệt ra mai táng lại cũng như nói cải táng.

Hoàng-thân tế điện, triều-thần trợ nghi: Nghĩa là họ nhà vua đến tế điện, quan trong triều đến giúp lễ.

Duyên đồ hộ-tống: nghĩa là đi đưa đám theo dọc đường.

tiện hành: Nghĩa là được tiện nghi hành sự, cứ tuỳ tiện nên làm thế nào thì làm.

đại tuần: Đi tuần thú như vua.

Hoàn-hôn ngự tứ nghênh thân: Vua cho đón dâu về làm lễ thành-hôn.

thôi-ma: Áo sô gai, áo tang.

tảo phần: Quét mả.

Điển-nghi: Điển-chương và nghi-thức.

triều-thần: Các quan trong triều.

dụ-chỉ: Tờ dụ của vua.

tam nghiêm: Ba hồi. Lúc mới bắt đầu tế, người ta xướng : " Chung cỗ các tam nghiêm " nghĩa là chuông và trống đều đánh ba hồi,

bát âm: Tám thứ tiếng về âm-nhạc.

sinh lễ: Lễ thịt chín như thịt lợn, trâu,

tư thình: Cỗ xôi.

trung hiếu nhất môn: Trung và hiếu trong một cửa.

linh-cữu lên đường: Quan tài đựng xác chết gọi là cửu Linh nghĩa là thiêng.

tinh-biểu: Tinh-biểu : người có nết tốt được nhà vua ban khen hoặc bằng biển ngạch, hoặc bằng cờ hoặc bằng bia nêu ra để làm gương cho người khác bắt-chước, đều gọi là "tinh-biểu", như tinh biểu nghĩa phu tiết phụ v. v...- tinh biểu nghĩa đen là cờ nêu -

Thất phẩm: Quan tước của triều-đình có 9 phẩm, từ nhất đến cửu, nhất phẩm là trên hết, cuối cùng là cửu phẩm, mỗi phẩm lại chia ra hai trật là chính và tòng.

hiếu-sự: Việc hiếu, việc tang .

quân-dung: Nghi-vệ của quân đội.

giới-trượng:Khí-giới của quân lính.

biển-kỳ: Biển và cờ cũng là đồ hành nghi của quân-đội, dùng làm biểu-hiệu khi đi đường hay đóng tại đâu.

thưởng-phạt: Thưởng kẻ có công, phạt kẻ có tội.

61.- Mai Trạng-nguyên báo ân báo oán (câu 2485 - câu 2644)
Lần lần gió mát trăng thanh,
Thuyền đà tới phủ Đại-danh bao giờ.
Một vài thầy tớ lên bờ,
Dân tình lại tệ, giả vờ, hỏi chơi.
Khác hình ai biết là ai,
2490.- Đi lần bỗng thấy một nơi có chùa.
Cửa ngoài thấy có niêm tờ,
Phủ-nha nghiêm cấm kẻ ra người vào.
Nghĩ riêng chưa biết làm sao,
Xưa nay cửa bụt dễ nào hẹp ai ?
May sao gặp lúc vắng người
Dời chân sẽ lẻn vào nơi hậu đường.
Thấy trong thờ-phụng một giường,
Trông lên bài-vị rõ-ràng Lư-công.
Thái-sư chức tước đề trong,
2500.- Chữ "Hầu Loan phụng" một dòng đề bên.
Cầm tay cất lấy về liền
Cười rằng cấm cách nhân-duyên thế này !
Về thuyền, quân đã sắp bày,
Vào toà sát-viện sai ngay đi đòi.
Nghe quan Tuần-phủ đến nơi,
Hầu Loan mình đã bồ-hôi ướt nhè,
Mấy lời truyền hỏi xa nghe:
"Viên kia có mất của gì biết chưa ?
"Đồn rằng có ả tiểu-thư,
2510.- "Đông-sàng ngôi ấy bây giờ là ai ?"
Loan nghe chưa hết đầu đuôi,
Rung rung sợ sợ, mở lời không ra
Thưa rằng: "Có chút gái thơ,
"Mấy năm trước đã chơi xa suối vàng.
"Chức ti phận tiểu tầm thường,
"Chẳng hay thượng-hiến, sao tường duyên-do.
"Đến mừng chậm-chạp già nô,
"Dám xin thượng-hiến thứ cho được nhờ.
Quở rằng: "Lộc nước ơn vua,
2520.- "Còn lo thất hiếu mà thờ họ Lư !
"Cả gan còn dám quanh-co.
"Chứ thì bài-vị sau chùa tên ai ?
"Nghi-trưng những chuyện mới rồi,
"Bấy giờ bắt nộp họ Mai, công gì ?
"A-dua chắc những mạnh bè,
"Ai hay quyền ấy lại về tay ai ?
"Ruổi mau lệnh-tiễn kỳ-bài,
"Đem ra chính-pháp, răn người vô lương.
Oai trời một lưới tứ phương,
2530.- Rung gan đảng nịnh, ghê xương lũ tà.
Gần gần đã thấu tin nhà,
Châu-công đã khiến người ra đón mời.
Quan quân sắm-sửa tơi bời,
Cờ giăng nhất tự, trống hồi tam liên.
Biển vàng: "Tuần-thú đại thiên."
Một bên bảo-kiếm, một bên lệnh bài.
Phủ Châu thoắt đã tới nơi,
Châu-công ra đón cửa ngoài mừng vui.
Phấn vua rạng vẻ cân đai,
2540.- Hà-nam gia-khách vẫn người ngày xưa.
Quan cựu lại, bực tân khoa,
Tình nhạc-phụ, nghĩa ân-gia vuông tròn.
Tiệc rồi giãi chuyện hàn-ôn,
Gấm chen vẻ quí, rượu ngon giọng tình.
Sinh rằng: "Nhờ phận khoa danh,
"Quốc-gia ơn rộng, môn-đình thơm lây.
"Chiếu trời đã tỏ năm mây,
"Xong tuần đại thú, đến ngày nghênh thân.
"Khâm kỳ nghe đã gần gần,
2550.- "Một nhà xin liệu, định tuần lai Kinh."
Bước vào làm lễ gia-đình,
Tạ từ sinh đã khởi trình trẩy ra.
Tình cố-hữu, nghĩa thông-gia,
Ông đà sửa lễ, cho đưa theo thuyền.
Xuôi dòng nước chảy như tên,
Buồm giong thoắt đã tới miền Thường-châu.
Gieo neo kề bến mã-đầu,
Sửa-sang nhà trước, vườn sau mấy tuần.
Cho tin đi đón mẫu-thân,
2560.- Sơn-đông nhà cậu cũng gần chẳng xa.
Mấy ngày bà đã tới nhà,
Ruột dò chín khúc, lệ sa đôi hàng.
Vật mình lăn trước linh sàng.
Khúc oan kể-lể, nỗi thương ngậm-ngùi.
Nhìn chàng, than thở mấy lời,
Nghĩa sâu mẫu-tử, tình dài biệt ly.
Ôm quan khóc-lóc nằn nì,
Nghĩa phu-phụ những nặng vì nước non.
Thảm chồng thôi lại mừng con,
2570.- Thức cười nước mắt, ngủ hồn chiêm-bao
Sinh rằng: "Chín chữ cù-lao,
"Bể sâu mấy trượng, trời cao mấy trùng.
"Bấy lâu nam bắc tây đông,
"Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau.
"Trời cho rày được tụ đầu,
"Nợ xưa nhẹ gánh, phúc sau đền phần.
"Con vâng vương-mệnh tại thân,
"Vinh qui, hối táng,đại tuần, một phen.
"Rồi đây táng tế cho yên,
2580.- "Mẫu-thân xin rước xuống thuyền lai Kinh.
"Chẳng lâu con cũng khởi-hành,
"Trước lầu ngữ phượng đại thành lễ thân."
Mấy ngày táng sự đến tuần,
Đã tìm đất tốt phong-thần một nơi.
Chiếc bia "trung-liệt" dựng ngoài,
Đá xanh tạc lấy được ngày treo trên.
Thành phần nóc rạp kéo lên,
Ba vòng giáo dóng, hai bên thái kỳ.
Tầng trong bày-đặt uy-nghi,
2590.- Ngậm tăm hơi miệng, kéo rề bước chân.
Tiêu thiều nhã nhạc xa gần,
Tam huyền nhịp-nhặt, song vần tiếng khoan.
Đồ điếu-phúng, lễ ngự ban,
Mấy mâm ngũ-thục, mấy bàn tam-sinh.
Chữ vàng đề trước minh-tinh
Đường-triều Thái bảo chính danh rõ-ràng.
Quan quân tiễn kiệu kéo hàng,
Hạ-liêu mấy lũ, bộ đường mấy ban
Trạng-nguyên đi trước phù-quan.
2600.- Phu-nhân nối kiệu buông màn phương-du.
Lập lăng mấy gốc tùng-thu,
Một vùng sảng-khải đắp mồ ngưu-miên.
Bấy lâu táng lễ vừa yên,
Phu-nhân đã giục xuống thuyền đi Kinh.
Trạng-nguyên cứ việc tuần hành,
Nghi-trưng vừa mới nhật trình tới ngay.
Lạ quen cũng một miền này,
Sao xưa trốn-tránh mà rày hiển-dương ?
Thoảng qua sực nhớ mọi đường,
2610.- Chợt lòng lại động tấm thương Hỉ Đồng.
Tra ra tri-huyện Sử-công,
Môn-sinh Lư Kỷ cũng vòng quyền gian.
Sá chi mọn mảy xẻ đàn,
Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ-nhân.
Công-lênh nhớ đến Đồ Thân,
Cho làm huyện lệnh đền ân tấm lòng.
Bắc môn ghi mả Hỉ Đồng,
Dựng bia đá, lấy sắc phong tạc liền,
Lại truyền sửa rạp một bên,
2620.- Trước mồ tế điện một phen thân hành.
Khóc than kể hết mọi tình:
"Có công-danh ấy vì mình chớ ai.
"Vì ta trót đã thiệt đời,
"Đền công, ta cũng nhớ lời khấn xưa."
Băn-khoăn đường đất cách xa,
Giao Đồ Thân, tự bấy giờ giữ coi.
Phỏng sau kế tự còn dài,
Họ Đồ nhường lại một người họ Vương
Gọi là phụng tự khói hương,
2630.- Ấy là tròn hết mọi đường thỉ-chung.
Đồ Thân vâng dạy ghi lòng,
Đem con bèn cải Hỉ Đồng họ Vương,
Lại tìm đến chốn phật đường,
Truyền đem áo tía xe vàng nghênh sư,
Tái sinh may có ơn xưa,
Khấu đầu bách bái tạ thưa mấy lời.
Chàng từ ân oán rạch-ròi,
Cất không gánh nặng, tát vơi bể sầu,
Tuần-hành mọi chốn đâu đâu,
2640- Trong lòng phép nước, trên đầu ơn vua.
Công không sót, tội không tha,
Phân hào chẳng lẫn, tóc tơ nào lầm.
Mấy phen mực nẩy, cân cầm,
Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca.
62.- Sau khi đi tuần thú, Trạng nguyên trở vê kinh (câu 2645 - câu 2658)
Lần lần đông lại xuân qua,
Một vòng tuần-thú tính đà khắp quanh
Định ngày phục mệnh lai Kinh,
Sớ-văn một tập, hiện thành tâu lên.
Chín lần đã động tiếng khen,
2650.- Tấc lòng công chính, mấy phen nhọc-nhằn.
Trên vì nước dưới vì dân,
Ban cho cực-phẩm Tể-thần đền công.
Truyền Khâm-thiên-giám hội-đồng,
Chọn ngày đại-cát động phòng nghênh thân.
Trạng-nguyên thay áo Tể-thần,
Dưới thềm năm lạy tạ ơn khấu đầu.
Nhàn chơi lui tới thiếu đâu,
Phủ Trần đi lại, phủ Khâu ra vào.
63.- Hai đám cưới long trọng (câu 2659 - câu 2734)
Trời xuân minh mị thế nào,
2660.- Lưỡi oanh ríu-rít, bông đào so le.
Phượng lâu sắp sẵn lễ nghi,
Khâm-thiên đã định nhật kỳ tư ra.
Tháng ba vừa bữa mồng ba,
Là ngày hoàng-đạo, là giờ thiên-ân.
Xiết bao khí ngoạn kim-ngân,
Phủ Mai lĩnh trước, phủ Trần lĩnh sau.
Bạc, vàng, ngà, ngọc, thiếu đâu,
Cung-hương, mã-não, minh-châu, mấy bàn.
Rỡ-ràng phẩm phục mới ban,
2670.- Mãng-bào hai bộ, hoa-quan bốn toà .
Hôm sau vừa rạng mồng ba,
Cao cao lầu phượng, xa xa mặt rồng.
Ngai vàng thăm-thẳm bên trong,
Bách quan văn-võ hội đồng bấy lâu.
Trạng-nguyên trước, Bảng-nhãn sau,
Yết câu vạn tuế, khấu đầu lạy xa.
Ban cho ngự tửu, cung-hoa,
Hai yên ngựa trước, bốn toà kiệu sau.
Trước sau phân đạo ruổi mau,
2680.- Phủ Trần nhộn nhịp, phủ Châu linh-đình.
Thiếu gì vẻ quí màu thanh,
Rỡ-ràng kết thái, rập-rình trương đăng.
Hai bên tiếp đãi tưng-bừng,
Nhạc râm-rỉ vỗ, hương lừng-lẫy xông.
Khéo là thu-xếp cũng thông,
Châu-công đã hợp Trần-công một nhà.
Mai-sinh lạy bốn ông bà,
Bên là công đẻ, bên là công nuôi.
Vân Anh, Trần Hạnh hai người,
2690.- Cung-trang sắm-sửa cùng ngồi kiệu hoa.
Bên kia Khâu-phủ xa xa,
Xuân-sinh gióng ngựa cũng vừa tới nơi.
Ông bà Khâu-thị cùng ngồi,
Chàng vào tám lẽ, lễ rồi bước ra.
Giường bên bốn lạy Ngư-bà,
Tình là bán tử, nghĩa là tái sinh.
Vân Tiên, Châu Ngọc sắm-sanh.
Kiệu đà ghé bến trước bình cùng lên.
Vừa xong lễ sính đôi bên,
2700.- Trước sau một lũ kéo liền thẳng giong.
Trạng-nguyên ngựa trước song song,
Khác nào như thể cỡi rồng lên tiên,
Ngựa sau Bảng-nhãn theo liền,
Giải đào chân để, nệm sen mình ngồi.
Rườm-rà chân chỉ hạt trai,
Vàng suy miệng hậu, cừ nhồi mã yên.
Nối sau bốn kiệu kéo liền,
Tám đòn nhận ngọc, bốn bên buông rèm.
Liễu-hoàn, chị chị, em em,
2710.- Chạy gần che quạt, theo chen ôm lò.
Kiệu hoa nhẹ bước từ từ,
Kiệu theo ngựa trước, ngựa chờ kiệu sau.
Vòng ngoài nhộn-nhịp quân hầu,
Ngửa trông đã thấy phượng-lâu dưới thềm.
Khen rằng sáu gã thanh-niên,
Trai tài gái sắc, hai bên kịp thì.
Thơ đào ngợi chữ vu-qui,
Ban thêm châu ngọc cho về thành thân.
Đôi tài-tử, bốn giai-nhân,
2720.- Phủ Mai bài trí, phủ Trần sửa-sang.
Đuốc hoa, màn gấm, sẵn-sàng,
Định ngôi gửi rể, chia buồng đông tây.
Rượu mừng mặt, lễ bắt tay,
Nơi vui bàn ngọc, nơi vầy cuộc tiên.
Rạng mai vào lễ thánh tiền,
Ban cho bồi yến ngự diên hai chàng.
Thiên-nhan gần gũi tấc gang,
Nến hoa đối mặt, chén vàng trao tay.
Tiệc vui chầu-chực tối ngày,
2730.- Lại ban ngự-chức đưa ngay đến lầu.
Dần-dà cách mấy đêm sau,
Ban đòi tân phụ vào chầu từ cung.
Bốn nàng dự yến đền trong,
Ân vua gội thấm, tiếng chồng thơm lây.
64.- Hạnh phúc gia đình của hai họ Mai, Trần (câu 2735 - câu 2816)
Rồi ra yến-ẩm mấy ngày,
Khi vui Mai-phủ, khi vầy Trần-gia.
Mời nhau lần-lượt tiệc hoa,
Thôi bên Trần-thị, lại toà Khâu-công.
Phong-lưu phú-quí cùng chung,
2740.- Bõ ngày truân-hiểm, bõ công sách đèn.
Hai tài-tử, bốn thuyền-quyên,
Tiếng người mới, vẫn người quen bao giờ.
Dàn trước gió, rượu bên hoa,
Câu thơ trong tuyết, cuộc cờ dưới trăng.
Xướng tuỳ đều giữ đạo hằng,
Một nhà hảo-hợp dễ chăng mấy người.
Có phen ôn chuyện trùng-đài,
Có phen nhắc chuyện thoa rơi nực cười,
Có phen nhắc chuyện lôi-thôi,
2750.- Đền Chiêu Quân điện thủa đời Hán-gia.
Bèn đem tâm-sự tâu qua,
Lại xin ở đấy đợi chờ chiêm-bao.
Canh khuya thấy sứ đòi vào,
Bảo qua mấy tiếng tiêu-hao sự nhà.
Hôm sau đến Hắc-thủy hà,
Gieo châu, bỗng thấy thần đưa đem về.
Đằng vân giá vũ, cũng ghê,
Một giây bỗng thấy đưa về Trung-hoa.
Xin làm ngọc-xuyến, kim-hoa,
2760.- Mượn người thương khách đem đưa sang Hồ.
Hỏi thăm đến tối linh-từ,
Chiêu Quân là hiệu, bấy giờ tiến lên.
Khấn rằng là của Hạnh Nguyên,
Cho sai đưa đến án tiền tạ ân.
Lại ra các bộ sứ-thần,
Tạ từ cơ thiếp, vân vân mấy lời.
Có phen kể tích Giang Khôi,
Có phen nhớ nỗi vớt chài cầu vui.
Hai nhà phúc hậu vẹn mười,
2770.- Thung-thăng cõi thọ đứng ngồi đền xuân.
Đông hàng lông phượng gót lân,
Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng.
Đời đời khoa-mục đỉnh-chung,
Rõ nền thi-lễ, nối dòng thư-hương.
Hiếu, trung, tiết, nghĩa đủ đường,
Dựng bia muôn kiếp, để gương nghìn đời.
65.- Đoạn kết (câu 2736 - câu 2816)
Cho hay trời cũng ngồi rồi,
Tuần-hoàn đem lại vòng dài rút chơi.
Dữ, lành bỏ lửng mà coi,
2780.- Sắp đâu vào đấy chẳng sai phân hào !
Gian-tà chớ vội bảnh bao,
Tung lên cho đến, buộc vào tự nhiên.
Trước dù lỏng-lẻo dường thiên,
Sau càng ráo-riết, mới tin tay già.
Trung-lương còn bỏ lửng-lơ,
Xoay trăm nghìn cấp, thử ba bốn lần.
Hãy cho đeo-đẳng đủ phần,
Rõ lòng sắt đá liệu dần gỡ cho.
Voi chẳng đẻ, đẻ thì to,
2790.- Bấy giờ mới rõ thực lò Hóa-công.
Truyện này xem thấu thỉ-chung,
Suy ra mới biết trời không có lầm.
Dữ, lành trong một chữ tâm,
Cơ thâm thì họa cũng thâm là thường.
Ví hay tu tỉnh mọi đường,
Trước dù chịu thiệt, sau càng thấy hơn.
Bàn riêng mấy bạn kim-lan,
Phường ta bất quá sàn-sàn bực trung.
Dở đâu như Kỷ như Tung,
2800.- Hay đâu ví với Mai-công mà rằng.
Bình cư giữ lấy đạo hằng,
Hễ người trung-chính xin đừng tự khi.
Đã là nam tử tu my,
Vào vòng công-nghiệp, ấy thì có vua.
Mới hay từ tóc đến tơ,
Miếng cơm, tấm áo cũng nhờ quân-ân.
Sao cho được chữ trung-thần,
Thờ vua chớ có vị thân mới đành.
Thế rồi trời cũng có mình,
2810.- Lo gì phúc hậu, công-danh kém người.
Phòng văn nhân buổi ngồi rồi,
Học đòi tấp-tểnh mấy lời nôm-na.
Trước là rõ kẻ trung, tà,
Sau là ta dặn lấy ta mọi bề.
Biết bao lời kệch tiếng quê,
Thôi thôi bất quá là nghề mua vui !
= HET=

Chú thích:
Thái-sư: Một chức quan tột bực, đứng đầu tam Thái ( Thái sư, Thái-phó, Thái-bảo ),

Tuần-phủ: Theo quan-chế Tàu thì Tuần-phủ là chức thay vua đi tuần-thú để phủ an dân chúng các địa-phương.

Chức ti phận tiểu: Chức thấp phận nhỏ.

thượng-hiến: Quan trên.

lệnh-tiễn kỳ-bài: đã chú-thích ở trên.

vô lương: Không có lương-tâm.

nhất tự: Chữ nhất.

tam liên: Ba hồi thống

Tuần-thú đại thiên: Thay vua đi tuần thú.

Khâm kỳ: Kỳ-hạn đi khâm-mạng.

mã-đầu: Bến tàu đỗ.

linh sàng: Giường thờ người chết gọi là linh-sàng, nghĩa là cái giường thiêng, cũng như quan-tài gọi là linh-cữu.

Chín chữ cù-lao: Câu này do câu " ai ai phụ-mẫu sinh ngã cù-lao" nghĩa là thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc ; trong thơ Lục-nga kinh Thi có chín chữ nói về công khó-nhọc của cha mẹ đối với con, cho nên ta thường nói "chín chữ cù lao " hay là " cửu tự cù lao" cũng thế,

vương-mệnh tại thân: mệnh vua ở mình, nghĩa là mình mang mệnh-lệnh của nhà vua.

Tiêu thiều nhã nhạc: Sáo và nhạc thiều là đồ nhã nhạc cũng như âm-nhạc.

ngũ-thục, mấy bàn tam-sinh: ngũ-thục có lẽ là ngũ quả hay ngũ cốc ? Tam sinh : lễ thịt trâu,dê, lợn.

minh-tinh: Cờ nêu. Đó là một tấm lụa hay vải đỏ, người ta dùng phấn trắng viết quan-chức, họ tên người chết, treo vào một cái giá hay một cần nêu dẫn đi trước cữu trong khi đưa ma. Lúc hạ huyệt thì đem tấm lụa ấy phủ lên trên mặt cữu. ( Ngô học lục).

Thái bảo: là chức của vua Đường truy-tặng Mai-công.

Hạ-liêu: quan dưới, tức thuộc viên.

phù-quan: phò quan-tài.

tùng-thu: cây thông và những cây về loài thông, người ta quen trồng tại nơi lăng-mộ.

sảng-khải: sáng-sủa cao-ráo.

ngưu-miên: Đào-Khản mất con trâu, có người bảo : Trên gò núi kia có một con trâu nằm, chỗ đất ấy mà táng được sẽ phát được đến cực-phẩm. Vì thế người ta gọi huyệt quí là "Ngưu-miên" nghĩa là trâu nằm.

Sử-công: Tên người. Tên viên Tri-huyện là môn-sinh -môn-hạ - Lư-kỷ.

Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ-nhân: Không bõ giết, chỉ cách chức đuổi về làm thứ nhân.

Tái sinh: Sống lại

Khấu đầu bách bái: Cúi đầu trăm lạy.

Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca: Ý nói những tệ-hại về quan tham lại nhũng đều tẩy trong veo làm nổi bật lên những tiếng ca-tụng ở trong đám dân-chúng.

cực-phẩm Tể-thần: Chức Tể-thần - Tể-tướng - tột bực, tức là chức Thủ-tướng đứng đầu hàng bách quan.

Khâm-thiên-giám : Tòa Thiên-văn, coi việc làm lịch, xem ngày, chiêm-nghiệm khí-hậu...

đại-cát: Rất tốt, tốt nhất.

minh mị: Tươi-sáng, đẹp-đẽ.

Phượng lâu : Lầu phượng.

hoàng-đạo, là giờ thiên-ân: Hoàng-đạo : Theo "Hiệp-kỷ biện-phương". Hoàng-đạo là một ngày tốt, cứ những ngày trực : trừ, nguy, định, chấp thành, khai là ngày Hoàng-đạo, Thanh-long, Minh-đường, Kim-quĩ, Thiên-đức, Ngọc-đường, Tư-mệnh là 6 giờ của Hoàng-đạo. Thiên-ân : Một ngôi sao tốt trong trong cung số Tử-vi, giờ Thiên-ân là giờ tốt vì có sao Thiên-ân chiếu.

khí ngoạn kim-ngân: Đồ dùng đồ chơi bằng vàng bằng bạc.

Cung-hương, mã-não, minh-châu: Đều là những thứ quí.

Mãng-bào hai bộ, hoa-quan bốn toà: Mãng-bào, hoa quan : áo thêu rắn, mũ giát hoa, đều là phẩm-phục cao cấp.

ngự tửu, cung-hoa: rượu vua ban, hoa trong cung.

Cung-trang: Ăn vận theo lối trang-phục trong cung vua, như các phi-tần,

lễ sính: Lễ cưới.

chữ vu-qui: Thơ Đào Yêu trong kinh Thi có câu " chi tử vu qui, nghi kỳ gia nhân " : Người ấy về nhà chồng hòa thuâ75n với mọi người trong nhà.

thánh tiền: đây nói trước mặt vua.

bồi yến ngự diên<: Bồi yên : Hầu tiệc ; Ngự diên : Chiếu rượu nhà vua, Tiệc vua ban.

truân-hiểm: Gian-nan hiểm-trở.

Xướng tuỳ: bởi chữ phu xướng, phụ tùy : Chồng xướng-xuất, vợ noi theo.

hảo-hợp: bởi câu " thê tử hảo hợp, như cổ sắt cầm " : Vợ con hòa hợp, như gảy đàn sắt đàn cầm.

Hán-gia: Nhà Hán.

thương khách: Khách buôn.

cõi thọ: bởi chữ thọ vực.

đền xuân: bởi chữ xuân đài.

lông phượng: bởi chữ phượng mao.

gót lân: bởi chữ lân chỉ.

ngũ quế: Năm cành quế . Đậu Vũ Quân hiệu là Yên Sơn, dạy 5 con trai đều hiển đạt, có thơ khen rằng : " Linh thung nhất châu lão đan quế ngũ chi phương ". Nghĩa là : Một gốc linh thung già, năm cành đan quế thơm.

bát đồng: tám cây đồng. Họ Hàn có 8 anh em đều phát đạt. Người ta khen rằng " Hàn-gia bát đồng ", 8 cây đồng nhà họ Hàn.

Hóa-công: Câu này do câu " Thiên-địa vi lô, tạo-hóa vi-công " Trời đất là lò, tạo-hóa là thợ.

Cơ thâm thì họa cũng thâm: Câu này do chữ mưu thâm họa diệc thâm.

Bình cư giữ lấy đạo hằng: Bình cư : Lúc ở thường ; Đạo hằng : Đạo thường.

tự khi: Mình tự dối mình.

nam tử tu my: Nam tử : Con trai ; Tu-my : Râu mày.

trung-thần: Bầy tôi trung.

vị thân: Vì mình.


No comments:

Post a Comment