Sunday, November 1, 2015

Gia huấn ca


Tôi dùng quyển "Gia huấn ca" của nhà xuất-bản Tân-Việt (sáng lập năm 1937), tại 235 Phan thanh Giản Sai-gòn (quyển này in theo giấy phép số 134/T.X.B. của bộ Thông-Tin Nam-Việt khoảng 1952, 1953). Quyển này do Thi-Nham Đinh-gia-Thuyết đính chính và chú-thích.
Tiểu truyện của tác-giả: Nguyễn-Trãi (1380-1442)


Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, người làng Nhị-khê, huyện Thượng-phúc (tức phủ Thường-tín, tỉnh Hà-đông). Năm 21 tuổi đỗ Thái-học-sinh (tiến-sỹ) niên hiệu Thánh-nguyên thứ 1 triều vua Hồ Quí Ly (1400). Làm quan đến chức Ngự-sử-đài chánh chưởng.
Thân-phụ là Nguyễn-Phi-Khanh, đỗ Bảng-nhỡn niên-hiệu Long-khánh thứ 2 triều vua Trần Duệ-tông (1374 ), vì cớ là hàn-tộc mà lấy con gái Trần Nguyên Đán là tôn-thất nhà Trần, theo phép nhà Trần không được bổ dụng. Mãi đến triều nhà Hồ mới được dùng làm Trung-thư thị-lang. Khi quân Minh sang xâm-lấn, hai cha con vua nhà Hồ bị bắt. Phi Khanh cũng bị giải về Tầu. Nguyễn Trãi khóc theo đến Nam-quan. Phi Khanh ngảnh lại bảo rằng: "Con về rửa hờn cho nước, báo thù cho cha, mới là người đại trung đại hiếu, không nên theo nhi nữ thường tình !" Nguyễn Trãi trở về đi theo Lê-Thái-tổ khởi nghĩa ở Lam sơn. Trong 10 năm kháng chiến với quân Minh, giúp vua Lê bằng mưu-kế: phàm các văn-thư từ-trát giao-thiệp với tướng nhà Minh, đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đã đánh đưổi ngoại xâm về Tầu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan-phục-hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ nhất . Triều vua Lê-Thái-tông được làm Nhập nội hành khiển (tức Tể-tướng ). Năm 60 tuổi, về trí-sĩ tại Côn-sơn (thuộc huyện Chí-Linh, tỉnh Hải-dương). Ba năm sau, vì án Nguyễn Thị Lộ, bị tru di tam tộc.
Sử chép : Niên-hiệu Đại-bảo thứ 3 triều Lê Thái-tông (1442) , nhà vua đi tuần phương đông, duyệt võ ở Chí-linh, Nguyễn Trãi đón xa giá đến chơi chùa Côn-sơn . Thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, có tài sắc, được nhà vua vời . Khi xa-giá đến vườn lệ-chi (xã Đại-lai, huyện Gia-bình tỉnh Bắc-ninh) nhà vua bị bệnh sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trãi phải tội tru di.
Năm ấy Nguyễn Trãi 63 tuổi, có người thiếp đương có thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê Thánh-tông, Nguyễn Trãi được minh oan, truy tặng Tế-văn hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri-châu.
Nguyễn Trãi chẳng những là bậc năng-thần kinh bang tế thế, mà còn là một nhà đại văn-hào của Việt-nam ta. Tác-phẩm của tiên-sinh bằng chữ Hán rất nhiều, hiện nay còn truyền lại đều in trong bộ Ức Trai toàn tập: như Ức Trai thi-tập, Ức Trai văn-tập, Quân-trung từ-lệnh tập, An-nam Vũ-cống v.v...Tác-phẩm bằng Quốc-âm, nay chỉ còn tuyền lại có 2 : tức là tập "Gia-huấn ca" này và bài thơ "Hỏi ả bán chiếu" mà người ta thường truyền tụng.

Gia huấn ca
Lời mở đầu

Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân-tâm ấy há thiên lý nào

Bài thứ 1
Dạy vợ con

Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con :
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào !
Ăn-mặc chớ mỹ-miều chải-chuốt,
Hình-dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì
Khi đứng ngồi chứ hề lơ-lẳng,
Tiếng nhục-nhằn nữa nặng đến mình,
Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu-làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm,
Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê-diếu biết bao,
Đông ra quốc-pháp, nhục vào gia-thanh
Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi-mỏ ra vào săn sóc,
Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ-tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối-tăm đèn phải phân-minh,
Hoặc khi hội hát linh-đình,
Được lời dạy đến thì mình hãy ra,
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào !
Của tằn-tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây !
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
Ăn-ở chớ lòng mang khoảnh-khắc,
Mua-bán đừng điêu-trác đong-đưa.
Mua đừng ráo-riết quá lừa,
Bán đừng bo-xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt-mắt của người kém cỏi,
Đừng đảo-điên có nói làm không.
Giàu-sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó-khăn chớ vật-nài oán-hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái-lai
Cầm cân, tạo-hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai ?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ-dàng nợ phải lay-nhay,
Đến đầu đũa quá, e cay-đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê-mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân-la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm-chăm chúi-chúi,
Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu-va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở,nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan-chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
Bát mâm tơi tả chiếu-chăn đầy giường,
Tuy khó rách, giữ-gìn thơm sạch,
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói-cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ-nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng-cấp hương trà tinh-khiết,
Theo lễ nghi khép nép, khoan-thai,
Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.

Với cha mẹ:

Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành-hanh bên ấy, bên này,
Cù-lao đội đức cao dày
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng-quở,
Muốn cho ta sáng-sủa hơn người,
Ân-cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng-vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
Người trên ta há giận ta sao !
Hoặc khi lầm-lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm-lạnh ta hầu coi-sóc,
Xem cháo-cơm, thang-thuốc mọi bề,
Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tuỳ ngơi.
Đừng điều tranh-cạnh chia bai,
Xấu trong làng nước, để cười mai sau.

Với chồng:

Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
Sách có chữ "nhập gia vấn húy",
Khi nói năng phải kỹ kiêng-khem,
Dịu-dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
Chồng nói ra nhiếc móc chê-khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ-tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở-dói ra nát cửa tan nhà,
Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu-mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu-sắc
Hay gặp người cờ bạc lưu-liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm
Dần-dà uốn mãi may mềm được chăng !
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân " làm lòng.
Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập-sã,
Tiếng kê-minh gióng-giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.

Với vợ lẽ:

In lấy chữ tao-khang chi nghị,
Đừng mang câu đố-kỵ chi thường.
Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái " xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
Lấy về hầu-hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai ?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
Ấm-no nên xót lấy người bơ vơ
Thế mới phải phép thờ phu-tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ "Tùy" rắn khúc nghi-gia.
Môn-đường thong-thả, một nhà vẻ-vang.

Chú thích:
há thiên lý nào: Thiên-lý tại nhân-tâm : lẽ phải ở lòng người.

Chớ nên đa quá, đa ngôn: Bởi câu tục-ngữ "đa ngôn đa quá" : năng nói năng lỗi.

Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì: Hai câu này ý nói sự ăn -vận không đài-điếm, một vừa hai phải là được chứ mớ nọ mớ kia, ngắn dài tha-thướt có ích gì.

Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu: Ý nói đàn-bà con gái như hạt mưa sa, cốt nhất là phải giữ-gìn trinh-tiết.

Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền: Bốn câu này là chỉ vào người biết giữ-gìn trinh-tiết.

Đông ra quốc-pháp, nhục vào gia-thanh: Quốc-pháp : Pháp-luật nhà nước; gia-thanh : danh-tiếng nhà mình. Bốn câu này trỏ vào hạng người lơ-lẳng.

Tiếp tân: Tiếp đãi khách-khứa bạn hữu. Tế lễ : tế thần hay thờ-cúng gia-tiên, ngày giỗ, ngày chạp v.v...

khoảnh-khắc:Chốc lát, không được lâu-bền.

Hết bĩ rồi tới buổi thái-lai: Bởi câu " bĩ cực thái lai".

tạo-hóa: tức là trời, nhưng khi nói tạo vật hay hóa công cũng thế.
Giàu ba họ, khó ba đời: Ý nói không ai khó lâu, giàu bền.

Đến đầu đũa quá, e cay-đắng nhiều: Ý nói công nợ nên dễ-dàng nhẹ-nhõm, không nên cay-nghiệt ráo-riết quá mà có khi xảy ra chuyện không hay.

hơi đồng: bởi chữ Đồng sú : hơi tiền, câu này cũng như câu " máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê " trong truyện Kiều.

Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm: Ý nói nếu dây-dưa chỉ tổ hỏng việc mà còn mang tiếng.

Tuy khó rách, giữ-gìn thơm sạch: Câu này cũng như câu tục-ngữ "đói cho sạch rách cho thơm ".

nữ công: sự làm lụng bằng chân tay khéo-léo của đàn-bà con-gái. Nữ-công là một trong bốn đức của bọn nữ lưu.

Thủa tại gia phải tòng phụ giáo: Bởi câu " tại gia tòng phụ " : một nết trong đạo tam tòng của nữ-lưu.

Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên: Bởi câu : phụ-nhận tòng nhất nhi chung : đàn-bà thỉ chung chỉ một chồng.

hương trà tinh-khiết: hương trà trong sạch.

Cù-lao: công khó-nhọc của cha mẹ, do câu : ai tai phụ mẫu, sinh ngã cù lao.
vô sự: không việc gì ; an-tâm : yên lòng .

Kiệm hay phong cũng liệu: Bởi câu " phong kiệm tùy nghi ".

nhập gia vấn húy: vào nhà nào phải hỏi tên húy nhà ấy.

tùy: theo, do chữ phu xướng phụ tùy.

tửu-sắc: trỏ người ham-mê rượu trà, trai gái.

lưu-liên: say đắm liên-miên.

văn nhân: người có văn-học, nho nhã, khác hẳn bọn vũ-phu.

tương kính như tân: kính nhau như khách.

kê-minh: gà gáy . Do câu " kê ký minh hỹ, kiều ký doanh hỹ " : gà đã gáy rồi, triều-đình đã đông người rồi, đó là lời của một bà hiền-phi khuyên nhà vua nên ra coi chầu cho sớm để các quan khỏi mong đợi. Sau người ta mượn chữ " kê-minh" để nói về vợ khuyên chồng.

tao-khang chi nghị: tình nghĩa tấm cám, nói về vợ chồng lúc còn hàn-vi.
đố-kỵ: Ghen-ghét.

Dây bìm cho tựa cành vàng: ý nói vợ lẽ nương-tựa nhờ chồng.

đường cái<: không hiểu nghĩa là gì. Phải chăng bởi chữ đại-cương ?

Trai làm nên lấy bảy lấy ba: Theo thế-hệ cũ thì thế !

Thêm hòe, nẩy quế có là con ai: Hòe : cây hòe, đời Tống, Vương Hựu trồng 3 cây hòe ở sân, sau có con là Vương Đán làm đến Tam-công, nên thường mượn chữ hòe để ví những con quí. Quế : cây quế. Đậu yên Sơn đời Tống, dạy 5 con trai đều thành đạt, người ta ví như 5 cành quế thơm-tho, nên cũng mượn chữ quế để ví những con giỏi.

phu-tử: tức người chồng, do câu cha mẹ dặn con khi về nhà chồng : " Tất kính tất giới, vô vi phu-tử " : phải kính phải giữ, chớ trái ý chồng.

nghi-gia: hợp với người nhà, do câu : nghi kỳ gia-nhân trong thơ Đào Yêu ( Kinh Thi ).


Với bạn-hữu của chồng :

Kìa những đứa mặt thường cau-có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo !
Hễ ngày bạn-hữu giao-du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
Tùy người thết đãi rượu-trà,
Nhớ rằng : Của gửi chồng ta đi đường !

Với chị-em:

Ấy là vẹn cương-thường bằng-hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi-ngọt chia đều như một,
Khi nắng-mưa Ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm-bọc bóng cây rườm-rà !
Đạo thúc-tẩu một nhà minh-bạch.
Lánh hiềm nghi tăm-tích rõ-ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.

Với trong họ ngoài làng:

Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
Xem như con yêu-dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn-vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ-mạc, láng-giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.

Với những khi sản-dục:

Ắy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư-xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,
Cùng ngày nguyệt-tín phải khuyên-dỗ chồng.
Khi thai-sản trong phòng gìn-giữ,
Học cổ-nhân huấn-tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam-sưa !
Từ xuất nhập, khởi cư, hành-động,
lễ-nghi nghiêm-trọng đoan trinh
Đứng ngồi chính đại quang-minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh-lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng,
Đừng ăn đồ cay-đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần.
Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng-khem trăm sự vuông tròn,
Trước mình yên dạ, sau con ít sài.

Với con-cái:

Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao-lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm-ấp quá, đừng suồng-sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước,
Yêu cho đòn bắt-chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút-nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
Lạ gì con có giống ai,
Phúc-đức tại mẫu là lời thế-gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi-rủa quá lời,
Hay chi thô-tục những người,
Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh-rẻ, thế tình mỉa-mai !
Ấy những thói ở đời ngông-dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên-răn.

Chú thích:

thúc-tẩu: Em chồng với chị dâu.

Vân Trường: Ông Quan Vân Trường (Quan Vũ) ta quen gọi đức Thánh Quan - bị Tào Tháo bắt giam chung với hai chị dâu trong một nhà kín, có ý để làm rối đạo luân thường. Người thắp đuốc sáng đứng hầu hai chị dâu suốt đêm cho đến sáng, để tỏ lòng chính trực quang-minh, ai cũng phải kính phục.

ba nước: tứ Tam-quốc, chuyện đó, về đời Tam-quốc bên Tàu : Ngụy, Thục, Ngô.

ngôn hạnh: Lời nói và nết ở, hai đức trong 4 đức của nữ-lưu : Dung công ngôn hạnh,

sóc, vọng, hối, huyền: Sóc: mồng một, vọng: ngày rằm, hối: ba mươi, huyền : thượng huyền (mồmg 8) và hạ huyền (22) hai ngày ấy trăng hình như vòng cung nên gọi là huyền. Đó là trong một tháng.

nguyệt-tín: nguyệt kỳ tháng nào cũng thế, nên gọi là nguyệt-tín, đây nói về kỳ hành kinh của bọn nử-lưu.

thai-sản: thai sản

huấn-tử: dạy con.

Dâm thanh: Tiếng dâm-đãng.

Ác ngôn: Lời nói nhảm nhí, phi lễ, không chính-đảng.

xuất nhập, khởi cư, hành-động,: Xuất nhập : ra vào ; khởi cư : đứng ngồi, lúc dậy lúc ở; Hành-động : cất-nhắc làm-lụng công-việc gì.

lễ-nghi nghiêm-trọng đoan trinh: có lễ-phép, nghiêm-trọng : nghiêm-nghị, trọng vọng, Đoan-trinh : ngay-thẳng, trinh bạch.

chính đại quang-minh: ngay-lớn, sáng-sủa.

Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn: Ngày xưa các cụ rất kính trọng thần Lửa, trước ngọn đèn và trong bếp giữ-gìn rất sạch-sẽ cẩn-thận.

cao-lương: món ăn ngon-lành béo tốt quí giá hơn những món ăn thường.

Phúc-đức tại mẫu: Phúc-đức ở người mẹ.

Với dâu rể:

Tuổi cả khôn, hôn-nhân trạch phối,
Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính-trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa-mai,
Với dâu, dạy-bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa !

Với tôi-tớ:

Gương giáo-tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì-gia đặt hẳn ân uy.
Bọt-bèo là phận nô-tỳ,
Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo-riết người ta.
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi.
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ-hàn hầu dễ có ai muốn gì.

Thờ-cúng:

Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
Đạo quỉ-thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải-kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh-kinh cảnh-tỉnh dị-kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam-mô-phật rù-rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín-nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian-ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa-thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
Phúc-đức đâu nghĩ lại mà coi.
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn-giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy-dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.

Bài thứ 2
Dạy con ở cho có đức.

Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền-vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi-tác già nua bần-hàn.
Thương người quan-quả, cô-đơn,
Thương người lỡ bước lầm-than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó-khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần-kiệm" gọi là làm duyên
May ra ở chốn bình-yên,
Còn người tàn-phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng; ngày đói tháng đông,
Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ-tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung,
Sống không, thác lại tay không có gì.
Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai-ương hoạn-nạn đều qua,
Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình-an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
Kìa người ăn-ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
Lọc-lừa từng tí, bon-chen từng đồng !
,Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn-thớt nghĩ rơi tiền-bạc ra.
Mặt lành khéo nói thực-thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi-mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này :
Cửa nhà tàn-phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân-gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thìthủy-hỏa gian-nan kia là !
Thấy người mà phải lo ta,
Sờ-sờ trước mắt thực là thương thgay,
Khuyên ai chớ bắt-chước rày,
Ở lòng nhân-nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy-bảo nỉ-non,
Trước sau ghi-chép khuyên con nghe lời.
Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.

Bài thứ 3
Dạy con-gái phải có đức-hạnh

Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,
. . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Phận bồ-liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo-huấn,
Lắng tai nghe cổ-truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm-nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha-thiết, không chiều lả-tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay-thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con-gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Đẫu ái-ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân-thân chi đạo,
Làm tôi-con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe-khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng-đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp-phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu-ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh-phụ là mình làm chủ,
Trong đại-hôn áo mũ thân nghênh,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức-phận phải chăm bề tần-tảo,
Trong khuê-khổn giữ-gìn khăn áo,
Trên từ-đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong-sạch.
Bằng nhường ấy thần-minh lai cách,
Câu "hữu trai " nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem-xét,
Siêng-năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe-khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
Siêng-năng thì chăm-chú việc ta.
Lũ nô-tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ-ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi-đòi thơ-dại,
Lời dạy rắng "giữ lửa chẳng chơi".
Cho hay đại phú bởi trời,
Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt-chiu mà dè-dặt mới nên,
Coi-sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân-bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử-tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì.
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì-gia đãi khách khác màu,
Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ-các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ-đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường
Kìa hiếu dưỡng Thành-Chu gia-pháp.
Tôn-tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.
Có chữ rằng: "đạo trọng thân thân",
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp-đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử-tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
Giục tiểu-hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn-bà,
Coi-sóc hỏi họ-hàng con-cháu.
Không bỏ sót là tình yêu-dấu,
Ai chẳng khen hiền-đức phụ-nhân,
Trọn đời đẹp mặt phu-nhân,
Vì chưng chủ-phụ thân-thân biết điều.
Bề phụng-dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ-hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều-hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu-quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ-giàng,
Điều ăn-uống phải hỏi-han tuỳ thích.
Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt-chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần-áo nên thay kẻo bẩn,
Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu-dàng,
Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn-trưởng thì lòng kính-nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương-lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
Có mang đội trình đòi nâng-đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết-na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu-chuộng, họ hòa kính chung.
Dạy những kẻ đàn-bà con-gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên-phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham-mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo .
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân-tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn-nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân-ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim-cải ,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong-vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
Phận là gái ít đường giao-hối ,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu-ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua-chát thay những tính cương-cường
Ai là đá ru mà chịu vậy !
Đường gia-pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo-hình đến phải ra tay,
Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn-khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt-chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn-bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu-ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
Bề họ-mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền-bạc là khôn,
Đường gia-tài khôn biết vén-vun,
Nghĩ tha-thướt áo-quần là khéo,
Gà eo-óc, phòng loan uốn-éo,
Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội-ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.

Chú thích:

hôn-nhân trạch phối: dựng vợ gả chồng, kén chọn lứa đôi cho con.

Xem tông xem giống: Tục-ngữ : " lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống".

giáo-tử: dạy con.

trì-gia: Coi việc nhà, sửa-trì việc trong nhà.

nô-tỳ: đứa ở, kẻ hầu-hạ.

Đạo quỉ-thần thì kính viễn chi: Bởi câu "quỉ thần kính nhi viễn chi" : đối với quỉ-thần nên thành kính mà nên xa chứ không nên gần.

Đã bói ra: Bởi câu tục ngữ " bói ra ma, quét nhà ra rác".

tà nào phạm chính: Bởi câu "tà bất cảm phạm chính".

tăng, ni: Tăng : sư nam; ni: sư nữ.

Thọ Dương: Tức Thọ Dương công-chúa, con gái Tống Vũ-đế, Thói Thọ Dương nghĩa bóng là thói trăng hoa lẳng-lơ.

quan-quả, cô-đơn: Quan: người góa vợ; quả: người góa chồng; cô: mồ côi cha mẹ; độc: già không con cái, 4 hạng đó là tứ cùng, tình-cảnh đáng thương, vì không nương-tựa vào đâu.

cần-kiệm: Cần : siêng-năng ; kiệm : dè-xẻn.

tháng đông: Tháng về mùa đông, mùa rét.

Ở thì phất giấy đan lồng: Ý nói cư-xử thì giả-dối chỉ có bề ngoài.

mở miệng như rồng như tiên: ý nói, nói-năng thì văn-hoa đẹp-đẽ.

Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy: Tục-ngữ :" mười voi không được một bát nước xáo ".

dịch ôn: Thần làm bệnh dịch-tả.

thủy-hỏa gian-nan: nước lụt hỏa-hoạn, lụt, cháy, nói về tai-biến vất-vả khó-khăn.

xuất giá hồi môn: Xuất giá : Ra lấy chồng. Hồi môn : Về nhà chồng,

bồ-liễu: Cỏ bồ, cành liễu là những loài thực-vật yếu-ớt, ví với đàn-bà con gái thuộc về phái yếu.

giáo-huấn: dạy bảo.

tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh: Tứ đức : Dung, công, ngôn, hạnh.

phàm trần: Cõi tục, khác hẳn cõi tiên.

tam cương: ba giường : vua tôi, cha con, chồng vợ.

quân-thân chi đạo: ý nói coi chồng như vua, như cha.

Làm tôi-con chỉ trung chỉ hiếu: Bởi câu " Vi nhân thần chỉ ư trung, vi nhân tử chỉ ư hiếu : Tôi con cốt phải trung, hiếu.

chỉ kính mới nên: Bởi câu "phu phụ chỉ ư kính" vợ chồng cốt ở kính nhau.

mệnh-phụ: người đàn bà có chức tước, vợ các quan to.

đại-hôn: một thiên trong kinh Lễ nói về việc lễ nghi cưới xin.

thân nghênh: lễ đón dâu

Lễ Kinh: một kinh trong 5 Kinh.

tần-tảo: Thứ rau dùng để cúng-tế.

khuê-khổn: Nơi buồng the của bạn nữ-lưu

từ-đường: nhà thờ gia-tiên.

thần-minh lai cách: Thần minh đến chứng giám.

hữu trai: Hữu trai quí nữ : Chữ trong Kinh Thi nói về người chủ-phụ tri-tịnh trong-sạch sửa-sọan cỗ bàn để thờ cúng.

nội trợ: Giúp việc bên trong, chỉ về phái nữ-lưu.

đại phú bởi trời: Đại phú do thiên : Giàu to bởi trời.

thu phát: Thu vào phát ra.

lân-bang: Xóm giềng, làng mạc,
thiên tải nhất thì: Nghìn năm mới có một lúc. Ý nói dịp hiếm có.

tùy cơ ứng biến: Tùy cơ-hội mà thay-đổi, đối-phó, ý nói không câu-nệ, phải sáng-suốt.

Phô loài bồ-các: Câu này tối nghĩa, chưa rõ bồ-các là thế nào ?

hiếu dưỡng Thành-Chu gia-pháp: Lấy hiếu nuôi cha mẹ là gia-pháp nhà Thành-Chu ( do ông Chu-công đặt ra )

Tôn-tộc đến những khi kỵ lạp: Tôn tộc : Họ hàng; Kỵ lạp : ngày giỗ, ngày chạp.

quí khách, gia tân: đều là khách quí.

lễ tất: Tế xong, lễ xong.

hiền-đức phụ-nhân: Người đàn bà hiền đức.

điều-hộ: Thầy thuốc coi bệnh, chữa bệnh.

phu-quân: Người chồng, đàn bà gọi chồng là phu-quân.
khôn đạo: Dạo quẻ khôn. Phụ-nữ theo về khôn đạo, do câu khôn vi mẫu, cũng như đàn ông theo về kiền-đạo, do câu kiền vi phu.

Khôn đức nhu: Đức khôn mềm-mại nhu-mỳ, đối với kiền đức cương : Đức kiền, cương quyết cứng rắn.

tôn-trưởng thì lòng kính-nhượng:Tôn-trưởng : bậc trên, kẻ đàn anh, Kính-nhượng : kính nhường.

hương-lân: Làng xóm.

phụ đạo: Đạo làm dâu.

kim-cải: do chữ " Châm năng thập giới": Cái kim ( có từ thạch ) nhặt được hạt cải. Duyên kim-cải nói bóng về sự hòa-hợp nhau.

phong-vân: gió mây. Trận phong-vân đây có lẽ cũng như lôi-đình : sấm-sét, cơn giận dữ.

giao-hối: dạy bảo.

cương-cường: cứng rắn, mạnh bạo.

gia-pháp: Phép nhà.

giáo-hình: Hình-phạt để dạy bảo.


Bài thứ 4
Vợ khuyên chồng

Vợ chồng ta tơ hồng vấn-vít,
Nhân-duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu-si,
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then-khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ-phụng tiền-nhân,
Sớm thăm tối viếng ân-cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh-doanh,
Dùi-mài kimh-sử tập-tành cung-tên.
Công-danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần-lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế-gian lắm kẻ điên mê,
Áo-quần lam-lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long-vân,
Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh-hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển-vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà !

Bài thú 5
Dạy học-trò ở cho phải đạo

Nào là những kẻ học-trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư-tưởng chớ khuây,
Hai công-đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao !
Trình vâng từ tốn ngọt-ngào,
Đi về thưa-thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay-đổi để dành hẳn-hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng-niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó-nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
Đến những khi nuôi-nấng giữ-giàn
Nặng-nề chín tháng cưu-mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp-ôm bú-mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây-thơ.
Bao giờ sài-ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ-ấu, u-ơ.
Ba năm nhũ-bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ-ngần nào ?
Chữ rằng "sinh ngã cù lao",
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo !
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi !
Song ta vốn đã hàn-vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can-qua.
Đòi khi kém đói thiết-tha,
Bán-buôn tần-tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh-vác nhọc-nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình-dung ăn mặc lôi thôi,
Áo thời xốc-xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian-nan đòi đoạn ngặt-nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế-gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
Bây giờ loạn-lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn-chương,
Có bên nghĩa-lý, có đường hiển-vinh .
Loạn rồi lại có khi bình,
Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say-sưa kinh-sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi-dầu.
Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông-pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,
Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam-nhi,
Giúp Lưu trót đã lục-kỳ nên công.
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy-vùng bõ khi.
Ấy là thủa trước nam-nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào ?
Chữ rằng: " loạn độc thư cao",
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển-vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
Bõ khi nghèo khổ chua-cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian-truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực-thước, ngoài dân quyền-hành.
Một triều là một thanh danh,
Bởi chưng có chí học-hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền-quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm-tho mùi xạ ngạt-ngào mùi hương.
Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh-thơi,
Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng-bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh-đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công-đường.
Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn-nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
Hầu non: con mới, tiểu-đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập-dìu !
Giàu-sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh-ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công-danh có chí thì nên.

Bài thứ 6
Khuyên học-trò phải chăm học

Trước cửa Khổng cung tường chín-chắn.
Bước lên đường vào cửa ung-dung,
Trăm quan, tôn-miếu, lạ-lùng,
Học-hành cho biết thỉ-chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông-minh,
Tính-tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh-hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu-niên,
Hiếu-kinh tiểu-học trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung-dung, Đại-học,
Tứ-thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân-thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách-gia, Chư-tử,
Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn-phòng,
Bút-nghiên, giấy-mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh-nghĩa cùng bài văn-sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn-chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học-trò giữ chính tâm làm trước, Với tu, tề, bình, trị đều yên,
Cương-thường giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo-đức, gia-đình phải giảng,
Phủ thiên-quân quang-đãng tinh-vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so-sánh bài.
Khắp triều-đình trong ngoài lớn nhỏ,
Những là người áo-mũ đai-cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu-mô giẹp loạn, kinh-luân mở nền
Pho kinh-sử làu chuyên nghề học,
Chốn thư-đường từng đọc hôm mai,
Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn-nho sĩ-tử,
Dẫu khó-khăn kinh-sử càng chuyên,
Làm nên trọng chức cao quyền,
Trong ngoài ai chẳng ngợi-khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tô-sinh,
Để cho dễ thức học-hành canh khuya.
Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom-đóm bạn cùng thư-trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
Lý-sinh chẳng quản công-phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
Làm trai chí-khí hiên-ngang,
Chớ rằng nguy-khổ trễ-tràng làm chi !
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,
Việc đọc thơ sớm đủ tinh-thông
Lão Tuyền tuổi cả gia công,
Hai-mươi-bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,
Đỗ Thần-đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,
Tám-mươi-hai tuổi đỗ khoa đại đình
Đường vân-trình dù sau dù trước,
Chữ công-danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
Thấy ta nghèo ra sự rẻ-khinh,
Thư-trung lắm kẻ hiển-vinh,
Dập-dìu hầu-hạ, linh-đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
Thư-trung Kim ngọc vô vàn,
Đầy khè chung-đỉnh, chứa-chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đả hẳn rằng tốt-đẹp hơn ai ?
Thư-trung có gái tuyệt vời,
Những người mặt ngọc là người vẻ-vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy giọc,
Khinh nhau rằng hàn-ốc thê-lương.
Thư-trung tuấn vũ điêu tường.
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
Ai có chí đêm ngày luyện-tập,
Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,
Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.

= HET=


Chú thích:

Sớm thăm tối viếng: Bởi chữ : " thần tỉnh hôn định ", đạo làm con đối với cha mẹ.

trần-lụy: Lúc còn lam-lũ hàn-vi, bận-bịu vì gió bụi.

Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm: Ý nói sắc dục quá độ thì hại thận mà rượu uống nhiều quá thì hại tim, nên phải giữ-gìn tửu sắc,

long-vân: Hội rồng mây, gặp-gỡ may-mắn.

Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh-hùng:Ý nói đàn-bà con gái là phái hèn yếu, trông-cậy cả ở bọn nam-nhi là bậc anh-hùng.

thai dựng: Mang thai, có chửa.

nhũ-bộ: Bú-mớm.

sinh ngã cù lao: do câu : "ai tai phụ mẫu sinh ngã cù lao " : thương thay cha mẹ ta, sinh ra ta khó nhọc.

hàn-vi: Đói rét, nghèo hèn. Lúc chưa gặp thì còn hàn-vi vất-vả.

can-qua: Giáo mác, lúc loạn-lạc.

Mãi Thần: Chu Mãi Thần người đời Hán, quê ở Cối-kê, nhà nghèo chăm học, vừa đi hái củi vừa đọc sách, vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến Thái-thú, khi đi cung chúc, gặp vợ cũ cùng với chồng phải làm phu đi dọn đường đón quan. Vợ xin tái hợp, Mãi Thần bảo nếu đổ bát nước xuống đất mà bốc lại đầy bát được thì cũng bằng lòng. Vợ biết có ý đoạn-tuyệt, bè tự-tử.

Trần Bình: Người đời Hán, quê ở Dương-vũ, nhà nghèo chăm học, sau về giúp Hán Cao-tổ, diệt được Hạng Vũ, có công được phong hầu.

lục-kỳ nên công: Lục-kỳ do chữ " lục xuất kỳ kế " : 6 lần bày mưu lạ. Trong khi Trần Bình giúp Hán đáng Sở.

loạn độc thư cao: Bởi chữ " Loạn thế độc thư cao " : Đời loạn đọc sách là cao hơn cả.

Trồng dưa thì lại được dưa: Bởi câu " Chủng qua đắc qua ".

Sơn hào hải vị: Những món ăn thức nhắm ở rừng và ở bể. Các món ăn quí.

chén quỳnh: do chữ quỳnh tương : rượu quí

nội thất, truyền sênh công-đường: nội thất : nhà trong, nhà riêng ; Công-đường : dinh công.

cửa Khổng: do chữ Khổng-môn : Cửa đức thánh Khổng.

Trăm quan, tôn-miếu, lạ-lùng: Tử Cống và Tử Trương đều là học-trò đức Khổng-tử, Tử Cống bảo Tử Trương : Tử này ( Tử Cống tự xưng tên) đâu dám bì với đức phu-tử ( tức Khổng phu-tử ), chỉ vì bức tường của nhà tử cao ngang vai, nên ai cũng trông thấy đồ vật trong nhà, còn tường của đức phu-tử thì cao hàng mấy đợt, không mấy người biết những đồ vật bầy-biện đầy đủ và tôn miếu đẹp đẽ ở bên trong.

Phú cho tai mắt thông-minh: Bởi câu " Nhĩ mục thông-minh nam-tử thân, hằng quân phú dữ bất vi bần : Tai mắt sáng-suốt là thân người con trai, trời phú bẩm cho chẳng phải hèn-kém.

Khai tâm: Vỡ lòng ; Thiếu-niên : trẻ tuổi.

Hiếu-kinh tiểu-học: Sách dạy học trò nhỏ.

Trung-dung, Đại-học: Hai bộ trong tứ thư.

Tứ-thư rồi lại đọc ngũ Kinh: Bốn bộ sách : Đại-học, Trung-dung, Luận-ngữ, Mạnh-tử ; Ngũ kinh : năm bộ kinh : Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân-thu.

Bách-gia, Chư-tử: Các nhà học-giả đời Chu, Tần Hán như Lão, Trang, Quản, Thương, Thân, Hàn, Mặc, Liệt, mỗi nhà một lý-thuyết, đều làm thành sách để lưu-truyền.

pho sử: Đây là Bắc sử, ngày xưa ta toàn học chữ Tàu còn sử bản-quốc chỉ lưu tại bộ, ít khi ban hành.

kinh-nghĩa cùng bài văn-sách: Một lối văn-chương dùng làm bài thích nghĩa kinh truyện, do đời Đường Tống đặt ra, Đến Nguyên, Minh, Thanh biến làm lối 8 vế và cả bên ta cũng dùng để ra bài thi lấy học trò đỗ đạt về hồi còn khoa cử chữ nho, cũng có tên là văn bát cổ. Văn-sách : Cũng là một lối văn hỏi về những nghĩa-lý cổ kim, dùng để thi cử.

phú, thơ: Đều là lối văn-chương có vần có điệu-luật, ngày nay vẫn còn dùng, một lối văn vần theo lối Tàu.

chính tâm: Giữ lòng cho ngay thẳng.

tu, tề, bình, trị: Tu : tu thân : sửa mình; Tề : tề gia : cai-quản việc gia-đình cho tề chỉnh đâu ra đấy ; Bình : bình thiên-hạ : cho thiên-hạ điược hòa bình ; Trị : trị quốc : cả nước được thịnh.

Cương-thường: Cương : ba mối giường : vua tôi, cha con, vợ chồng. Thường : ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín .

Phủ thiên-quân: Con tim ở giữa, cai-quản ngũ-quan, tựa một ông vua của hình-thể người ta, nên quen gọi tim (tâm) là thiên-quân, "Phủ Thiên-quân" đây cũng như nói cõi lòng.

dưỡng đức, ngoài thì tu thân: Nuôi đức ; tu thân : sửa mình.

tứ dân: 4 hạng dân : sĩ, nông, công, cổ : học-trò, làm ruộng, làm thợ, đi buôn.

Toán, y, lý, số: bói toán, làm thuốc, làm địa lý, xem số.

Mưu-mô giẹp loạn, kinh-luân mở nền: Mưu-mô : Mưu-chước . Kinh-luân : thủ-đoạn xếp đặt công cuộc lớn.

kinh-sử: Kinh-sử tượng-trưng về sách-vở việc học.

thư-đường: nhà học, nhà xem sách.

Đạo trời nào phụ những người độc thư: Bởi câu " Hoàng thiên bất phụ độc thư nhân " : trời không phụ những người đọc sách.

văn-nho sĩ-tử: Học-trò văn-nho.

Ôn Thư: Lộ ôn Thư người đời Hán, quê ở Cự-lộc, nhà rất nghèo, thủa nhỏ đi chăn dê, lấy cỏ bồ biên chữ làm sách để học. Đời Hán Tuyên-đế, dâng thư nói về việc chính trị, khuyên vua nên chuộng việc nhân-đức, hoãn sự hình-phạt, được thăng đến chức Thái-thú.

Chàng Hoằng: Công tôn Hoằng : người đời Hán, nhà nghèo chăm học, không có tiền mua sách, thường phải chép vào mảnh tre để đọc. Đời Hán Vũ-đế, đối sách đỗ đầu, được bổ Bác-sĩ, rồi thăng đến Thừa-tướng và được phong tước Hầu.

Tô Tần: người đời Chiến-quốc, quê Lạc-đường, lúc còn đi học đêm đọc sách, sợ buồn ngủ, để mũi dùi dưới vế đùi, hễ ngủ gật thì dùi đâm lại dậy học, sau đi du thuyết, làm tướng 6 nước chư-hầu.

Tóc treo giường ấy, Tô-sinh: Tôn Kinh: người đời Hán, rất chăm học, thường đóng cửa đọc sách, đêm ngủ sợ quên, là một cái thòng lọng bằng dây buộc trên sà nhà dòng xuống trước mặt hễ ngủ gật đầu chui vào tròng, thì lại tỉnh ra. Thơ Lý-Thương-Ẩn: " Huyền đầu tằng khổ học, triết-lý phân thành y " : Treo đầu từng chăm học, đứt tay mới hay thuốc.

Tôn Khang: người đời Tấn, quê ở Kinh-triệu, nhà nghèo ham học, không có dầu, đêm phải hé ra ánh mưa tuyết chịu rét mà đọc sách.

Trác Dận: người đời Tấn, học rộng biết nhiều, nhà nghèo không tiền mua dầu, về mùa hè, thường bắt đom đóm bỏ vào túi vải thưa soi cho sáng để xem sách. Lý Trung có gửi thơ cho Lưu Minh Phủ rằng: " Tam thập niên tiền cộng khổ tâm, nang huỳnh tằng kỷ thử yên sầm " : ba mươi năm trước cùng khổ tâm, túi đom đóm từng soi cảnh tối tăm.

Lý-sinh: Lý Mật : người đời Tùy, quê ở Tương-binh, tính ham học, nhiều mưu-kế, thường cỡi trâu đi chơi núi, ngồi trên mình trâu đọc sách. Lúc nhà Tùy loạn, giúp con Dương Tố là Dương Huyền mưu tranh thiên hạ, nhưng bị Vương thế Sung đánh bại, phải về hàng nhà Đường, làm quan Quan-lộc-khanh.

chí-khí hiên-ngang: Chí-khí cao rộng.

Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám: Tam tự kinh: " Oanh bát tuế năng vịnh thi" : Cậu Oánh mới lên tám tuổi đã biết vịnh thơ.

Lão Tuyền: Tô lão Tuyền tức Tô Tuân người My-sơn đời nhà Tống 27 tuổi mới phẫn chí đi học, thông hiểu các học thuyết lục kinh, bách gia, viết văn rất cổ kính. Âu dương Tu cùng Hán Kỳ tâu vua Tống, được cử làm Hiếu-thư-lang. Hai con trai là Tô Thức hiệu Đông Pha và Tô Triệu hiệu Đĩnh Tần đều đỗ Tiến-sĩ đời Tống có tiếng là bậc văn-hào.

Đường Lưu Án: Tam tự kinh : " Đường Lưu Án, phương thất tuế, cử thần đồng, tác chính tự " : Lưu Án nhà Đường mới lên bảy tuổi, đỗ khoa Thần-đồng, làm quan Chính-tự.

Ông Lương đã đến tuổi già: Tam tự kinh : " Nhược Lượng Hựu, bát thập nhị, đối đại đình, khôi đa sĩ " : như ông Lương Hựu, 82 tuổi vào thi ở sân nhà vua, đỗ đầu các học trò.

vân-trình: Đường mây, ý nói tiền đồ rộng rãi bằng-phẳng, cũng như nói " thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì.

Dập-dìu hầu-hạ, linh-đình ngựa xe: Câu này do câu " Xuất môn mặc hận vô nhân tuỳ, thư-trung xa mã đa như thốc " : ra cửa đừng sợ không có người hầu, trong sách xe ngựa nhiều như mũi tên.

Đầy khè chung-đỉnh: Do câu : " thư trung tự hiểu thiên chung túc" : trong sách khắc có ngàn hộp thóc.

Những người mặt ngọc: Do câu : " thư trung hữu nữ nhân như ngọc" : trong sách có gái đẹp mặt như ngọc.

hàn-ốc thê-lương: nhà nghèo vắng-vẻ, lạnh lẽo.

Thư-trung tuấn vũ điêu tường: Trong sách có nhà cao tường vẽ.

hy thánh hy hiền: mong như thánh, mong như hiền.

lâm tẩu: nơi rừng núi rậm rạp, rừng-rú.

thời danh: nổi tiếng lúc bấy giờ.

Xe loan có thủa cung doanh có ngày: Câu này ý nói sẽ có ngày ngựa nọ xe kia, nhà này dinh khác, nghĩa là phong-lưu phú-quí.


No comments:

Post a Comment