Tuesday, November 24, 2015

Nhị thập tứ hiếu

Tôi dùng quyển "Nhị thập tứ hiếu" của nhà xuất-bản Tân-Việt (sáng lập năm 1937), tại 20 Amiral Courbet, Sai-gòn. Sách này do Chu-Lang Cao-Huy-Giu đính-chính và chú-thích. Theo như nhà xuất-bản thì sách được in theo giấy phép số 134/T.X.B bộ Thông-tin Nam-Việt).
Tiểu-sử cụ Lý Văn Phức


Cụ Lý văn Phức tự là Lân Chi, hiệu là Khắc Trai, người làng Hồ-khẩu, hiệu Vĩnh-Thuận, tỉnh Hà-nội ngày xưa, thuộc Đại-lý Hoàn-long, ngoại thành Hà-nội.
Cụ là bậc túc nho, văn-học uyên-bác, đỗ cử-nhân khoa kỷ-mão triều Gia-long thứ 18 (1819) , làm quan luôn ba triều : Minh-mệnh, Thiệu-trị và Tự-đức
Khoảng năm Tân-sửu, Thiệu-trị nguyên niên (1841), sung chức chánh-sứ sang Tàu và nhiều lần được cử đi phái-bộ các nước lân-cận với nước ta. Mỗi lần đi đâu về, cụ đều có soạn thành bút ký hay thi-tập.
Năm Canh-dần, Minh-mệnh thứ 11 (1830), đi phái bộ Tiểu tây Dương, cụ soạn tập "Tây hành kiến văn lục hay Kỷ-lược.
Hai năm Quý-tỵ và Giáp-ngọ, Minh-mệnh thứ 14, 15 đi phái-bộ Tân-gia-Ba (Singapour); Lữ-tống (Lucon) Quảng-đông, cụ soạn 2 tập "Việt-hành ngâm hoặc Thi-thảo" và "Việt-hành tục ngâm". Khi đi Á0-môn (Macao), cụ soạn tập "Kinh hải tục ngâm"
Ngoài ra cụ còn có mấy bộ bằng quốc âm: "Phụ châm tiện lãm", "Tự thuật ký", "Bất phong lưu truyện", "Sứ trình tiện lãm khúc" và bản "Nhị-thập-tứ hiếu" này.

Lược truyện 24 hiếu-tử

1.- Ngu Thuấn

Vua Thuấn họ Diêu, tên hiệu là Thuấn, quốc hiệu là Đại-Ngu, cha là Cổ Tẩu, (có mắt cũng như mù, vì không biết kẻ hay người dở, người đời bấy giờ mới tặng cho tên là Cổ Tẩu ), mẹ đẻ mất sớm, mẹ kế là người ương gàn, em (cùng cha khác mẹ) là Tượng tính lại hỗn-xược, cha và mẹ kế cùng em ngày ngày chỉ kiếm cách để giết ngài đi; nhưng ngài vẫn một lòng trên hiếu với cha mẹ, dưới hòa cùng em, lòng hiếu cảm động đến trời, như khi cha ngài bắt ngài cày ruộng một mình ở núi Lịch-sơn, thì voi về cày ruộng, chim về nhặt cỏ. Khi sai ngài dánh cá ở hồ Lôi-trạch thì gió lặng sóng yên .Vua Nghiêu nghe tiếng, gọi gả 2 con gái cho ngài và truyền ngôi cho ngài. Khi ngài làm vua, trong 18 năm chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam-phong mà thiên-hạ rất thái-bình thịnh-trị .
Thơ
Đội đội canh điền tượng,
Phân phân vân thảo cầm.
Phụ Nghiêu đăng báo vị,
Hiếu cảm-động thiên-tâm.
Giải nghĩa đen
Hàng đàn voi về cày ruộng,
Hàng bày chim đến nhặt cỏ
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Lòng hiếu-thảo động đến trời.
Dịch nôm
Voi về cày ruộng hàng bày,
Chim về nhặt cỏ hàng ngàn không ngơi.
Giúp vua Nghiêu, nối ngôi trời,
Cho hay hiếu cảm-động vời cao xanh.
2.- Văn-đế

Vua Văn-đế nhà Hán, tên là Hằng, con thứ vua Hán Cao-tổ, em vua Huệ-đế, mẹ là Bạc-hậu (vợ lẽ vua Hán Cao-tổ), trước phong là Đại-vương, tức là thân-vương ở đất Đại bên ngoài, tính rất hiếu, sau Huệ-đế chết không có con nối nghiệp, các quan trong triều đón ngài về làm vua. Khi ngái đã làm vua rồi, Bạc-hậu bị ốm trong 3 năm trời, ngài lúc nào cũng đóng mũ-áo đai-cân đứng hầu mẹ, thức suốt đêm không dám ngủ, thuốc thang dâng đến, ngài tự nếm trước rồi mới dâng cho mẹ xơi, vì sợ có thuốc độc. Dân-gian thấy ngài hiếu-thảo như thế, ai cũng bắt-chước, mọi người đều hiếu-thảo cả, thiên-hạ rất thịnh-trị, không kém gì đời tam-đại ( nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu ) ngày xưa.
Thơ
Nhân-hiếu lâm thiên-hạ,
Nguy nguy quán bách vương,
Hán-dình sự hiền-mẫu,
Thang được tất tiên thường.
Giải nghĩa đen
Lấy đạo nhân-hiếu dạy-bảo thiên-hạ,
Công cao hơn cả trăm vua khác,
Phụng-dưỡng mẹ hiền ở công-dình nhà Hán,
Thuốc-thang phải tự nếm trước.
Dịch nôm
Đem lòng nhân-hiếu dạy dân,
So trăm vua khác có phần lại hơn,
Khi hầu mẹ ốm thuốc-thang,
Tự mình nếm trước, dưới màn mới dâng
3.- Tăng-tử

Tăng-tử tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ấp Vũ-thành nước Lỗ, sinh vào thời Xuân-thu, là học-trò vào bậc giỏi của đức Khổng-tử, sau được liệt vào bậc tứ-phối (bốn ông phối hưởng với đức Khổng-tử). Ông thờ cha mẹ rất hiếu, bữa ăn nào cũng có rượu thịt. Khi cha mẹ ăn xong, còn thừa lại món ăn, ông hỏi cha mẹ bảo để cho ai, thì ông vâng theo lời mà cho người ấy. Một hôm ông đi vào rừng kiếm củi vắng, ở nhà có khách đến chơi, mẹ ông không biết làm thế nào cho ông về ngay, bèn cắn ngón tay mình, để cho động lòng con, quả-nhiên ông ở trong rừng thấy quặn đau trong dạ, ông vội gánh củi về ngay.
Thơ
Mẫu chỉ tài phương khiết,
Nhi tâm thống bất căm,
Phụ tận quy vị vãn,
Cốt-nhục chí tình thâm.
Giải nghĩa đen
Mẹ vừa cắn ngón tay,
Con thấy đau trong dạ,
Vội vàng đội củi về,
Tình cốt-nhục cảm-ứng chóng như thế.
Dịch nôm
Mong con vừa cắn ngón tay,
Trong rừng con bỗng dạ này quặn đau.
Vội-vàng đội củi về mau,
Cho hay cốt-nhục tình sâu lạ nhường.
4.- Mẫn Tử-Khiên

Tên chữ là Tổn, sinh vào đời Xuân-thu, học-trò đức Khổng-tử, mẹ ông mất sớm, cha ông lấy người vợ sau (tức là mẹ kế) sinh được 2 con. Mẹ kế đối với ông rất cay nghiệt, nhưng ông vẫ thờ cha và thờ mẹ kế rất hiếu . Mùa rét, mẹ kế cho hai con mình mặc áo bông dày, cho ông mặc áo bằng hoa lau, chứ không có bông. Ông tuy thấy không đủ ấm, nhưng kgông hề nói gì. Một hôm ông đẩy xe cho cha đi chơi, vì rét quá cóng tay, rời tay xe ra. Cha ông suy-xét mãi mới biết là ông bị mẹ kế để cho mặc rét, cha ông tức lắm định đuổi ngay người vợ kế đi, ông khóc và cố kêu van với cha, xin đừng đuổi mẹ kế, vì rằng: có mẹ kế thì chỉ một mình ông bị rét thôi, nếu đuổi mẹ kế đi thì cả ba anh em ông cùng phải khổ-sở cả. Cha ông nghe lời ông không bỏ người vợ kế nữa. Người mẹ kế nghe biết chuyện, về sau đối-đãi với ông rất tốt, thành ra một người mẹ hiền.
Thơ
Mẫn thị hữu hiền lang,
Hà tằng óan vãn nương,
Đường tiền lưu mẫu tại,
Tam tử miễ phong sương.
Giải nghĩa đen
Nhà họ Mẫn có người con hiền,
Không bao giờ oán-trách mẹ sau,
Trước mặt bố xin cho mẹ sau ở lại,
Để ba con khỏi phải khổ sở.
Dịch nôm
Tử-Khiên hiếu-thảo tình sâu,
Không hề oán trách mẹ sau nồng-nàn.
Xin cha chớ dứt dây loan,
Cho con khỏi phải cơ-hàn cả ba.
5.- Tử Lộ

Tử Lộ tên là Trọng Do, người ấp Biện, nước Lỗ, sinh vào đời Xuân-thu, là học-trò đức Khổng-tử. Thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, thường phải đi đội gạo đường xa trăm dặm về nuôi cha mẹ; bữa ăn không có thức ăn, phải ra vườn hái rau dền rau muống về nấu canh cho cha mẹ ăn. Sau cha mẹ ông chết cả, ông mới đi sang nước Sở, được vua nước Sở dùng, cho làm quan sang, bổng-lộc nhiều. Nghĩ đến công cha mẹ, ông lấy làm đau tủi, muốn lại được đi đội gạo và nấu canh rau để phụng-dưỡng cha mẹ, thì không được nữa.
Thơ
Phụ mễ cung cam chỉ,
Ninh từ bách lý lao,
Thân hoàn thân dĩ một,
Do niệm cựu cù-lao.
Giải nghĩa đen
Đội gạo để cung-cấp cha mẹ miếng ngọt miếng bùi,
Không nề-hà đường xa trăm dặm,
Đến lúc được sung-sướng thì cha mẹ chết rồi,
Vẫn nhớ đến công khó nhọc của cha mẹ.
Dịch nôm
Dốc lòng phụng-dưỡng mẹ cha,
Đường đi đội gạo dù xa cũng gần.
Đến khi nhẹ bước thanh-vân,
Muốn mong báo-đáp, hai thân đâu còn ?
6.- Diễm tử

Diễm tử sinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ rất hiếu; cha mẹ tuổi già, mắt lòa, thèm uống sữa hươu, Diễm tử lấy da hươu khô là áo mặc, giả làm hươu con, vào rừng lân-la đến gần những con hươu mẹ để vắt lấy sữa. Một hôm gặp bọn người đi săn, tưởng là hươu con, dương cung toan bắn, Diễm tử vội bỏ lốt hươu con ra và bày-tỏ cho người đi săn biết, người ấy mới thôi không bắn nữa.
Thơ
Thân lão tư lộc nhũ,
Thân phi lộc bì y,
Nhược bất cao thanh ngữ,
Sơn trung đới tiến quy.
Giải nghĩa đen
Cha mẹ già thèm uống sữa hươu,
Mình mặc áo da hươu,
Nếu không vội kêu to lên,
Thì bị trúng phải tên bắn ở trong núi.
Dịch nôm
Sữa hươu tuổi-tác ước-ao,
Da hươu đội lốt lần vào rừng xanh.
Gặp người nếu chẳng kêu nhanh,
Ắt là gặp sự chẳng lành xảy ra.
7.- Lão Lai-tử
Lão Lai-tử người nước Sở, sinh vào đời Xuân-thu, đã 70 tuổi hãy còn cha mẹ > Ông thờ cha mẹ rất hiếu. Không muốn để cho cha mẹ thấy ông đã già mà lo-buồn, ông thường mặc áo sặc-sỡ, nhởn-nhơ múa hát trước mặt cha mẹ, lại có khi ông bưng nước hầu cha mẹ, ông giả cách ngã, rồi khóc oa oa, làm như đứa trẻ lên 7 lên 3 vậy. Ý ông là cốt để làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui-vẻ trong lòng.
Thơ
Hý vũ học kiều sy,
Xuân phong động thái y,
Song thân khai khẩu tiếu,
Hỷ sắc mã đình-vi.
Giải nghĩa đen
Chơi đùa như thể trẻ em,
Gió xuân lay động áo hoa sặc-sỡ,
Hai cha mẹ cùng mở miệng cười,
Cảnh vui đầy cả cửa nhà.
Dịch nôm
Chơi đùa học lối trẻ-thơ,
Thấp cao điệu múa, phất-phơ áo mùi,
Hai thân cùng nở nụ cười
Gió xuân đầm-ấm, cảnh vui đầy nhà.
8.- Đổng Vĩnh

Đổng Vĩnh sinh vào đời Hậu-Hán, nhà nghèo, tính rất hiếu, cha chết không có tiền chôn cất, phải đến một nhà giàu ở làng khác, vay tiền công dệt non, hẹn sau sẽ dệt trả 300 tấm lụa. Khi vay được tiền về chôn cất cha xong rồi, định đi đến nhà giàu đẻ dệt trả lụa, đi được nửa đường, thì gặp một người con gái xin kết làm vợ chồng, nhưng giao hẹn hãy cùng đi đến nhà giàu kia dệt lụa trả nợ đã, rồi mới về ăn-ở cùng nhau. Khi đã dệt đủ 300 tấm lụa, trả nợ xong rồi, hai người cùng về, đến chỗ gặp nhau khi trước, thì người con gái ấy biến mất . Vì Đổng Vĩnh có lòng hiếu-thảo cảm động đến trời. nên Trời sai tiên-nữ xuống giúp.
Thơ
Táng phụ thải khổng phương,
Tiên-cô lộ thượng phùng,
Chức khiêm thường trái chủ,
Hiếu cảm-động phương-khung .
Giải nghĩa đen
Vay tiền để chôn cất cha,
Giữa đường gặp nàng tiên,
Dệt lụa trả chủ nợ,
Lòng hiếu cảm-động đến trời.
Dịch nôm
Vay tiền lo-liệu tang cha,
Giũa đường gặp ả tiên-nga giúp cùng,
Dệt lụa đủ, trả nợ xong,
Cho hay hiếu-thảo động lòng trời xanh .
9.- Quách Cự

Quách Cự sinh vào đời nhà Hán, cửa nhà sa-sút, thờ mẹ rất hiếu. Hai vợ chồng mới sinh được một đứa con lên 3 tuổi, ông thường thấy bữa ăn mẹ ông không dám ăn no, cứ bớt lại để phần cho con mình ăn, vợ chồng bàn nhau rằng : vợ chồng mình đương-thì sinh-đẻ, mẹ già chỉ có một lần, đã chẳng phụng-dưỡng mẹ được sung-túc, lại để cho con mình xẻ ngọt chia bùi của mẹ, thì không phải đạo .Bèn bàn nhau đào hố đem chôn đứa con đi; vợ cũng nghe theo lời ông. Khi đào hố mới được đâu độ 3 thước, thì thấy có một hũ vàng, trên có chữ đề là; "hiếu-tử Quách Cự, hoàng kim nhất hũ, dụng dĩ tứ nhữ " Nghia là; "người con hiếu là Quách Cự, một hũ vàng đây để cho mày ". Hai vợ chồng lại đem con về.
Thơ
Quách Cự tư cung cấp,
Mai nhi nguyện mẫu tồn.
Hoàng kim thiên sở tứ,
Quang thái chiếu hàn-môn.
Giải nghĩa đen
Quách Cự chỉ nghĩ việc phụng-dưỡng mẹ,
Chôn con đi mong cho mẹ sống,
Trời cho được hũ vàng.
Đương nghèo được nên giàu có.
Dịch nôm
Nhà nghèo hiếu-thảo dốc lòng,
Chôn con nuôi mẹ vợ chồng bàn nhau.
Hũ vàng dành dưới hố sâu,
Trời cho phút chốc nên giàu lạ thay.
10.- Khương Thi

Khương Thi sinh vào đời nhà Hán, vợ là Bàng-thị; hai vợ chồng đều hiếu-thảo cả. Mẹ chồng muốn uống nước sông, Bàng thị hàng ngày đi gánh nước ở sông xa về. Trời rét, mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ chồng cố đi tìm kiếm cho được đủ thứ đem về. Lại sợ mẹ có một mình buồn, thường thường mời các bà già ở hàng xóm sang chơi với mẹ cho vui. Sau tự nhiên ở bên cạnh nhà có suối nước ngọt chảy ra, đúng như vị nước sông và ở suối ấy hàng ngày lại có hai con cá chép, đủ dùng là gỏi ghém. Từ đấy vợ chồng không phải đi quảy nước sông và đi kiếm cá nữa.
Thơ
Á trắc cam-tuyền xuất,
Thất triêu song lý-ngư,
Tử năng tri sự mẫu,
Phụ cánh hiếu ư cô.
Giải nghĩa đen
Bên nhà có suối nước ngọt chảy ra,
Mỗi ngày có hai con cá chép,
Con trai đã biết đạo thờ mẹ,
Nàng dâu lại hiếu với mẹ chồng.
Dịch nôm
Bỗng đâu suối chảy bên nhà,
Ngày đôi cá chép nhảy ra lệ thường.
Chồng mà lấy hiếu làm cương,
Ắt là vợ phải noi gương theo chồng.
11.- Thái Thuận

Thái-Thuận sinh vào đời nhà Hán, nhà nghèo, mồ côi cha từ thủa bé, thờ mẹ rất có hiếu. Bị năm loạn lạc kém đói, phải đi vào rừng tìm kiếm những quả dâu chín đem về ăn cho đỡ đói. Tìm được quả nào chín đem để ra một bên. Gặp người tướng giặc Xích-my đi qua, trông thấy hỏi: "Vì cớ gì để làm hai nơi như thế ?" Ông trả lời: "Quả nào chín đen thì ngọt, để riêng để biếu mẹ tôi, còn quả nào đỏ thì chua, để riêng tôi ăn." Người tương giặc khen là có hiếu, bèn truyền quân lấy ra một thúng gạo và một cái đùi trâu để tặng ông.
Thơ
Hắc thầm phụng huyên vy,
Đề cơ lệ mãn y,
Xích-My tri hiếu thuận,
Đẩu mễ tặng quân quy.
Giải nghĩa đen
Quả dâu chín đen để biếu mẹ,
Bụng đói nước mắt chảy thấm cả áo.
Giặc Xích-my biết là người có hiếu,
Tặng cho thúng gạo mang về.
Dịch nôm
Quả dâu đen, dành mẹ xơi,
Lòng cam chịu đói, lệ rơi thấm bào,
Xích-my giặc ấy cũng hào,
Tặng cho gạo trắng một bao đem về.
12.- Đinh Lan

Đinh Lan sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ lúc bé, đến khi lớn lên, nhớ ơn cha mẹ thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để phụng-thờ, ngày thì dâng hai bữa cơm, tối thì sửa-soạn chăn-gối, hầu-hạ chăm nom như lúc cha mẹ còn sống vậy .Phụng-thờ như thế hằng mấy mươi năm, sau người vợ ông sinh ra nản lòng, có một hôm người vợ lấy kim châm vào kẽ tay tượng gỗ, tức thì có máu tươi chảy ra. Đến bữa cơm, ông bưng cơm vào cúng, thấy tượng gỗ rớm-rớm nước mắt, ông xét kỹ mới biết là vì vợ ông châm kim vào tay tượng gỗ, ông tức thì đuổi bỏ ngay người vợ ấy đi.
Thơ
Khắc mộc vi phụ mẫu,
Hình dưng tại nhật thần,
Ký ngôn chư tứ điệt,
Các yếu hiếu song thân.
Giải nghĩa đen
Tạc gỗ làm tượng cha mẹ,
Thờ-phượng giống như lúc còn sống.
Nhắn bảo các con cháu,
Ai ai cũng nên hiếu với cha mẹ cả.
Dịch nôm
Tạc hình cha mẹ như y,
Đem ngày thờ-phụng tựa khi sinh thời,
Nhắn khuyên con trẻ mấy lời,
Làm con phải hiếu, ai ơi ghi lòng .
13.- Lục Tích

Lục Tích sinh vào đời Đông-Hán, mới lên 6 tuổi, đã biết hiếu-thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu-giang với Viên Thuật; Thuật làm tiệc thết đãi. Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy giấu 2 quả bỏ vào tay áo, khi ra về cúi chào Viên Thuật không may quít ở trong tay áo rơi ra, Thuật nói đùa: "Sao lấy quít giấu như thế ? Tích trả lời: "Vì mẹ tôi thích ăn quít, nhân thấy quít ngon, giấu đi vài quả đem về biếu mẹ tôi". Thuật khen là người có hiếu.
Thơ
Hiếu đễ giai thiên tính,
Nhân-gian lục tuế nhi,
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.
Giải nhĩa đen
Lòng hiếu đễ do trời phú tính cho,
Đứa trẻ con lên 6 tuổi trong thế gian này,
Giấu quít vào trong tay áo,
Đem về biếu mẹ cũng đáng lấy làm lạ.
Dịch nôm
Cho hay phú giữ thiên chân,
Lên sáu tuổi, biết hiếu thân mới kỳ,
Quít ngon mấy quả giấu đi,
Đem về biếu mẹ, những thì ước-ao.
14.- Giang Cách

Giang Cách sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, gặp buổi loạn-lạc, cõng mẹ đi lánh nạn, giữa đường gặp bọn giặc toan bắt ông đi, Ông khóc van với giặc nói là ông còn mẹ già, chỉ có 2 mẹ con nương-tựa nhau, nay bị bắt đi, thì không có ai nuôi mẹ già. Bọn giặc nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi nữa, Ông cõng mẹ chạy về Hạ-bì, rồi ông cố sức làm thuê làm mướn, cũng nuôi mẹ được no đủ qua cơn loạn-lạc.
Thơ
Phụ mẫu đào nguy gian,
Trung đồ tặc phạm tần,
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.
Giải nghĩa đen
Cõng mẹ đi tránh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn luôn,
Kêu van đều được tha,
Cố sức làm thuê để nuôi mẹ.
Dịch nôm
Tránh nàn cõng mẹ gian-truân,
Giũa đường gặp giặc toan phần bắt đi,
Giãi tình van lạy nằn-nì,
Thoát vòng loạn-lạc, tới khi yên-lành.
15.- Hoàng Hương
Hoàng Hương sinh vào đời Đông-Hán, năm lên chín tuổi mẹ chết, thương khóc thảm-thiết, trong làng ai cũng khen là người có hiếu. Ở với cha, sớm khuya hầu-hạ, không lúc nào rời, mùa đông thì nằm ủ vào chăn-chiếu của cha để lấy hơi nóng của mình vào chăn-chiếu cho cha khỏi lạnh, mùa hè thì lấy quạt quạt màn gối của cha cho hết hơi nóng, vì thế cha lúc nào cũng được vui-vẻ, quanh năm không biết có mùa đông mùa hè. Quan thái-thú quận ấy thấy Hương là người hiếu-thảo, làm sớ tâu lên vua Hán ban cho Hương tấm biển chữ vàng là người con hiếu-hạnh.
Thơ
Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương,
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương.
Giải nghĩa đen
Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối,
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Nghìn xưa chỉ có một Hoàng Hương mà thôi.
Dịch nôm
Đông thì ủ ấm chiếu-chăn,
Hè thì quạt mát mọi phần nồng-oi,
Trẻ thơ đã biết hiếu rồi,
Nghìn thu chỉ có một người không hai.
16.- Vương Thôi

Vương Thôi người nước Ngụy (đời Tam-quốc) cha ông làm quan triều Ngụy, sau Tây-Tấn diệt Ngụy, thống nhất thiên-hạ, cha ông bị Tây-Tấn giết hại, ông thương xót quá, phục ở bên mộ mà khóc mãi, đến nỗi nước mắt của ông chảy ra thấm xuống gốc cây trắc bên mồ tươi lại. Cả đời ông không bao giờ ngồi ngảnh mặt về hướng tây (vì Tây-Tấn ở về phương tây ), để tỏ ý ông không làm tôi nhà Tây-Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, nên khi mẹ ông chết rồi, hễ khi nào mưa có sấm, ông lại ra áp mồ và khấn rằng: " có con ở đây rồi", để cho vong hồn mẹ khỏi sợ. Ông là người tài giỏi, vua nhà Tây-Tấn thường mời ra làm quan, ông nhất định không chịu ra, ở nhà mở trường dạy học, mỗi khi ông giảng sách cho học-trò, đến thiên Lục-nga trong Kinh Thi có câu rằng : phụ hề sinh ngã thì ông lại thương cha chảy nước mắt khóc. Vì thế, học-trò cũng cảm-động, bỏ thiên Lục-Nga không dám đọc đến nữa,
Thơ
Từ mẫu phạ văn lôi,
Băng hồn túc dạ đài,
Át hương thời nhất chấn,
Đáo mộ nhiễu thiên hồi,
Giải nghĩa đen
Mẹ hiền sợ nghe sấm
Hồn thơm nằm dưới suối vàng,
Khi thấy có tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ di quanh nghìn lần.
Dịch nôm
Mẹ xưa tính sợ sấm vang,
Hồn thơm ở dưuới suối vàng những lo.
Mỗi khi mưa gió sấm to,
Thân ra ấp mộ quanh-co nghìn vàng
17.- Ngô Mãnh

Ngô Mãnh sinh vào đời nhà Tấn, lên 8 tuổi, thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt không ngủ được, ông cởi trần nằm cho muỗi đốt, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ chăng ?
Thơ
Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy,
Tứ cừ bão cao huyết,
Miễn sử nhập thân vi.
Giải nghĩa đen
Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua,
Cho nó đốt no máu của mình,
Để nó khỏi đến chỗ cha mẹ nằm.
Dịch nôm
Đêm hè lắm muỗi không màn,
Tha hồ muỗi đến hàng đàn vo ve,
Trần mình cho muỗi no-nê,
Hai thân được ổn giấc hòe là hơn.
18.- Vương Tường

Vương Tường sinh vào đời nhà Tấn, mẹ chết sớm, ở với cha, bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xui-giục, làm cho cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn dốc lòng hiếu-thảo với cha và mẹ kế. Mùa đông nước đóng váng, mẹ kế muốn ăn cá tươi, ông cởi trần nằm trên váng nước, để tìm cá, bỗng tự nhiên váng nước nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông đem về cho mẹ kế xơi. Thấy ông hiếu-thảo như thế, sau cha và mẹ kế ông cảm-động, lại yêu-quý ông lắm.
Thơ
Kế mẫu nhân-gian hữu
Vương Tường thiên-hạ vô,
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô.
Giải nghĩa đen
Mẹ kế thì nhân-gian thường có.
Hiếu như Vương Tường thì thiên-hạ không có ai,
Đến bây giờ ở trên sông
Chả có ai nằm trần mình trên váng nước cả.
Dịch nôm
Nhân-gian mẹ kế là thường,
Lòng con hiếu tựa Vương Tường có đâu !
Gẫm xem từ đấy về sau,
Nằm trên váng nước sâu mấy người.
19.- Dương Hương

Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, tính rất hiếu, cha đi đâu cũng theo đi hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy sổ đến định vồ cha ông, ông tay không, quyết xông vào dánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự cả.
Thơ
Thâm sơn phùng bạch ngạch,
Nỗ lực bác tinh phong,
Phụ tử câu vô dang,
Thoát ly hổ khẩu trung.
Giải nghĩa đen
Chốn rừng sâu gặp con hổ trắng má,
Cố sức đánh đuổi giống hôi-tanh,
Cha con đều vô sự cả,
Khỏi được tai-nạn bị hổ ăn thịt.
Dịch nôm
Giữa rừng gặp cọp tay không,
Dù rằng thú dữ quyết xông đánh liền,
Cha con đều được bình-yên,
Miệng hầm đã thoát đoàn viên cùng về.
20.- Mạnh Tông

Mạnh Tông người ở Giang-hạ, về đời Tam-quốc, mồ côi cha, ở với mẹ, tính rất hiếu. Một hôm mẹ bị ốm, thèm ăn canh măng, nhưng vì khi ấy đương mùa đông, khó tìm được măng, ông lần vào rừng tre, một mình ngồi khóc, bỗng chốc có mấy giò măng mọc ở dưới đất lên, ông đem về nấu canh cho mẹ xơi, rồi mẹ khỏi ốm.
Thơ
Lệ khấp sóc phong hàn,
Tiêu tiêu trúc sổ can,
Tu du đông duẩn xuất,
Thiên ý báo bình an,
Giải nghĩa đen
Ngồi khóc trong khi gió bấc rét nặng.
Lèo tèo có mấy cây tre,
Phút chốc măng mùa đông mọc ra.
Ý trời cho mẹ được khỏi bệnh.
Dịch nôm
Mùa đông gió bấc lạnh lùng,
Một mình sùi-sụt trong vùng rừng tre,
Bỗng đâu măng mọc đem về,
Mẹ xơi, bệnh đã mọi bề tiêu-tan
21.- Sưu Kim Lâu

Kim Lâu người nước Tề, tính rất hiếu, được bổ làm thái-thú ở quận Bình-lăng, đến nhận chức chưa dược 10 hôm, bỗng tự nhiên thấy tâm thần bàng-hoàng, bồ hôi chảy ra như tắm, ông biết là ở nhà có việc chẳng lành, bèn từ chức về quê ; khi về đến nhàthì cha bị ốm đã 2 ngày, ông thấy thầy thuốc nói rằng: "những người ốm mà phân đắng thì dễ chữa, không dáng lo ngại, người nào ốm mà phân ngọt, ông lấu làm lo-ngại, cứ đêm đêm 3 lần đốt hương hướng về sao Bắc-đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha. Sau nằm thấy có người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: "sắc trời cho bình-an". Ngày hôm sau cha ông được qua khỏi.
Thơ
Đào huyện vị tuần nhật,
Xuân-đình tao tật thâm,
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm.
Giải nghĩa đen
Làm quan đến nhậm chức chưa được 10 ngày,
Cha ở nhà bị đau nặng.
Xin lấy mình chết thay cho cha,
Nếm phân sinh lòng lo-ngại.
Dịch nôm
Tới huyện nha, chưa bao lâu,
Xuân-đường thoát bị bệnh đau ở nhà,
Khấn trời xin chết thay cha,
Nếm phân thấy ngọt biết là bệnh nguy.
22.- Thôi phụ Đường-thị

Đường-thị là vợ một nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất hiếu, mẹ chồng tuổi già răng móm, không nhai được cơm . Đương-thị cứ hàng ngày tắm-rửa sạch-sẽ, rồi đến cho mẹ chồng bú; hằng mấy năm mẹ chồng không phải ăn cơm mà cũng no Cảm ơn ấy mẹ chồng không biết lấy gì đáp lại, khi mẹ chồng sắp chết, có khấn nguyện với trời xin cho con cháu dâu nhà họ Thôi ngày sau, ai ai cũng được hiếu-thảo như Đường-thị cả. Rồi sau các con-cháu dâu nhà họ Thôi bắt chước nhau người nào cũng hiếu-thuận. Vì thế, nhà họ Thôi được hưng-thịnh.
Thơ
Hiếu báo Thôi gia phụ,
Nhũ cơ thân quán sơ,
Thử ân vô dĩ báo,
Nguyện đắc tử tôn như.
Giải nghĩa đen
Vợ họ Thôi ở có hiếu với mẹ chồng.
Hành ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú,
Ơn ấy mẹ chồng không lấy gì báo lại,
Khấn trời mong cho con cháu dâu của Đường-thị lại hiếu-thảo với Đường-thị.
Dịch nôm
Dâu họ Thôi hiếu-thảo thay,
Cho mẹ chồng bú, hằng ngày tắm lau,
Giả ơn khấn nghuyện về sau,
Dâu nào cũng hiếu như dâu họ Đường .
23.- Chu Thọ Xương

Chu thọ Xương sinh vào đời nhà họ Tống, ông là con vợ thứ, năm ông lên 7 tuổi, thì mẹ đích ông đuổi mẹ ông đi, sau ông được làm quan, nghĩ đến công mẹ đẻ khó nhọc, nay mình được sung-sướng,
để mẹ đẻ lưu-lạc trong lòng không đang. Ông quyết từ quan đi tìm mẹ đẻ.Trước khi đi, ông có thề rằng: "nếu không tìm thấy mẹ, thì chết cũng đành". Sau ngẫu nhiên đi đến Đồng-châu thì mẹ con gặp nhau. Mẹ con xa cách nhau đã 50 năm nay lại được gặp nhau, rất là vui-vẻ, ông bèn đem mẹ về phụng-dưỡng.
Thơ
Thất tuế sinh ly mẫu,
Sâm Thương ngũ thập niên,
Nhất triêu tương kiến diện,
Hỷ khí đông Hoàng Thiên.
Giải nghĩa đen
Lên 7 tuổi bị lìa xa mẹ đẻ,
Như sao hôm sao mai đã 50 năm trời,
Một sớm được thấy mặt nhau,
Vui-mừng cảm-động đến trời.
Dịch nôm
Mẹ con chia rẽ đôi nơi,
Sâm Thương xa cách năm-mươi năm tròn,
Bỗng đâu mẹ lại gặp con,
Mừng này ai biết hãy còn hôm nay.
24.- Hoàng Đình Kiên

Hoàng đình Kiên sinh vào đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái-sử (quan coi việc chép sử) thờ cha mẹ rất hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy-tớ hầu-hạ nhưng các đồ của cha mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù dơ-bẩn đến đâu, ông cũng tự tay rửa lấy, không sai người nhà lau rửa bao giờ cả.
Thơ
Quý hiển văn thiên-hạ,
Bình sinh hiếu sự thân,
Thân thân địch niệu khí,
Bất dụng hoán gia-nhân.
Giải nghĩa đen
Giàu-sang thiên-hạ ai cũng biết tiếng,
Ngày thường thờ cha mẹ rất hiếu,
Chính tay mình rửa đồ để đại tiểu tiện của cha mẹ,
Không sai người nhà làm việc ấy bao giờ cả.
Dịch nôm
Dù mình chức trọng quyền cao,
Tấm lòng hiếu-thảo khi nào dám sai,
Đồ thân dùng dẫu bẩn hôi,
Tay rửa lấy, chẳng sai ai bao giờ.
Nhị thập tứ hiếu

1- Khai-mào

Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha mẹ sinh-thành,
Gương treo đất nghĩa trời kinh ,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên ,
Chẳng xem thuở trước thánh-hiền,
Thảo hai-mươi-bốn, thơm nghìn muôn thu.

2- Vua Đại Thuấn nhà Ngu

Đức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn >
Buổi tiềm long gặp vận hàn-vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ-vi
Cha là Cổ Tẩu người thì ương-ương.
Mẹ ghẻ lại tính càng khe-khắt
Em Tượng thêm rất mực kiêu-ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba
Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em.
Trăm cay-đắng, một niềm ngon-ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối, kêu mai,
Xui lòng ghen-ghét hóa vui dần dần.
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,
Vật vô tri cũng mến nọ người,
Mấy phen non Lịch pha-phôi,
Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh Trung-dung trao chánh nhường ngôi,
Cầm-thi, xiêm áo thảnh-thơi
Một nhà đầm-ấm, muôn đời ngợi-khen.

3- Vua Văn- đế nhà Hán.

Kìa Văn-đế vua hiền Hán-đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi Phiên-vương
Quên mình chức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc-hậu lễ thường chẳng sai.
Đến khi nối ngôi trời trị nước,
Vẫn lòng này săng-sắc như xưa,
Mẹ khi ngại gió kinh mưa,
Ba năm hầu-hạ, thường như một ngày.
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ,
Áo luôn mình dám sổ đai lưng,
Thuốc thang mắt xét, tay nâng,
Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn,
Tiếng nhân-hiếu đồn vang thiên-hạ,
Thói thuần-lương hóa cả lê-nguyên.
Hai mươi năm lẻ kiền-khôn,
Đả sau Tam-Đại, hãy còn Thành, Khang.
Ấy hay vị đế-vương đời trước,
Chữ hiếu đành đá tạc vàng in,
Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền,
Đến xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.

4- Tăng-tử đời nhà Chu

Đời Chu-mạt có thầy Tăng-tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,
Bữa thường rượu thịt ngon-lành
Cho ai, vâng cứ đinh-ninh chẳng rời >
Nhà bần-bạc thường vui hái củi,
Quãng mù xanh thui-thủi non sâu,
Mẹ ngồi tựa bóng cửa sau,
Nhân khi khách đến, trông mau con về.
Rối trong dạ nhân khi cùng-túng,
Cắn ngón tay cho động lòng con,
Trông non bỗng chốc bồn-chồn,
Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân,
Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi,
Lắng bên tai nghe giãi nguồn cơn,
Cho hay từ, hiếu, tương-quan,
Non Đồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông.

5- Mẫn Tử-khiên nhà Chu

Thầy Mẫn-tử rất đường hiếu-nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh-quẽ đã lâu,
Thờ cha sớm viếng, khuya hầu
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng-nàn,
Trời đương tiết đông-hàn lạnh-lẽo,
Hai em thời
kép áo dày bông,
Chẳng thương chút phận long-đong,
Hoa lau nỡ để lạnh-lùng một thân.
Khi cha dạo theo chân xe đẩy,
Rét căm-căm nên xảy rời tay,
Cha nhìn ngẫm-nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt giây xướng tuỳ,
Gạt nước mắt, chân quì miệng gửi :
"Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn,
"Mẹ còn chịu một thân đơn
"Mẹ đi, luống để cơ-hàn cả ba."
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi,
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa.
Cho hay
hiếu cảm nên từ,
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai ?

Chú thích:
Người tai mắt: Làm người phải tai nghe tinh, mắt trông sáng.

Gương treo đất nghĩa trời kinh: Bởi câu : Hiếu gỉa thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã ở sách Hiếu-kính nghĩa là : hiếu là đạo thường của trời, lẽ phải của đất.

trăm nết đều nên: Bởi câu : Hiếu vi bách hạnh chi tiên : hiếi là đầu trăm nết. Và câu : Nhất hiếu lập nhi vạn thiên tông : đã biết hiếu thì muôn điều hay bởi đấy mà ra.

Thảo: tức là hiếu.

muôn thu: Mùa thu tức là năm. Muôn thu : muôn năm.

vua Thuấn: Tên là Thuấn, làm vua nhà Đại-Ngu bên Tàu ngày xưa

tiềm long: Bởi chữ Tiềm-long trong quẻ Kiền. Kinh Dịch : con rồng còn ẩn nấp dưới vực, ý nói chưa gặp thời.

Tuổi xanh:lúc còn ít tuổi, tuổi còn xanh.

từ-vi: Từ là lành , hiền ; vi là cái màn che trong nhà nói bóng là bà mẹ . Câu này nói bóng là mẹ chết sớm.

Cổ Tẩu: Cổ Tẩu : mù lòa, vì cha sinh ra vua Thuấn không biết kẻ hay người dở, có mắt cũng như mù, cho nên người đời bấy giờ tặng cho cái tên là Cổ Tẩu.
Mẹ ghẻ: tức là mẹ kế

khe-khắt: Ác nghiệt.

Em Tượng: Em cùng cha khác mẹ với vua Thuấn.

thuận cả vừa ba: Cha, mẹ và em là ba người.

Xót tình khóc tối, kêu mai: Bởi câu chữ Hán trong sách Mạnh-tử : Thuấn vãng vu điền, hào khắp vu mân thiên : vua Thuấn mỗi khi ra cày ruộng, lại kêu khóc với trời, cầu cho cha mẹ kế đổi tâm lại.

Xui lòng ghen-ghét hóa vui dần dần: Lòng cha và mẹ kế ghét vua Thuấn, thì dần dần cũng hồi tâm lại.

non Lịch: núi Lịch-sơn

Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày: Bởi câu chữ Hán : Tượng canh điểu vân : voi cày ruộng chim nhặt cỏ, ý nói lòng hiếu cảm cả đến loài chim muông là loài vô tri-thức.

hữu: là hoà-thuận và yêu-dấu em.

bệ thánh: Chỗ vua ngồi, đến tai vua Nghiêu biết là người hiếu hữu.
Trưng-dụng: gọi ra mà dùng, trao chính-quyền cho

xiêm áo thảnh-thơi: Bở câu : Thuỳ thường nhi thiên-hạ tri : mặc áo xiêm ngồi dấy mà thiên hạ thịnh trị.

Hán-đại: đời nhà Hán

Phiên-vương: một chức vua Chư-hầu. Văn-đế trước được anh là Huệ-đế phong làm vương ở đất Đại nên gọi là Phiên-vương

Bạc-hậu: mẹ đẻ vua VVăn-đế, là vợ thứ của vua Hán cao-tổ

lễ thường chẳng sai: tức là Thần định hôn tỉnh : sáng viếng tối thăm, lễ thường của đạo làm con.

ngại gió kinh mưa: Ốm đau

Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ: thức cả đêm không dám ngủ

Áo luôn mình dám sổ đai lưng: Cứ đóng mũ áo đai cân đứng hầu mẹ ốm không dám cởi áo bỏ đai

Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn: người đưa thuốc đến thì Văn-đế phải nếm trước xem có thuốc độc không đã, r62i mới dám dâng hầu mẹ uống. Theo đúng câu " thân ẩm dược tử tiên thường chi"
nhân-hiếu: Nhân : có lòng nhân-từ đối với nhân-dân. Hiếu : có lòng hiếu với mẹ.

thuần-lương: thuần-hậu, lương-thiện

lê-nguyên: dân đen, dân-chúng, ý nói các dân chúng trong thiên-hạ lúc bấy giờ ai cũng hóa ra thuần hậu lương thiện cả

kiền-khôn: Kiền : trời , Khôn : đất, ý nói vua Văn-đế ở ngôi hơn 20 năm

Tam-Đại: tức nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu

Thành, Khang: Thành là vua Thành-vươnfg , Khang là vua Khang-vương nhà Chu , hai ông này làm vua trong nước được thịnh-trị cả. Ý nói nhà Hán vào sau nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu, mà vua Văn-đế làm vua thiên-hạ được thịnh-trị như đời vua Thành vương và Khang vương ngày trước

Chữ hiếu đành đá tạc vàng in: Lòng hiếu của vua Thuấn và vua Văn-đế đáng làm gương làm bia cho mọi người

sĩ, thứ, đấng hiền: Sĩ người làm quan . Thứ người dân thường, Hiền các bậc hiền triết

Chu-mạt: đời cuối nhà Chu.

chí thành: rất thành thực
Cho ai, vâng cứ đinh-ninh chẳng rời: Bữa cơm cha mẹ ăn xong, còn thừa món ăn gì, ông Tăng-tử hỏi cha mẹ địng để cho ai, thì cứ tuân theo ý của cha mẹ mà đem cho người ấy.

bần-bạc: nghèo túng

Quãng mù xanh: chỗ rừng xa tít mù xanh

Mẹ ngồi tựa bóng cửa sau: bởi câu : ỷ tư nhi vọng trong truyện Vương tôn giả : tựa cửa mà mong : khi nào con đi vắng, thì mẹ ngồi tựa cửa mong con về

Rối trong dạ nhân khi cùng-túng: Vì con đi kiếm củi rừng xa vắng, mà có khách đến chơi, không biết làm thế nào cho con về ngay được.

Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân: Vội vàng đi mau về nhà

từ, hiếu, tương-quan: lòng nhân-từ của mẹ và lòng hiếu-thảo của con có liên-quan với nhau

Non Đồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông: Bởi câu : Đồng sơn tây khuynh, Lạc chung đồng ứng : núi Đồng ở phương tây bị đổ thì cái chuông ở đất Lạc-dương về phương đông tự-nhiên có tiếng vang theo ; ví với tình mẹ (núi Đồng) con (cái chuông) có liên quan cảm-ứng với nhau, như Tăng-tử ở trong rừng, ở nhà mẹ cắn ngón tay, mà Tăng-tử thấy đau ruột.

nhà huyên: tức là huyên đường . Huyên tức là vong ưu thảo là cỏ quên lo, hay là nghi nam thảo là cỏ đẻ con trai. Ngày xưa chỗ đằng sau buồng người mẹ ở hay trồng cỏ huyên, để cho quên sự lo buồn và hay đẻ con trai, cho nên sau này thường lấy cỏ huyên để nói bóng là mệ.

quạnh-quẽ: đây ý nói mẹ đẻ ra Mẫn-tử chết đã lâu.
sớm viếng, khuya hầu: bởi câu : thần định hôn tỉnh

mẹ sau nồng-nàn: mẹ sau tức là mẹ kế (người vợ kế của cha) nồng -nàn : cay nghiệt.

đông-hàn lạnh-lẽo: đông hàn : mùa đông rét

kép áo: mặc nhiều áo.

Hoa lau: lấy hoa lau cho vào trong áo giả làm bông.

một thân: một mình Mẫn-tử

dạo: đi dạo chơi

theo chân xe đẩy: đẩy xe cho cha.

Nghiến răng rắp : ý nói là tức lắm

cắt đứt giây xướng tuỳ</: bởi câu phu xướng phụ tùy : chồng xướng xuất ra việc gì, vợ tuân theo mà làm, tức là đạo vợ chồng, đây ý nói là người cha tức lắm muốn bỏ người vợ kế ấy đi
gửi: tức là thưa.

Mẹ còn chịu một thân đơn: mẫu tại nhất tử hàn

Mẹ đi, luống để cơ-hàn cả ba: m64u khứ tam tử đan (lời Mẫn-tử xin với cha)

Mẹ nghe lời : biết chuyện như thế

hiếu cảm nên từ: lòng hiếu của Mẫn-tử làm cho cảm động người mẹ kế cay-nghiệt hóa ra nhân từ.

Thấm lâu như đá cũng rừ: trơ như đá mà nước chảy mãi cũng phải mòn đi.

6- Tử Lộ nước Lỗ

Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ,
Thờ hai thân từng bữa canh lê,
Thường khi đội gạo đi về,
Xa-xôi trăm dặm, nặng-nề hai vai.
Đỉnh Hoa-biễu từ khơi bóng hạc,
Gót nam-du nhẹ bước tang-bồng,
Xe trăm cỗ, thóc muôn chung,
Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao.
Thân phú-quí ngắm vào thêm tủi,
Đức cù-lao chạnh tới càng đau,
Nào khi đội gạo, canh rau,
Muốn còn như cũ, dễ hầu được ru !
Lòng thắc-mắc nghìn thu vẫn để,
Biết bao giờ cam-chỉ đền công<
Cho hay dạ hiếu khôn cùng,
Dẫu Tam-Công chẳng đổi lòng Thần-hôn.

7- Diễm-Tử

Chu, Diễm-tử làm con rất thảo,
Chiều hai thân tuổi lão niên cao,
Mắt trần khuất nguyệt mờ sao,
Sữa hươu người những ước-ao từng ngày.
Vật khó kiếm khôn hay thường dõi,
Phải lo phương tìm-tõi cho ra,
Hươu khô tìm lột lấy da,
Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo.
Chốn non thẳm tìm vào bầy-lứa,
Sẽ dần-dà lấy sữa nuôi thân,
Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
Rắp buông cung bắn khôn phân vật người.
Đem tâm-sự tới nơi bày tỏ,
Chút hiếu tình nghe rõ cũng thôi,
Cho hay chung một tính trời,
Mảnh son cũng động được người vũ-phu.

8- Lão Lai-tử

Lão Lai-tử đời Chu, cao-sĩ,
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi,
Tuổi già đã đúng bảy mươi,
Nói-năng chẳng chút hở môi rằng già.
Khi thong-thả mẹ cha ngồi trước,
Ghé gần vào bắt-chước trẻ thơ,
Thấp cao điệu múa nhởn-nhơ,
Xênh-xoang mão áo, bạc phơ mái đầu.
Chốn đường thượng khi hầu bưng nước
Giả làm điều ngã trước thềm hoa,
Khóc lên mấy tiếng oa oa
Tưởng chừng lên bảy lên ba thưở nào.
Trên tuổi-tác trông vào vui-vẻ,
Áng đình-vi gió thụy mưa xuân
Cho hay nhân tử sự thân,
Trong trăm năm được mấy lần ngày vui.

9- Đồng Vĩnh đời Hậu-Hán

Đời Hậu-Hán có ngươi Đồng Vĩnh,
Nhà rất nghèo mà tính rất thành,
Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh,
Phụ tang để đó, nhân-tình còn chi!
Liều thân để làm thuê công việc,
Miễn cầu cho thể-phách được yên.
Cực người thay ! nhẽ đồng tiền,
Đem thân hiếu-tử, băng miền phú-gia.
Bỗng gặp kẻ đàn-bà đâu đó,
Xin kết làm phu-phụ cùng đi,
Lụa ba trăm tấm dệt thuê,
Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau.
Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến,
tiên-cô trời khiến giúp công,
Mới hay trời vốn ở lòng,
Há rằng cao thẳm nghìn trùng mà xa.

10- Quách Cự nhà Hán

Hán, Quách Cự cửa nhà sa-sút,
Thờ mẫu-thân chăm-chút mọi bề,
Con còn ba tuổi biết gì,
Bữa ăn từ-mẫu thường thì bớt cho.
Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói,
Với hiền-thê than nỗi khúc-nôi:
"Mẹ già đã chẳng hay nuôi,
"Để con xẻ ngọt, chia bùi sao đang?
"Vợ chồng ta còn phen sinh đẻ,
"Mẹ già rồi, hồ dễ được hai ".
Nói thôi giọt ngắn giọt dài,
Đào ba thước đất để vùi tình thâm.
May đâu thấy hoàng-câm một hũ,
Chữ "trời cho" đề rõ rành rành,
Cho hay trời khéo ngọc thành,
Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con.

Chú thích:

hai thân: Hai cha mẹ

canh lê: nấu canh bằng rau lê, như rau dền rau muống chẳng hạn, ý nói cảnh nhà nghèo.

đội gạo đi về: bởi câu : Vị thân phụ mễ ư bách lý chi ngoại : vì bố mẹ phải đi đội gạo ở đường xa trăm dặm.

Hoa-biễu: cái cột đá ở mả . Đinh lệnh Uy ngày xưa chết đi, hồn hóa làm con chim hạc, thường đêm bay về đậu ở cái cột đá trên mả

từ khơi bóng hạc: Bởi câu : Hạc khứ lâu không : Chim hạc bay đi rồi, có người bạn đến thăm đề vào vách bốn chữ " hạc khứ lâu không" nên sau này thường dùng chữ "hạc" để nói là người chết.

Gót nam-du: Đi du thuyết miền Nam, Ông Tử Lộ làm quan nước Sở, vì Sở ở về phương Nam.

tang-bồng: tang : cây dâu để làm cung, Bồng để làm tên bắn ; cung tên là công nghiệp củanam nhi,cho nên nói về chí khí của nam-nhi thường dùng chữ tang-bồng.

Xe trăm cỗ: bởi chữ thiên tứ : nghìn cỗ xe, tức là quan to.

thóc muôn chung: bởi chữ lộc vạn chung : ăn lương muôn thùng thóc, tức là lương nhiều.

chồng đệm ghép: xe ngồi trải 2 cái đệm

vạc cao: bởi chữ đỉnh thực : nấu món ăn bằng vạc. Những nhà quyền-quí ngày xưa, thổi cơm hay nấu món ăn toàn bằng vạc cả.

Thân phú-quí ngắm vào thêm tủi: nghĩ lúc mình phú-quí thì cha mẹ không còn, lấy làm tủi-cực lắm.

cù-lao: công cha mẹ khó nhọc.

cam-chỉ: Cam : ngọt. chỉ : miếng ngon : tức là miếng ngọt miếng bùi

Dẫu Tam-Công chẳng đổi lòng Thần-hôn: bởi câu : nhất nhật dưỡng bất dĩ tam công hòan- :được nuôi cha mẹ một ngày còn hơn làm quan đến chức tam công. Thần-hôn là buổi sáng buổi chiều thăm nom cha mẹ.

hai thân: chỉ cha và mẹ

niên cao: tuổi già, nhiều tuổi

Mắt trần khuất nguyệt mờ sao: tuổi già mắt loà không trông thấy gì

Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo: để lẫn lộn với đàn hươu con khác.

dần-dà lấy sữa nuôi thân: để dần dà vắt lấy sữa đem về nuôi cha mẹ.

khôn phân vật người: người đi săn không phân biệt được là nggười hay hươu con

Mảnh son: bởi chữ : nhất phiến đan tâm : một mảnh lòng son.

vũ-phu: người võ biền

cao-sĩ: người tài giỏi, cao đạo

hai thân: cha mẹ

Ghé gần vào bắt-chước trẻ thơ: ghé gần vào cha mẹ làm nũng-nịu như là trẻ con

Xênh-xoang mão áo, bạc phơ mái đầu: Ông Lão Lai đầu đã bạc phơ, mặc áo đỏ lòe, rồi múa-men ở trước mặt cha mẹ

đường thượng: trên thềm, nơi cha mẹ ngồi.

Trên tuổi-tác: tức cha mẹ

đình-vi: Đình : sân - vi : cái màn che - cái màn che trong nhà tức là gia đình.

gió thụy mưa xuân: gió thụy : tức là tướng phong : gió mát mẻ, Mưa xuân, tức là xuân vũ : mưa êm ái.

nhân tử sự thân:đạo làm con đối với cha mẹ

trăm năm: cả đời người

Hậu-Hán: một triều-đại về sau nhà Đông Hán

rất thành: rất thành thực

Phụ tang: tang cha

nhân-tình còn chi: nhà không có đồng tiền nào.

thể-phách: xác thịt của cha.

hiếu-tử: người con có hiếu

phú-gia: nhà giàu

phu-phụ: vợ chồng

Tới chốn gặp: đến chốn người đàn bà ấy lần trước

tiên-cô: nàng tiên

mẫu-thân: mẹ

từ-mẫu: mẹ hiền.

thường thì bớt cho: Bà thường bớt lại nhường cho cháu ăn.

hiền-thê: người vợ hiền.

Mẹ già rồi, hồ dễ được hai: Ý nói vợ chồng mình còn đương thì sinh đẻ, chết con này lại đẻ con khác, còn mẹ chỉ có một, giờ chết đi thì thôi, tìm đâu được nữa.

tình thâm: tình sâu - đây nói là tình cha con

hoàng-câm: tức hoàng-kim : là vàng (vì đọc là câm cho đúng vần ở trên).

trời cho: Trên hũ có đề 2 chữ là : "trời cho".

ngọc thành: Bởi câu : thiên ngọc nhữ vu thành. Ý nói trời giúp cho nên tốt.

Hiếu tâm: lòng hiếu-thảo, câu này ý nói trời nào để đến nỗi vì lòng hiếu thảo mà phải dứt tình cha con.

11- Khương Thị đời Hán

Hán Khương Thị nhà còn lão-mẫu,
Vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,
Mẹ thường muốn uống nước sông,
Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô.
Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém
Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi,
Lại mời lân-ẩu sang chơi,
Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già.
Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt,
Với nước sông in một mùi ngon,
Lý-ngư ngày nhảy hai con,
Đủ trong cung-cấp thần-hôn thường lề.
Rày thong-thả bõ khi lận-đận,
Cam thỏa lòng dâu thuận, con hiền,
Cho hay gia-đạo khi nên,
Đã con hiếu, lại được hiền cả dâu.

12- Thái Thuận nhà Hán

Ngươi Thái Thuận ở sau đời Hán,
Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay
Đương cơn khói lửa mây bay,
Liền năm hoang-khiểm ít ngày đủ no.
Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ,
Nhặt quả dâu chia để làm hai.
Tặc-đồ trông thấy nực cười,
Hỏi: sao bày-đặt đôi nơi cho phiền !
Rằng: "Quả ấy sắc đen thì ngọt.
"Dâng mẹ già gọi chút tình con,
"Còn là sắc đỏ chẳng ngon,
"Cái thân cay-đắng dám còn sợ chua!"
Giặc nghe nói khen cho hiếu kỉnh,
Bước lưu-ly mà gánh cương-thường,
Truyền quân của tiễn sẵn-sàng,
trâu một chiếc, gạo lương một bầu.
Mừng trong dạ, bước mau nhẹ gót,
Về tới nhà, miếng sốt dâng qua.
Cho hay người cũng người ta,
Biết đâu đạo-tặc, chẳng là lương-tâm ?

13- Đinh Lan nhà Hán

Hán, Đinh Lan thuở còn thơ-ấu,
Bóng xuân-huyên khuất dấu non xanh.
Đến nay tuổi đã trưởng-thành,
Cám công sơn-hải, thiệt tình trân-cam.
Tưởng dung-mạo khắc làm mộc-tượng
Cứ bữa thường phụng-dưỡng như sinh,
Khi chăn-gối, buổi cơm canh,
Mấy mươi năm, vẫn lòng thành trước sau.
Phải người vợ, kính lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm kẽ ngón tay,
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao !
Khi đến bữa chồng vào đặt lễ,
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa-chan,
Xét xem mới biết nguồn cơn,
Nổi bừng lá giận, dứt tan dây tình.
Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân,
Cho hay thành hẳn nên thần,
Há rằng u, hiển, mà phân vong, tồn,

14- Lục Tích nhà Hán

Hán, Lục Tích thuở còn sáu tuổi,
Quận Cửu-giang đến với họ Viên,
Trẻ thơ ai chẳng yêu khen,
Quít ngon đặt tiệc tiểu-diên đãi cùng.
Cất hai quả vào trong tay áo,
Tiệc tan xong từ-cáo lui chân,
Trước thềm khúm-núm gửi thân <
Vô tình quả quít nẩy lăn ra ngoài.
Viên trông thấy cười cười, hỏi hỏi,
Sao khách hiền mang thói trẻ-thơ?
Thưa rằng: "Mẹ vốn tính ưa,
Vật ngon dành lại để đưa mẹ thì".
Viên nghe nói trọng vì khôn xiết,
Bé con con mà biết hiếu thân,
Cho hay phú dữ thiên chân,
Sinh ra ai cũng sẵn phần thiện đoan.

15- Giang Cách nhà Hán

Hán, Giang Cách cô-đơn từ bé,
Bước truân-chuyên với mẹ đồng cư,
Đương cơn loạn-lạc bơ vơ,
Một mình cõng mẹ vẩn-vơ dọc đường.
Từng mấy độ chiến-trường gặp giặc,
Giặc cố tình hiếp bắt đem đi,
Khóc rằng: "Thân mẹ lư-ly,
Tuổi già bóng chếch biết thì cậy ai !"
Giặc nghe nói thoắt thội chẳng nỡ.
Rồi dần dà qua ở Hạ-bì.
Dấn mình gánh mướn làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân.
Mọi đồ vật sắm dần đủ hết,
Áng xuân-phong tươi nét từ-nhan
Cho hay những lúc gian-nan,
Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng,

Chú thích:

lão-mẫu: mẹ già

chữ tòng: Tòng, tức tam tòng : người đàn-bà khi còn ở nhà thì tòng phụ : theo cha - khi lấy chồng rồi thì tòng phu : theo chồng - khi chồng chết rồi thì tòng tử : theo ý cửa con, không được tự tiện một mình.

hầu cô: Cô : mẹ chồng - chữ cô cũng có nghĩa là cô nữa, nhưng đây là mẹ chồng.

lân-ẩu: bà lão già ở bên láng-giềng.

Để bồi: Ngồi tiếp.

Với nước sông in một mùi ngon: Vị nước ở suối ấy đúng như là vị nước sông.

Lý-ngư: cá chép.

thần-hôn: buổi sớm buổi tối

lận-đận: vất-vả - ý nói : bây giờ không phải đi gánh nước sông, đi tìm cá vất-vả nữa.

gia-đạo: nề-nếp trong nhà.

Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay: Bụng hiếu với cha mẹ, dù trong khi loạn lạc cũng không đổi tiết.

khói lửa: Bởi chữ : phong hỏa : khói lửa tức là loạn lạc mây bay cũng là loạn.

hoang-khiểm: mất mùa kém đói.

Tặc-đồ: bọn cướp giặc.

sao bày-đặt đôi nơi cho phiền: Hỏi sao lại để riêng quả đen quả đỏ ra làm hai nơi làm gì cho phiền

Bước lưu-ly mà gánh cương-thường: Trong lúc loạn-lạc mà vẫn hiếu-thảo, tức là giữ được cương-thường.

: tức là cái đùi, vó trâu tức là cái đùi thịt trâu

miếng sốt dâng qua: Đem gạo thịt về thổi cơm, làm món ăn dâng mẹ xơi lúc còn đương nóng.

đạo-tặc: trộm giặc, cướp giặc.

lương-tâm: lòng lành, lòng tốt, ý nói : tuy là bọn cướp giặc nhưng cũng có lòng tốt, thấy Thái Thuận có hiếu với mẹ, tặng cho gạo thịt đem về để nuôi mẹ.

xuân-huyên: Xuân là cây xuân, chỉ bóng là cha . Huyên : cỏ huyên, chỉ bóng là mẹ ; ý nói : cha mẹ đã chết từ lúc Đinh Lan còn bé.

trưởng-thành: khi đã khôn lớn.

sơn-hải: Sơn : là núi . Hải : là bể : ý nói : công cha mẹ như núi như bể.

trân-cam: của quí của ngọt, ý nói : không được phụng-dưỡng cha mẹ.

dung-mạo: dáng mặt

mộc-tượng: tượng bằng gỗ

phụng-dưỡng như sinh: phụng-dưỡng như lúc cha mẹ còn sống.

kính lâu nên trễ: Phụng-dưỡng tượng gỗ mãi mấy mươi năm, người vợ lâu ngày sinh ra trễ nải.

Mắt tượng rơi hàng lệ chứa-chan: Mắt tượng gỗ có nước mắt chảy ra đầm-đìa.

Nổi bừng lá giận, dứt tan dây tình: Nổi giận đuổi người vợ đi.

Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa: Nào có phải là nhẫn tâm mà phụ nghĩa vợ chồng, vì vợ là người bất hiếu với cha mẹ mình.

thành hẳn nên thần: Bởi câu : chí thành thông thần : có lòng rất thành thực thì cảm động đến thần minh.

u, hiển: U : là tối. tức là âm-phủ . Hiển : là sáng, rõ, tức là dương-gian.

vong, tồn: Vọng : kẻ đã mất rồi . Tồn : người còn sống . Ý nói : không kể gì âm-phủ hay dương-gian, kẻ còn hay người đã khuất đi, mình có lòng chí thành thì cảm ứng cả.

Quận Cửu-giang đến với họ Viên: Tích theo cha đến quận Cửu-giang chơi với Viên Thuật làm quan thái-thú ở quận ấy.

tiểu-diên: bữa tiệc nhỏ mọn.

gửi thân: Gửi : thưa . Thân : thưa.

thì: xơi, ăn.

hiếu thân: hiếu với cha mẹ.

phú dữ thiên chân: chân tính trời cho thuở bé.

thiện đoan: mối lành. Vì câu : Nhất hiếu lập nhi vạn thiên tòng : có một lòng hiếu thì muôn vạn điều hay ở đấy mà ra, cho nên gọi hiếu là đầu mối của mọi việc thiện.

cô-đơn: mồ côi cha, lại có một mình, không anh em nào.

Tuổi già bóng chếch: Tuổi già như bóng mặt trời đã xế về chiều.

Hạ-bì: tên một xứ bên Tàu.

xuân-phong: gió xuân, ý nói tươi-tỉnh, vui-vẻ.

từ-nhan: mặt hiền từ : tức là nét mặt của mẹ lúc nào cũng tươi-tỉnh.

Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng: Ý nói : người có hiếu thì dù gặp khi loạn-lạc nghèo khổ đến thế nào cũng giữ được hiếu.

16- Hoàng Hương đời Đông-Hán

Đời Đông-Hán Hoàng Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dòi-dõi nhớ thương,
Hạt châu khôn ráo hai hàng,
Tiếng hiền đồn dậy trong làng đều khen.
Thờ nghiêm-phụ cần chuyên khuya sớm
Đạo làm con chẳng dám chút khuây.
Trời khi nắng hạ chầy chầy
Quạt trong màn gối hơi bay mát rầm.
Trời đông buổi sương dầm tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm chiếu-chăn.
Vì con cha được yên thân,
Bốn mùa không biết có phần hạ đông,
Tiếng hiếu-hạnh cảm lòng quận-thú
Biểu nêu treo chói đỏ vàng son,
Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
Nghìn thu biết đạo làm con mấy người ?

17- Vương Thôi đời Tấn

Ngụy Vương Thôi gặp đời Tây-Tấn
Vì thù cha lánh ẩn cao bay,
Bên mồ khóc đã khô cây,
Trọn đời ngồi chẳng hướng tây lúc nào.
Khi sấm-sét tìm vào mồ mẹ,
Lạy khóc rằng: "Con trẻ ở đây ",
Bởi vì tính mẹ xưa nay,
Vốn tưng sợ sấm những ngày gió mưa.
Nên coi sóc chẳng từ sớm tối,
Thần-phách yên, dạ mới được yên,
Trong khi đọc sách giảng truyền,
Tới câu: "sinh ngã", lệ tràn như tuôn.
Ngập-ngừng kẻ cấp môn cũng cảm,
Thơ "Lục nga" chẳng dám còn ngâm,
Cho hay thử lý thử tâm,
Sư, sinh cũng tấm tình thâm khác gì.

18- Ngô Mãnh nhà Tấn

Tấn, Ngô Mãnh tuổi thì lên tám,
Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn,
Cực về một nỗi bần-hàn,
Có giường trong đặt, không màn ngoài che
Trời đương buổi đêm hè nóng-nảy,
Trời muỗi kêu vang dậy dường mưa
Xót thay ! hai đấng nghiêm, từ,
Để người chịu muỗi, bây giờ biết sao !
Nghĩ da thịt phương nào thay lấy ?
Quyết nằm trần, muỗi mấy chẳng xua.
Rầu lòng cho muỗi được no,
Để người êm-ái giấc hòe cho nên.
Tuổi tuy bé mà gan chẳng bé,
Dạ ái thân đến thế thời thôi,
Cho hay phú tính bởi trời,
Những đau trong ruột, dám nài ngoài da,

19- Vương Tường nhà Tấn

Ngươi Vương Tường cũng là đời Tấn,
Tủi huyên-đường sớm lẩn bóng xa,
Mẹ sau gặp kẻ chua-ngoa,
Tiếng gièm thêu-dệt với cha những điều.
Lòng cha chẳng còn yêu như trước,
Lòng con thường chẳng khác như xưa,
Mẹ thường muốn bữa sinh-ngư,
Giá đông trời lạnh bây giờ tìm đâu ?
Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy,
Cởi áo nằm rét mấy cũng vui,
Bỗng đâu váng nở làm hai,
Lý-ngư may được một đôi mang về.
Bữa cung-cấp một bề kính thuận.
Mẹ cha đều đổi giận làm lành,
Cho hay hiếu cảm tại mình,
Dẫu trăm giận, lúc hả tình cũng thôi.

20--Dương Hương đời Tấn

Tấn, Dương Hương mới mười-bốn tuổi,
Cha bước ra hằng ruổi theo cha,
Phải khi thăm lúa đường xa,
Chút thân tuổi-tác thoắt sa miệng hùm,
Đau con mắt hầm hầm nổi giận,
Nắm tay vơ-vẩn giữa đường,
Hai tay chặn giọc đè ngang,
Ra tay chống với hổ-lang một mình.
Hùm mạnh phải nhăn nanh lánh gót,
Hai cha con lại một đoàn về,
Cho hay hiếu mạnh hơn uy,
Biết cha thôi lai biết chi có mình,

Chú thích:

Khuất bóng từ: Tức là mẹ đã chết rồi

nghiêm-phụ: là cha . Vì cha thì nghiêm mẹ thì từ, cho nên mượn chữ nghiêm để chỉ cha, chữ từ để chỉ là mẹ.

Quạt trong màn gối hơi bay mát rầm: Quạt hết cả khí oi nồng đi, cho chăn màn được mát

sương dầm tuyết thắm: Mùa đông rét lạnh.

Ấp hơi mình cho ấm chiếu-chăn: Ủ hơi của mình cho chăn chiếu của cha được ấm.

hạ đông: mùa hè mùa đông

quận-thú: quan Thái-thú ở quận ấy.

Tây-Tấn: Vương Thôi sinh vào đời nhà Ngụy, sau nhà Tây Tấn diệt nước Ngụy thống-nhất thiên-hạ. Tây Tấn về dòng con cháu Tư Mã Ý.

Vì thù cha: Vì Tây-Tấn giết hại cha ông

Bên mồ khóc đã khô cây: Cha ông bị giết chết, ông thương-xót cha ông, cứ phục ở mả mà khóc, nước mắt chảy ra nhiều quá, làm cho cây trắc khô-héo trồng ở bên mồ thấm nước mắt của ông mà tươi lại.

Trọn đời ngồi chẳng hướng tây lúc nào: Nhà Tây-Tấn đóng ở phương tây, Tây Tấn giết cha ông nên trọn đời ông không ngồi ngảnh mặt về hướng Tây, tỏ ý không làm tôi nhà Tây Tấn.

Con trẻ ở đây: Vì tính mẹ Vương Thôi hay sợ sấm, nên khi mẹ chết rồi, hễ khi nào mưa gió có sấm, thì ông lại ra ấp mộ, và khấn rằng : "Đã có con ở đây", để cho hồn mẹ khỏi sợ.

Thần-phách: thần hồn và xác thịt, hồn xác của mẹ được yên thì ông mới yên dạ.

đọc sách giảng truyền: Ông không chịu ra làm quan với Tây-Tấn, ở nhà dạy học, giảng sách cho học trò.

sinh ngã: đẻ ra ta. Ông đọc đến câu phụ hề sinh ngã : cha sinh ra ta thì ông lại nhớ cha mà chảy nước mắt khóc.

cấp môn: đến cửa, tức là các học trò.

Lục nga: tên một thơ trong Kinh Thi, vì thơ ấy có câu : "phụ hề sinh ngã" và nói những công lao của cha mẹ đối với con. Học trò ông hễ đọc đến câu "sinh ngã" thì ông lại khóc, nên cũng cảm động bỏ thơ ấy đi không đọc nữa.

thử lý thử tâm: lòng ấy lẽ phải ấy. Bởi câu chữ Hán : nhân đồng thử tâm, tâm đồng thử lý : người ta ai cũng một lòng ấy, lòng nào cũng theo lẽ phải ấy.

Sư, sinh: Sư : thầy , Sinh : học trò . Ý nói thầy trò đều có tâm tinh đối với cha mẹ cả.

sự thân: thờ cha mẹ.

Có giường trong đặt, không màn ngoài che: Nhà nghèo chỉ có giường nằm, không có màn để che muỗi.

nghiêm, từ: Nghiêm tức là cha. Từ tức là mẹ.

Nghĩ da thịt phương nào thay lấy: Nghĩ lấy da thịt của mình thay cho da thịt của cha mẹ.

Để người: Người tức là cha mẹ.

giấc hòe: tức là giấc ngủ. Ngày xưa Thuần vu Phần nằm ngủ dưới gốc cây hoè, chiêm bao được làm quan sung-sướng lắm. Về sau người ta mượn chữ "hòe" làm giấc ngủ

ái thân: yêu cha mẹ.

Những đau trong ruột, dám nài ngoài da: Sợ muỗi đốt cha mẹ thì đau ruột, còn da thịt của mình thì tiếc gì.

Tủi huyên-đường sớm lẩn bóng xa: ý nói mẹ đã chết rồi.

Mẹ sau: Tức là mẹ kế

Tiếng gièm thêu-dệt: Bịa-đặt ra những lời gièm-pha.

sinh-ngư: cá tươi

Giá đông: Trời rét nước đông lại thành băng.

váng đóng: Trên chỗ nước đônglại thành băng,

Lý-ngư: Cá

lúc hả tình: Lúc hả dạ, vui lòng.

ruổi<: Đi

thoắt sa miệng hùm: Suýt nữa bị hổ ăn thịt.

Đau con mắt: Trông thấy hổ định vồ bắt cha lấy làm đau-đớn lắm.

hổ-lang: Hổ : con hổ, con hùm . Lang : loài thú dữ

Hùm mạnh phải nhăn nanh lánh gót: Hùm phải hả mồm bỏ chạy.

Cho hay hiếu mạnh hơn uy: Lòng hiếu mạnh hơn sức khỏe của con hùm

Biết cha thôi lai biết chi có mình: Chỉ nghĩ việc cứu cha, chứ không nghĩ gì đến việc mình tay không mà chống nhau với hổ là sự nguy-hiểm.

21- Mạnh Tông nước Ngô

Ngô, Mạnh Tông phụ-thân sớm khuất,
Thờ mẫu-thân lòng thực khăng khăng,
Tuổi già trằn-trọc băn-khoăn,
Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
Trời đông tuyết biết đâu tìm được,
Chốn trúc lâm phải bước chân đi.
Một thân ngồi tựa gốc tre,
Ôm cây kêu khóc nằn-nì với cây.
Giữa bình-địa phút giây bỗng nứt,
Mấy dò măng mặt đất nổi lên,
Đem về điều đặt bữa canh,
Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy,
Để về sau nhớ lấy cỏ cây,
Cho hay hiếu động cao dày,
Tình sâu nên khiến cỏ cây cũng tình

22- Sứu Kìm Lâu nước Tề

Sứu Kìm Lâu có danh Tề-quốc,
Huyện Bình-lăng nhận chức thân dân,
Tới nha chưa được một tuần,
Bồ-hôi như dội, tâm-thần thường đau.
Treo ấn ruổi vó câu buồn-bã,
Về thăm cha bệnh đã hai ngày,
Nếm dơ vâng cứ lời thầy,
Ngọt-ngào đầu lưỡi, chua-cay trong lòng,
Thấy chữ dạy "bệnh trung nghi khổ" .
Ước làm sao bệnh đỡ mới cam,
Đêm đêm hướng bắc triều tam,
Xin đem tính-mệnh thay làm thân cha.
Lòng cầu-khẩn thấu tòa tinh-tú,
Chữ bình-an vui-thú đình-vi,
Cho hay máy động huyền-vi,
Thay mình truyện trước còn ghi kim-đằng.

23- Đường-Thị vợ họ Thôi

Dâu họ Thôi ai bằng Đường-thị,
Thương mẹ chồng niên-kỷ đã cao,
Không răng ăn dễ được nào.
Ngày ngày lau-chải ra vào thăm coi.
Lấy sửa ngọt thay mùi cơm cháo,
Mấy năm trời chẳng gạo mà no,
Vì đâu dốc dạ thờ cô,
Da mồi tóc bạc bốn mùa như xuân,
Ơn lòng ấy khôn phần báo lại,
Buổi
lâm-chung nhủ với hoàng-thiên
Xin cho nguyền được như nguyền,
Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu.
Ai nghe cũng răn nhau hiếu kính.
Cửa Thôi-gia hưng-thịnh đời đời,
Cho hay gia-khánh lâu dài,
Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan,

24- Chu Thọ Xương nhà Tống

Chu thọ Xương làm quan Tống-đại,
Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng,
Bởi vì đích-mẫu chẳng dung.
Đem thân bồ-liễu, bạn cùng nước non,
Muôn nghìn dặm, mẹ con xa khuất,
Năm mươi năm trời đất bơ-vơ,
Sinh con những tưởng cậy-nhờ,
Cái thân sung-sương bây giờ mà chi ?
Bỏ quan chức, quyết đi tìm-tõi,
Năm lời thề nói với gia-nhân,
"Thân này chẳng gặp từ-thân ,
"Thời liều sống thác với thân cho đành."
Trời đâu phụ lòng thành hiếu-tử,
Chốn Đổng-châu bỡ-ngỡ gặp nhau,
Nét mừng ai vẽ nên đâu,
Mẹ đầu nhuốm tuyết, con đầu hoa râm.
Đã bõ lúc than thầm khóc ngấm,
Lại vầy nên trên ấm dưới êm,
Cho hay máu chảy ruột mềm,
Không trời ai tưởng còn tìm được đây ?

25- Hoàng Đình Kiên (Tăng Trực) nhà Tống

Triều Nguyên-hựu có thầy Tăng Trực.
Là họ Hoàng ngồi chức Sử-thần,
Ơn vua đã nhẹ tấm thân,
Phận con vẫn giữ thờ thân như ngày,
Đồ dơ-bẩn thân tay lau-chuốt,
Việc tầm-thường chẳng chút đơn sai,
Há rằng sai-khiến không ai,
Đem thân quan-trưởng thay người gia-nô
Chức nhân-tử phải cho cần-khổ,
Có mẹ cha mới có thân ta,
Cho hay đạo chẳng ở xa,
Hay làm hiếu-tử mới ra trung-thần,

KẾT-LUÂN
Bấy nhiêu tích cổ-nhân về trước,
Cách nghìn xưa như tạc một lòng.
Kể chi kẻ đạt người cùng.
Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di-luân.
Buổi công hạ cảm thân dày đội,
Xa hương-quan gần cõi thánh-hiền,
Trông vào những thẹn bóng đèn,
Muốn lưu gia-phạm, nên truyền quốc-âm

= CHUNG =

Chú thích:

phụ-thân: là cha

mẫu-thân: là mẹ

đông tuyết: mùa đông có tuyết

trúc lâm: rừng tre

bình-địa: chỗ đất bằng

Mấy dò măng mặt đất nổi lên: Mấy dò măng ở dưới đất mọc lên.

điều: pha mắm muối và vị chua, vị ngọt cho thành canh ngon.

bệnh mẹ lại lành: Khỏi bệnh

nhớ lấy cỏ cây,: Vì Mạnh Tông có lòng hiếu, cho nên cỏ cây cũng cảm-động, nên nhớ là cỏ cây cũng có tình

Tình sâu nên khiến cỏ cây cũng tình: Ý nói : Vì Mạnh Tông có hiếu với mẹ, nên cây tre cũng có cảm-tình mà mọc măng ra.

Kìm Lâu: là người có danh tiếng nước Tề.

Bình-lăng: Một tên đất ở bên Tàu.

thân dân: thân dân : gần liền với dân, tức là chức Thái-thú bên Tàu, như chức Tri-phủ, Tri-huyện ngày trước ở nước ta.

nha: công-nha, sở làm việc

một tuần: là 10 ngày

vó câu: Câu : con ngựa , Vó câu tức là vó ngựa . Ý nói cỡi ngựa đi về.

Nếm dơ: Tức là nếm phân

Ngọt-ngào đầu lưỡi, chua-cay trong lòng: Vì thầy thuốc bảo rằng : người nào ốm mà phân đắng thì dễ chữa, phân ngọt thời bệnh nặng khó chữa, ông nếm phân cha thấy ngọt, ông lo-ngại sợ cha chết.

bệnh trung nghi khổ: Trong sách thuốc nói về phân của người ốm có câu rằng : "bệnh trung nghi khổ" trong khi đương ốm, thì phân đắng là tốt.

triều tam: ba lần chầu về . Ý nói : một đêm ba lần chầu về hướng bắc mà khấn.

đem tính-mệnh thay làm thân cha: Xin chết thay cha.

tinh-tú: ngôi sao - tức là sao Bắc-đẩu.

đình-vi: Ở đây ý nói : cha được khỏi bệnh, cả nhà vui vẻ.

huyền-vi: mầu-nhiệm, bí ẩn . Ý nói : cảm-động đến trời.

kim-đằng: Cái hòm có buộc băng giây vàng ; ngày xưa vua Vũ-vương nhà Chu bị bệnh nặng, em là Chu Công Đán làm sớ tâu với tổ-tiên ở nhà thái-miếu xin chết thay cho Vữ-vương, tờ sớ ấy sau để vào trong hòm gỗ, có buộc giây vàng ở ngoài, để ở nhà Thái-miếu.

niên-kỷ: tuổi . Ý nói tuổi đã già.

Không răng ăn dễ được nào: Già móm cả răng.

Ngày ngày lau-chải ra vào thăm coi: Hằng ngày Đường thị tắm rửa chải đầu cho sạch sẽ, rồi lên nhà trên thăm mẹ chồng.

Mấy năm trời chẳng gạo mà no: Cho mẹ chồng bú sữa mình .Mấy năm trời mẹ chồng chỉ bú sữa của Đường-thị mà đủ no, không phải ăn cơm.

thờ cô: Cô : mẹ chồng.

Da mồi tóc bạc bốn mùa như xuân: Mẹ chồng tuy già nhưng lúc nào cũng được vui-vẻ, vì có con dâu hiếu.

lâm-chung: luc sắp chết.

hoàng-thiên: là trời . Ý nói : lúc sắp chết có khấn nguyện với trời.

Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu: Ý nói : cầu cho các con cháu dâu về sau người nào cũng hiếu như Đường-thị cả.

Thôi-gia: nhà họ Thôi.

gia-khánh: phúc nhà.

Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan: Không gì báu bằng được người con dâu hiếu thảo

Tống-đại: đời nhà Tống.

bảy tuổi lìa lòng: Phải lìa mẹ đẻ từ lúc lên 7 tuổi.

đích-mẫu: mẹ đích. Vọ cả của cha mình.

bồ-liễu: Bồ : cỏ bồ. Liễu : cây liễu, hai thứ cây cỏ yếu-ớt, để chỉ là phần đàn-bà con gái về phái yếu.

bạn cùng nước non: Phải đi lưu-lạc.

Năm mươi năm trời đất bơ-vơ: Mẹ con cách xa nhau 50 năm trời.

Cái thân sung-sương bây giờ mà chi: Bây giờ mình được sung-sướng mà mẹ phải lưu-lạc thì sung-sướng làm gì,

lời thề nói với gia-nhân: Khi ông sắp ra đi, ông có thề với ngườitrong nhà rằng : " nếu ông không tìm được mẹ thì dù chết cũng đành"

từ-thân: mẹ hiền.

hiếu-tử: co hiếu.

Đổng-châu: Một tên đất ở bên Tàu.

nhuốm tuyết: Mẹ đầu bạc trắng như tuyết

hoa râm: Con đầu lốm-đốm bạc.

Nguyên-hựu: Niên-hiệu vua Triết Tôn nhà Tống . Nguyên-hựu (1086).

Sử-thần: quan chép sử.

Ơn vua đã nhẹ tấm thân: Được làm quan giàu có, thân đã nhẹ-nhàng.

Đồ dơ-bẩn thân tay lau-chuốt: Những đồ của cha mẹ dùng để đại tiểu-tiện tự tay ông lau rửa lấy cả.

quan-trưởng: quan to.

gia-nô: đứa ở trong nhà.

nhân-tử: đạo làm con.

cần-khổ: Siêng-năng khó-nhọc.

hiếu-tử: người con hiếu.

trung-thần: bầy tôi trung. Hai câu này bởi câu : cầu trung-thần tất ư hiếu-tử chi môn : muốn tìm người bầy tôi trung, tất phải tìm ở nhà nào là nhà con hiếu, vì có biết hiếu với cha mẹ, thì mới trung với nước

cổ-nhân: người đời xưa.

kẻ đạt người cùng: Đạt : người hiển-đạt làm quan sang . Cùng : người không chức-phận gì, người nghèo túng,

di-luân: đạo cương-thường cũng như ngũ-luân.

công hạ: khi rảnh việc quan.

cảm thân dày đội: Bởi chữ : đới thiên lý địa : đội trời đạp đất.

hương-quan: quê-hương.

gần cõi thánh-hiền: Ý nói chỉ xem sách.

gia-phạm: khuôn-phép trong nhà.


quốc-âm: tiếng của nước mình. 

No comments:

Post a Comment