Chiêm Thành Tự Làm Vong Quốc
Chiêm Thành Tự Làm Vong Quốc
03/08/2006 00:00:00(Xem: 2331)
Mường Giang
Dù viết gì chăng nữa, thì nước Chiêm Thành suốt dòng lịch
sử, đã chắc chắn có một lãnh thổ gồm các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô
và Châu Lý (nay thuộc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên). Vùng
Amaravati với kinh đô Indrapura (Đồng Dương) cùng các thánh tích nổi tiếng tại
Mỹ Sơn và Trà Kiệu (Simhapura). Miền này nay thuộc Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Vùng Vijaya với kinh đô Chà Bàn, nay là tỉnh Bình Định. Vùng Kauthara có thánh
tích Po Nagar (Tháp Bà), nay là Khánh Hòa. Châu cuối là Panduranga, bao gồm hai
tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
Người Chiêm Thành lập quốc hơn 17 thế kỷ, có một nền văn
minh khá cao, nghệ thuật điêu khắc coi như gần tiến tới trình độ toàn hảo.
Trong nước có nhiều thức giả thông thạo Phạn ngữ, lại có chữ viết riêng biệt. Vậy
tại sao nước này không có một nền giáo dục phổ thông, không có tác phẩm sử học,
không bao giờ mở các kỳ thi tuyển nhân tài và không cho sản xuất giấy.
Đó cũng vì tất cả quyền lực trong nước đều là độc quyền của
một nhóm thiểu số, thuộc giai cấp quý tộc và tăng lữ Bà La Môn cùng Hồi giáo nắm
giữ. Ở đây không nói tới nhóm sắc tộc bị trị tại cao nguyên
Trung phần từ năm 1150-1471, mà chỉ đề cập tới người Chàm, là sắc dân chính thống
của vương quốc sống dọc vùng duyên hải. Do tính chất đa sắc tộc và trở ngại địa
lý, nên nước Chiêm Thành gần như không bao giờ thực hiện được trọn vẹn chính
sách trung ương tập quyền, dù trên lý thuyết đã hợp nhất thành một nước nhưng
thực tế những sắc tộc lại chia thành thị tộc, các làng đầy dị biệt và thường
đem quân bản địa tàn sát lẫn nhau, không ai cản được.
Tìm hiểu lịch sử Chiêm Thành thật nhiêu khê vì tất cả một chuỗi dài lịch sử
phải nối khoen bằng những tài liệu vụn vặt góp nhặt từ những ghi khắc trên bia
ký còn trong đền tháp, qua những huyền thoại truyền khẩu dân gian và mớ sử liệu
hỗn tạp loạn ngầu trong các sách sử của những quốc gia liên hệ như Đại Việt,
Trung Hoa, Chân Lạp, Mã Lai. Người Pháp sau này cũng từ những nguồn gốc trên mà
đặt ra giả thuyết để ước đoán một sự kiện bị chìm đắm theo những kẻ nắm quyền
đã ngủ yên trong mồ.
Một dân tộc rất giỏi nghề đi biển và cũng từng là những hải
tặc khét tiếng suốt vũng biển Thái Bình Dương cho tới vịnh Thái Lan. Trong nước
ruộng đất bề bề, đã có kỹ thuật canh tác và biết lập hệ thống dẫn điền, có nền
tiểu công nghệ tiến bộ và hữu ích trong đời sống hằng ngày như làm gốm, dệt chiếu
vải, đan, điêu khắc và xây cất nhà cửa, dinh thự, đền đài.
Vậy vì sao nước Chiêm Thành phải "suy thoái và diệt
vong" Một câu hỏi cần phải làm sáng tỏ, để tránh những ngộ nhận cho các thế hệ
hôm nay và mai sau trong một quốc gia hợp chủng VN.
Như ta biết, cộng đồng dân tộc (communauté), theo định nghĩa pháp lý, thì đó là một xã hội có nhiều
người cùng nhau chia xẻ một thân phận trong mọi hoàn cảnh, dù là ý thức hay vô
ý thức. Đất nước nào trên thế giới xưa nay, cũng bao gồm nhiều cộng đồng xã hội
khác nhau, nhưng lại cùng sống trong một lãnh thổ, tạo thành cấu trúc bất khả
phân của một quốc gia và theo pháp lý, tất cả các cộng đồng này đều bình đẳng về
quyền lợi cũng như trách nhiệm, bổn phận. Trên bình diện quốc gia lại duy nhất
chỉ có một dân tộc mà thôi.
Cho nên không thể gọi người Chàm, người Hoa, người Khmer hoặc các bộ tộc
vùng cao là dân tộc thiểu số như chúng ta đã lạm dùng sai sót trong quá khứ và
VC đang sử dụng để mị dân. Theo đúng nghĩa của
phương tây, danh từ Dân Tộc (nascere), đã được Isodore de Séville, sống trong
thế kỷ thứ VII (STL), định nghĩa là một cộng đồng sắc tộc, gồm những nhóm người
có chung nguồn gốc, hay nhiều nhóm khác nhau qua thời gian pha trộn, đã cùng
sinh hoạt chung trên một mảnh đất nhất định. Sau này danh từ Dân Tộc được đồng
nghĩa với Tổ Quốc (Patria), để gọi tất cả mọi người đang sống chung trên một
lãnh thổ.
Tóm lại Dân Tộc VN
ngày nay có ba họ chủng tộc khác nhau cấu thành. Đó là người Kinh, người Hoa và
tập hợp những sắc tộc miền cao, kể cả người Chàm và Khmer ở Nam Phần.
Hội nhập và đồng hóa là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Ngoại
trừ người Thượng Bắc phần hay Cao nguyên Trung phần, từng được chính quyền VN
bao đời coi như dân bản địa. Các sắc dân
Chàm, Khmer và Minh Hương đã hội nhập trong dân tộc VN nhưng không hề bị đồng
hóa, như một vài người mang thù hận truyền kiếp, đã cố tình bóp méo vấn đề, bằng
cách viết nói lẫn lộn để cho người khác phải hiểu sai, rồi kết luận người VN
bao đời đều dùng chính sách đồng hóa để phát triển cộng đồng.
Từ những dẫn chứng thực tại của quốc gia hợp chủng VN mà
quyền hành bao đời vẫn theo trung ương tập quyền, dù triều đình, chính phủ, nhà
vua có đóng ở Thăng Long, Thuận Hoá hay Gia Định, tất cả cũng đều do lệnh vua
ban truyền, tuy nói chơi "lệ làng hơn phép vua".
Nhưng Chiêm Thành thì sao" Vẫn có tập quyền nhưng chỉ
thu gọn trong một thiểu số làng mạc cùng chung thị tộc hay gần gũi với chính
quyền mà thôi. Điều này cũng đâu lạ, vì Chiêm Thành ảnh hưởng sâu đậm An Độ
giáo cũng như phỏng theo nền chính trị của nước này. Bởi vậy xã hội Chàm gồm bốn
giai cấp:
Brahman (tăng lữ Bà La Môn),
Kshatriya (quý tộc),
Vaishya (thường dân bao gồm thương gia, điền chủ, những
người giàu có) và
Shudra (tiện dân).
Ngoài ra vì là một dân tộc hợp chủng nhưng thay vì chịu chấp nhận là một
dân tộc duy nhất Chiêm Thành, để phục vụ cho tổ quốc, người Chiêm do tính chất
cách biệt địa lý, nguồn gốc, ngôn ngữ, nên họ đã coi lệ làng hơn phép nước
trong mỗi sắc tộc, thị tộc riêng lẽ. Chỉ riêng người Chàm cũng đã chia rẽ gay gắt,
nhất là giữa hai thị tộc mạnh nhất:
Cây Cau (Kramukavamca) thống trị miền nam tại 2 châu cũ
chiếm của Phù Nam là Kauthara và Panduranga.
Còn thị tộc Cây Dừa (Narikelavamca) ở phiá bắc tại châu
Indrapula.
Do trên ta có thể khẳng định là các bộ tộc sinh sống trên
cao nguyên, trong đó có người Churu, Roglai, Rhadé, Jara .tuy cùng sử dụng
chung ngôn ngữ Malayo-Polynésien với người
Chàm, nhưng luôn luôn tự trị, chống đối Chiêm Thành, kể cả ba thế kỷ bị đô hộ.
Nói chung nội bộ nước Chiêm Thành luôn luôn ẩn chứa những
mầm phản loạn, và vì vậy khi vua chúa nào bị thua trận hay thất sủng, là bị quyền
thẩn giết ngay để dành ngai vua và đất nước, kể cả vị vua anh hùng nhất của nước
này là Chế Bồng Nga, cũng không được ngoại lệ. Tình trạng mạnh được yếu thua
này rất phổ quát trong thời phong kiến và quân chủ, ngay tại Trung quốc và Đại
Việt cũng từng có nhưng chỉ là họa hoằn,
chứ không gần như là cơm bữa tại quốc gia này.
Trong thượng tầng kiến trúc chính quyền, trung tâm đầu não của quốc gia, thời
nào cũng chỉ dành riêng cho thiểu số tăng lữ và quý tộc nhưng họ luôn chỉ nghĩ
tới quyền lợi của dòng họ và tộc đẳng mình mà thôi. Chiếm tỷ lệ dân số đông đảo
trong nước, vẫn là hai thành phần thường dân và tiện dân, nhưng họ chỉ là những
công cụ của thiểu số cầm quyền, phải đi lính, sản xuất, xây cung điện, đền đài
khắp nơi để thờ phụng đủ thứ thần linh trong nguồn tín ngưỡng mà vua chúa chấp
nhận.
Thay vì, dùng nguồn lợi của quốc gia
để lo cho đời sống dân chúng, cải tiến nhân sinh xã hội, đem nền văn minh văn hiến của dân tộc thu nhập,
phổ biến, giáo dục cho mọi người, mọi thế hệ, để họ cùng mở mang kiên thức,
thăng tiến trong dòng văn minh lịch sử nhân loại để ai cũng có quyền lợi hưởng
và nhận chịu trách nhiệm khi đất nước lâm nguy, cần tới.
Nhưng Chiêm Thành thì hoàn toàn đi ngược lại, tiền bạc chỉ
dùng để xây kinh đô, thánh địa, mua sắm quân cụ vũ khí để đánh nhau. Bắt dân đi
lính không phải để bảo vệ tổ quốc, mà là giúp vương triều mở rộng lãnh thổ, thu
chiến lợi phẩm cùng tù binh, tạo thêm ưu thế cho tộc đẳng đương quyền.
Bởi vậy, dân chúng trong nước chỉ thấy mình làm nô lệ cho
vua quan mà thôi, chứ khồng hề nghĩ tới dân tộc, tổ quốc, nên khi có chuyện thì
bỏ chạy và ít lo tới chế độ mình đang hiện hữu.
Đây chính là nguyên nhân nội tại, khiến Chiêm Thành bị
suy thoái vì chia rẽ sắc tộc, thế cấp và rắn mất đầu mỗi khi có biến loạn, mà lần
cuối cùng vào thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tôn chiếm kinh đô Chà Bàn, chia ba Chiêm
quốc, khiến cho giới tri thức, khoa bảng lãnh đạo bị tan rã vì chết, trốn ra
ngoại quốc, trong nước thiếu nhân tài để tiếp tục lèo lái con thuyền quốc gia
đang trong cơn bão tố, sóng dữ sắp chìm.
Cũng phải nói tới thể diện con người, ta biết người Chàm
theo chế độ mẫu hệ, quyền hạn trong gia đình đều do phụ nữ chi phối và nắm giữ,
người đàn ông luôn cảm thấy mình mất tự do. Ngoài xã hội, tuyệt đại dân chúng
thuộc giai cấp tiện dân, bị áp bức bóc lột. Nên gặp lúc được tự do, ho đã dễ
dàng hướng ngoại, làm cho đất nước càng lúc càng thiếu nhân lực.
Trong nước lúc nào cũng có chiến tranh, đất ruộng vườn tược
giao phó cho đàn bà và những người lớn tuổi, nên họ làm sao kham nổi, bởi vậy
lãnh thổ hầu hết như bị bỏ hoang. Ngân sách, tài nguyên đều dùng để xây cất
cung điện, thánh tích và quân sự.
Những lần thắng trận thì lấy chiến lợi phẩm đã cướp, để
bù đắp hoặc tổ chức những đám cướp biển. Nhu cầu này cũng cạn kiện dần mòn khi
đế quốc Hồi giáo hùng mạnh, khống chế toàn bộ con đường tơ lụa trên An Độ Dương
và biển Đông, đã bị các nước phương tây làm sụp đổ. Từ đó quyền lợi kiếm được từ
nguồn hải khấu của Chiêm Thành cũng chấm dứt, vì thuyền nước này nhỏ bé, vũ khí
lại thô sơ, làm sao chọi nổi với thương thuyền to chắc của Bồ, Y Pha Nho, Pháp,
Anh Cát Lợi, Hòa Lan...có trang bị hỏa lực hùng hậu.
Về những trách móc, thù hận hay dư luận cho rằng Đại Việt
tiêu diệt Chiêm Thành để cướp nước, qua hiện tượng biểu kiến của cuộc Nam Tiến.
Sự kiện này ngày nay đã được giải tỏa ẩn ức, không phải do người Việt Nam tự biện
bạch để chạy tội, mà chính là những trang lịch sử còn lưu lại của các nước Đông
Nam Á, có liên hệ tới Chiêm Thành.
Nói theo kinh Phật, thì tất cả đều là nhân quả, thiện ác
nhãn tiền, người Chàm lúc nào cũng nuôi hận thù trong tâm, nên thường đem quân
khi thì đường bộ, lúc dùng thuyền bè, tấn công hết nước này tới xứ khác, và ngược
lại họ cũng phải bị nạn nhân trả thù, chống chọi để giữ mạng, giữ nước.
Với Phù Nam thì cướp hai châu và tấn công luôn Chân Lạp,
tàn phá Đế Thiên, Đế Thích (Angkor Wat, Angkor Thom) vào năm 1177 bởi vua Chàm
là Jaya Indravarman IV. Sau đó Chân Lạp
phản công, đô hộ Chiêm Thành, cũng tàn phá hết các công trình xây dựng từ kinh
đô cho tới thánh tích. Tháp Bà Po Nagar tại Kauthara, bị Chân Lạp phá huỷ nhiều
lần, cho tới khi châu này thành tỉnh Khánh Hòa của Đại Việt vào thế kỷ thứ
XVII, mới được người di dân VN, bảo quản và giữ gìn cẩn trọng cho tới hôm nay.
Ngoài ra, Chiêm Thành cũng bị người Tàu tàn phá hai lần vào năm 605 và
1282, người Nam Dương cướp phá vào các năm 774, 787 nhưng tàn bạo nhất vẫn là
những sự trả thù dã man của Chân Lạp trên đất Chiêm Thành vào những năm 950,
1190 và thời gian chiếm đóng từ 1203-1220.
Nói chung theo sử liệu, Đại Việt là nạn nhân nhiều lần vì
bản chất hiếu chiến của người Chàm nhưng trên hết, vì Chiêm Thành là đồng minh
của Trung Hoa, suốt dòng lịch sử, luôn tấn công công tập hậu VN. Vì vậy Đại Việt
không còn lựa chọn nào hơn, là phải chống lại để tự vệ và giữ nước.
Gây hấn rồi nhường đất chuộc mạng, bắt đầu từ thời vua Chế
Củ dâng nhà Lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, được các sử gia coi đó là một
sự kiện lịch sử quan trọng của Chiêm Thành, mở đường cho vua chúa Đại Việt sau
này, coi đó như một yếu tố tất thắng đối với kẻ chiến bại.
Trong 30 năm cầm quyền, Chế Bồng Nga năm nào cũng đánh
phá chém giết người Việt tận tuyệt, luôn cả kinh thành Thăng Long cũng bị tàn
phá trong ba lần lửa máu. Bởi vậy khi Chàm suy yếu, Đại Việt lại trả thù phục hận.
Đó cũng là nguyên cớ, đã khiến cho các triều đại VN về sau tỉnh ngộ, quyết ngăn
chận Chiêm Thành, để không còn xảy ra tai họa khủng khiếp trong dĩ vãng.
Về cuộc Nam Tiến,cũng được thi hành ôn hòa qua kế hoạch
dinh điền, mở mang khai phá đất đai bị bỏ hoang ở biên trấn, sống hòa lẫn cùng
dân bản địa, vừa canh chừng giặc, vừa sản xuất lương mễ theo đường lối "ngụ
binh ư nông" mà Đại Việt đã khôn ngoan áp dụng từ khi thu hồi được độc lập.
Tóm lại, Chiêm Thành suốt 17 thế kỷ trường tồn, chỉ chú
trọng nền ngoại thương, lại coi thường nông nghiệp. Mặt khác chính quyền Chàm lại
không có kế hoạch phòng thủ khi bế tắc, nên lúc việc buôn bán với nước ngoài
không còn thuận lợi, muốn quay lại nông nghiệp thì đã muộn màng.
Ngoài ra cái thời người Chàm cứ bỏ đất hoang, để dân Việt
tới khai phá gây dựng, rồi họ trở lại tấn công đoạt lại hay để kiếm lương thực
và chiến lợi phẩm, cũng đã cáo chung, vì từ thế kỷ thứ XVI, khi Nguyễn Hoàng
vào tọa trấn Thuận Quảng, ngoài việc xây dựng một quân đội hùng mạnh, còn thành
lập những xã thôn trù phú nơi biên thùy, vừa là tiền đồn cũng là tiền dinh ngăn
chặn các cuộc tấn công. Rốt cục chiến
tranh có xảy ra, cũng chỉ gây tang tóc cho cả hai bên mà thôi và càng tạo thêm
cớ để Đại Việt nam tiến mà thôi.
Qua dòng lịch sử nước nhà, hoặc chính do người Việt ghi chép lại, hay từ
các sử gia ngoại quốc, hoàn toàn không thấy nói tới sự tàn ác dã man của quân
Việt đối với tù binh hay dân chiến nạn như người Chàm. Sự việc đã xảy ra suốt
dòng lịch sử, khi người Việt trên con đường nam tiến, tới đâu cũng tận tình bảo
quản những di tích lịch sử của người Chiêm để lại, đồng thời hòa đồng với họ
khi đã sống lẫn lộn, tôn trọng tôn giáo riêng tư của kẻ khác, cho nên nói người Chiêm sau khi mất nước phải hòa đồng
vào dân tộc VN là đúng, nhưng bảo người
Việt đã diệt chủng và đồng hóa Chiêm Thành như đã xảy ra dưới thời vua Minh Mạng,
là một bịa đặt không ai tin được.
Câu hỏi cuối cùng được đặt ra, là tại sao hơn ba thế kỷ
tiến hóa, tính từ niên lịch 1693 tới ngày nay,
nhân số trong cộng đồng sắc tộc Chàm, vẫn không thấy gia tăng quá con số
100.000 người, nếu so với người Minh Hương, Khmer hay cả với các sắc dân thiểu
số cao nguyên" Khó có thể giải thích vì người Chàm dù bị vong quốc, họ vẫn
tiếp tục sống với lối khép kín bao đời, theo bản làng thị tộc.
Ngoài ra các giới lãnh đạo cộng đồng Chàm, vẫn còn đầu óc
phân chia giai cấp, nại lý do bảo tồn văn hóa truyền thống thị tộc, nghiêm cấm
đồng bào mình hướng ngoại và kết hôn với các thị tộc Chàm khác, dù đều là người
Chiêm Thành. Nay có dịp nghe lại ca sĩ Chế Linh hát "Hận Đồ Bàn" của Xuân
Tiên, mới biết rỏ vì sao, rừng hoang vu vùi lấp
bao uất hận căm thù, núi trầm cô tịch, đèo cao thác sâu, ngàn muôn tiếng ngân,
âm thầm hoà bài hận vong quốc ca.
Từ đó mới thấy đến bây giờ, mà sự thù hận giữa hai dân tộc
Chiêm-Việt, vẫn còn ẩn ức nơi hồn một thiểu số, vì chính những người này,
đã không biết tại sao mình phải suy tàn.
Tóm lại Chiêm Thành mất nước là do họ tự đạo diễn. Cuộc nam tiến của Đại Việt
chẳng qua cũng chỉ là một ngẫu cảm trùng hợp.
Sự đụng chạm nếu có trong quá khứ, chẳng qua vì cá nhân
trong lúc cùng sống lẫn lộn, hay trường hợp vua Minh Mạng đối xử gay gắt với cá
nhân những người Chàm tại Bình Thuận, có liên hệ tới cuộc phản loạn của Lê văn
Khôi năm 1851 tại thành Gia Định, đều là vấn đề ngoại lệ của lịch sử.
Ngày nay Chiêm Việt hòa đồng, đồng bào Chàm chỉ mất có
triều đình nhưng giữ lại gần như đầy đủ các công trình sáng tạo tại các đền,
chùa, thánh tích nổi tiếng của dân tộc mình ở điện Ngọc Trản (Huế), thánh tích
Mỹ Sơn, Đồng Dương, Tháp Bà, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Sau rốt nền văn minh Chiêm Thành vẫn tồn tại qua mọi lãnh
vực văn hóa, nghệ thuật, kể cả tín ngưỡng của người Việt Trung Phần, đó không
phải là một hãnh diện hay sao" Thời VNCH (1955-1975), chính phủ có một bộ
phát triển sắc tộc, dành riêng cho các sắc dân thiểu số trong đó có người Chàm.
Ngay từ thời Pháp thuộc, vua Bảo Đại có ban hành bộ luật
Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật, nhưng vẫn cố tránh làm đảo lộn nếp sống cổ truyền
của đồng bào thiểu số, trong đó có người Chàm, nên đả ban hành thêm đạo luật số
51 ngày 25-5-1943 với đặc ân cho người thiểu số, trong đó có Chàm khỏi thi
hành.
Vì vậy cho nên với pháp luật thời đó, chỉ áp dụng luật
Chàm để xử họ và tôn trọng chế độ mẫu hệ bao đời.
Thời VNCH (1955-1975), tại các tỉnh Ninh Thuận và Bình
Thuận có đông người Chàm cư ngụ. Trong sự tế nhị và nâng đỡ, chính phủ đã bổ
nhiệm các quận trưởng và phó quận, phần lớn là người Chàm, để dễ dàng hành sử với
đồng bào của họ, vì các Quận Trưởng Chàm đều kiêm nhiệm chánh án tòa sơ thẳm
trong vùng.
Ngày nay đọc lại danh sách các viên chức hành chánh cao cấp
của tỉnh Bình Thuận, tính đến ngày 30-4-1975, ta mới thấy tình Chiêm-Việt thật ấm
áp và cũng đầy ý nghĩa của một quốc gia VN hợp chủng:
- Quận Trưởng Phan Lý Chàm: Thiếu Tá Đặng Chánh Anh. Phó
QT là đốc sự Ya Pha (còn sống tại VN).
- Quận Trưởng Hàm Thuận: Thiếu Ta Dụng văn Đối.
- Quận Thiện Giáo: Phó QT, đốc sự Nguyễn Trọng Chống (còn
ở VN).
- Quận Hải Ninh: Phó QT, đốc sự Đắc Hữu Thiên (ở Mỹ).
- Quận Tuy Phong: Phó QT, đốc sự Lâm Quang Chân ( đã chết
trong tù cải tạo VC).
- Quận Hải Long: Phó QT, đốc sự Mai Tường (ở Mỹ).
- Đác văn Kiết, Tham sự hành chánh, Trưởng Ty Phát triển
sắc tộc Bình Tuy.
Ngoài ra còn nhiều Sĩ Quan giữ các chức vụ quan trọng tại
TK.Bình Thuận, Ninh Thuận cũng như công chức, cán bộ và giáo chức..Tất cả những
viên chức trên đều là người Chàm.
Mạnh được yếu thua xưa nay là một qui luật của cuộc đời,
mà bất cứ quốc gia hay dân tộc nào trên trái đất cũng đều chịu chung số phận. Đại
Việt cũng vậy, hơn một ngàn năm từ thế kỷ 1 Sau Tây Lịch , tới gần giữa Thế kỷ
X, chỉ vì yếu kém nên đã phải sống cảnh vong quốc lầm than, dưới ách nô lệ cùm
gông của người Tàu. Nắm 939 Ngô Vương Quyền Đại Đế đã đánh đuổi giặc Nam Hán ra
khỏi bờ cỏi Hồng Lạc và mở đầu, nền tự cường độc lập của VN, qua các thời đại
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn.
Đó là sự may mắn của dân tộc Việt. Nếu không liệu chúng
ta có thể tồn tại hay đã bị diệt chũng " chứ đừng nói tới di tích, văn hóa
hay bất cứ thứ gì..có được trên mặt đất, khi bị ngoại bang chinh phục.
Thật sự là vậy đó -/-
Xóm Cồn
Tháng 8-2006
Mường Giang
Phụ Lục: Theo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Từ_Công_Phụng,
Nhạc sĩ này là người Chàm. Khi chọn sinh hoạt như người Việt cũng được đãi ngộ
như bao người Việt Khác. Tương tự, những người Minh hương cũng tự coi mình là
người Việt.
Từ Công Phụng hát nhạc Từ Công Phụng
No comments:
Post a Comment