Chuyện lịch sử Việt Nam, đọc để
suy ngẫm
lundi 13 avril 2015
Chuyện lịch sử Việt Nam, đọc để suy ngẫm bài viết của Dương Hoàn
Vũ.
Kính gửi quý anh chị bài viết về lịch sử Việt
Nam và những biến cố mà có thể chúng ta có đọan biết, có đoạn
không.
Caroline Thanh Hương
Afficher l'image d'origine
Hiệp Định genève niềm đau và nỗi nhục của đất nước.
24 août 2011, 06:12
Tại Hội nghị thượng đỉnh Malta, ngày 3/12/1989, Gorbachev
và George H.W.Bush tuyên bố cuộc Chiến tranh lạnh chấm dứt. Cuộc chiến tranh giữa
khối tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đã đem lại đau nhục
cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên điều này không thể hiện rỏ ràng vì được lồng
vào bên trong cái vỏ bọc « giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước ». Và cũng nhờ
cái vỏ bọc này những người cộng sản đã dành được chiến thắng và luôn còn gây ngộ
nhận cho thế hệ sao.
Để nhìn lại thực chất của cuộc chiến tranh Việt nam phải nhìn lại Hiệp Định
Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954.
Sau chín năm chiến tranh triền miên (1946-1954), dân
chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc mơ hòa bình vẫn còn ngoài tầm
tay của người Việt. Đất nước chia đôi, dân tộc chia đôi ! Giòng sông Bến Hải,
giữa nhịp cầu Hiền Lương luôn luôn là niềm đau và nỗi nhục của đất nước. Người
Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của
chính mình, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang, dù đó là ngoại
bang tư bản hay ngoại bang cộng sản. Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt Nam
cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải vì yêu thương hay giúp đỡ
nước Việt Nam của chúng ta. Chẳng bao giờ có tình nghĩa xã hội chủ nghĩa hay
tình nghĩa tư bản chủ nghĩa. Chỉ có ‘’quyền lợi chủ nghĩa’’ giữa các nước
mà thôi.
Nhiều câu hỏi luôn được đặt ra ngay tới tận ngày nay
1/ Cách nhận định của hai miền Nam Bắc sau Hiệp định
Genève ?
2/ Sau trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), khi Pháp quyết định
bỏ chạy khỏi Việt Nam, tại sao Hồ Chí minh không thừa thắng xông lên, chiếm lấy
tất cả Việt Nam mà lại chịu kỳ hiệp định chia đôi đất nước ?
3/ Ai vi phạm Hiệp định Genève ?
4/ Xương máu của nhân dân Việt Nam đã đem lại những lợi lọc
cho ai ?
Niềm đau nhục của dận tộc:
1/Cách nhận định của hai miền chiến tuyến :
Sự khác biệt trong nhận định của hai miền Nam Bắc sau hiệp định là :
-Miền Nam xem đó là ngày Quốc Hận vì là ngày tấm bi kịch
huynh đệ tương tàn.
-Miền Bắc xem đó là một thành quả thắng lợi.
Trong khi ngoại trưởng miền Nam, Trần Văn Hữu đã rơi lệ tại bàn Hội nghị vì viễn cảnh Trịnh
Nguyễn phân tranh xắp tái diễn. Tiếng sáo thở than của Võ Thành Minh đã tuyệt
thực ở bên hồ Leman để chống lại việc cắt đôi đất nước. Thì các lãnh tụ cộng sản thì còn đang lo hô hào cán bộ đẩy
mạnh các cuộc đấu tố để tiêu diệt giai cấp địa chủ, thực hiện tư tưởng Mao Trạch
Đông. Qua cái đạo luật “cải cách ruộng đất” vào Tháng Mười Hai năm 1953 mà Hồ Chí Minh xem là một “bước tiến” trong
cuộc cách mạng quốc tế mà ông theo đuổi. Khi một người tin mình nắm chân lý tuyệt
đối trong tay thì họ dám làm bất cứ cái gì để thực hiện chân lý đó, dù phải hy
sinh hàng triệu người chỉ là chuyện nhỏ trong vở tuồng lịch sử vĩ đại mà họ coi
là cần thiết. Hiệp định Genève đối với người cộng sản luôn luôn là một thắng lợi.
Hôm nay nhìn lại trang sử đau thương của dân tộc nhiều người
Việt Nam sống ở miền Bắc cũng công nhận việc chia đôi đất nước năm 1954 là một
mối đau nhục, gây nên cảnh nồi da xáo thịt vô ích. Nhưng chúng ta cũng phải
nhìn lại để biết phải làm gì cho một ngày mai của đất nước.
2/ Vì sao Hồ Chí Minh không thừa thắng xông lên mà chịu
ký Hiệp định Genève : Có nhiều lý do được đưa ra không ai biết chắc
đúng hay sai. Nhiều người cho là Cộng Sản Việt Nam đã chịu áp lực của Liên Xô
và Trung Cộng. Các đàn anh cộng sản này muốn kết thúc cuộc chiến ở Đông Dương,
sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Nghĩ như vậy tức là coi
như Cộng Sản Việt Nam bị ép buộc nên phải cắt đôi đất nước. Để làm áp lực, hai
nước cộng sản đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện Cộng Sản Việt Nam chịu
đến bàn hội nghị ở Genève.
Có người lại nói chính Cộng Sản Việt Nam muốn ký hiệp ước
vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải ngưng chiến để không cho Mỹ có lý do
can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The Communist Road
to Power in Vietnam” kể rằng Hồ Chí Minh đã mất công thuyết phục cánh chủ chiến
trong đảng Cộng Sản, trong phiên họp Trung Ương Đảng vào Tháng Bảy năm 1954.
Ông Hồ nói rằng những người trong Trung Ương Đảng muốn tiếp tục chiến tranh
không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp chính phủ
quốc gia của Bảo Đại, thay chỗ của Pháp.
Trong thời gian chiến cuộc Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp
đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ bằng cách ném bom chung quanh thung lũng này để tiêu diệt
quân Việt Nam đang tấn công. Không khí “chiến tranh lạnh” bao trùm thế giới từ
sau Đại Chiến Thứ Hai, cả Nga lẫn Mỹ đang nghi ngờ nhau. Bộ Quốc Phòng Mỹ vẫn
giả thiết rằng sớm muộn Nga xô sẽ đánh Âu Châu và Trung Cộng sẽ tấn công chiếm
các nước Đông Nam Á. Mà các nước trong vùng đó đều có một (hay hai) đảng Cộng Sản
địa phương đang nổi dậy, làm nội ứng. Lúc đó Mỹ đã rảnh tay ở Cao Ly mà lực lượng
máy bay bom đạn của họ vẫn sẵn sàng ở Nhật Bản và Đài Loan. Nhưng chính phủ Mỹ
đã từ chối không giúp Pháp ở Điện Biên Phủ. Nếu sau đó chính phủ Pháp chấp thuận
những điều kiện của Mỹ, thí dụ, trả lại nhiều quyền tự quyết về quân sự và ngoại
giao cho chính phủ quốc gia Việt Nam hơn, sau khi Bảo Đại đã phong nhậm một ông
thủ tướng thân Mỹ, thì việc tham dự của Mỹ có thể thành sự thật. Đó là mối lo
chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm quốc tế nhiều hơn các lãnh
tụ cộng sản khác.
Ông Duiker cũng cho là vì lo ngại Mỹ sẽ nhúng tay trực tiếp
nên Hồ Chí Minh đã lựa chọn giải pháp chia đôi Việt Nam, thay vì giải pháp
ngưng bắn tại chỗ, mỗi bên giữ phần đất mình đang kiểm soát. Trong trường hợp
ngưng bắn tại chỗ, Mỹ vẫn có thể chờ một biến cố nào đó để lấy cớ mà viện trợ
trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm đánh nhau với Việt Minh trở lại. Khi
chính phủ Mỹ không ký vào Hiệp Định Genève chia đôi Việt Nam, chúng ta có thể
hiểu là họ nghiêng về giải pháp ngưng bắn tại chỗ, vì nó thích hợp với mưu đồ của
họ hơn, đúng như ông Hồ lo ngại. Mặt khác, nếu chia đất theo lối “da beo” thì
ông Hồ khó thi hành được chương trình đấu tố trong cải cách ruộng đất mà ông đã
bắt đầu, dưới sự cố vấn của các đồng chí Trung Quốc.
Nhưng một câu hỏi thực tế là, lúc đó Việt Minh có đủ sứ
tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng? Tướng Navarre, người
chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954 lực lượng Việt Minh đã
cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Để chiếm lấy một cứ điểm
có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đã huy động gần 50,000 quân chủ lực, 55,000 quân
phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Phía Pháp chết khoảng
1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi phía Việt Nam mất 25,000 người trong đó
10,000 người chết. Nhiều người phía Việt Minh thì cho là sau khi thắng trận ở
Điện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở ra những cuộc hành quân ở vùng châu thổ
sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ
không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra, và cũng không biết các điều kiện
viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng mà Hồ Chí Minh
biết.
Tướng Navarre thì nói sau trận Điện Biên Phủ các hoạt động tấn công của Việt
Minh đã giảm hẳn đi, nhưng khi ông ta xin thêm 2 sư đoàn viện binh thì chính phủ
Pháp từ chối. Mặt khác, thủ tướng Pháp lúc đó, ông Mendes France, đã hứa trước
quốc hội khi nhậm chức là sẽ giải quyết chiến tranh Đông Dương trước ngày 21
Tháng Bảy, cho nên có ký hiệp định đình chiến thì ngôi thủ tướng của ông mới tồn
tại.
Bên cạnh các giả thuyết của các sử gia, có một tài liệu có thể coi là khách
quan đối với tình hình quân sự tại Việt Nam lúc đó, trong cuốn Hồi Ký
Khrushchev (Khrushchev Remembers), của người lãnh đạo Liên Bang Xô Viết năm
1954, bản dịch cuốn sách này xuất bản năm 1971 ở Mỹ. Gọi là khách quan, vì ông
Nikita Khrushchev rất có cảm tình với ông Hồ Chí Minh. Hơn nữa, lúc đó ông nắm
đủ các tin tức mà người ngoài không biết, do guồng máy các cố vấn Nga Xô bên cạnh
Việt Minh cũng như ở Trung Quốc cung cấp.
Khrushchev kể rằng đầu năm 1954 Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh đến Mát Cơ Va họp để
bàn một lập trường chung tại Hội Nghị Genève, “dựa trên tình hình ở Việt Nam.”
Và Khrushchev mô tả, “Tình hình rất nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến ở Việt
Nam đang trên đà sụp đổ. Các dân quân hy vọng Hội Nghị Genève sẽ dẫn tới một thỏa
hiệp ngưng bắn để họ có thể tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp...” Đó là nhận xét của Khrushchev. Ông còn thuật lại lời Chu Ân
Lai. Sau một phiên họp chung, có lúc Chu Ân Lai kéo Khrushchev vào một góc,
nói, “Đồng chí Hồ Chí Minh đã nói với tôi rằng tình hình ở Việt Nam đang tuyệt
vọng, và nếu chúng ta không tiến đến một cuộc ngừng bắn sớm, thì người Việt Nam
không thể đứng vững chống lại quân Pháp. Do đó, họ đã quyết định nếu cần sẽ rút
lui về biên giới Trung Quốc, và họ xin Trung Quốc sẵn sàng tiến quân sang Việt
Nam, như chúng tôi đã làm ở Triều Tiên. Nói cách khác, người Việt Nam muốn
chúng tôi đánh đuổi Pháp giúp họ. Chúng tôi không thể nào đáp ứng yêu cầu của đồng
chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã tổn thất quá nhiều ở Triều Tiên, cuộc chiến đó tốn
kém quá đối với chúng tôi. Chúng tôi không thể nào dự vào một cuộc chiến tranh
khác trong lúc này.”
Nghe Chu Ân Lai xong, Khrushchev đã tìm cách thuyết phục
ông ta đừng từ chối ngay, “Đồng chí không thể nào nói với ông Hồ là đồng chí sẽ
không giúp đỡ khi ông ta bị Pháp đánh phải rút quân về biên giới Trung Quốc. Tại
sao đồng chí không cứ nói dối một cách vô hại đi? Cứ để cho người Việt Nam họ
tin là đồng chí sẽ giúp họ nếu cần, cái đó sẽ khích lệ họ chiến đấu chống quân
Pháp hăng hái hơn.” Chu Ân Lai đã nghe lời khuyên đó, Khrushchev kể, ông ta
“không nói với ông Hồ là Trung Quốc sẽ không đánh nhau với Pháp trên lãnh thổ
Việt Nam.”
Chúng ta có thể tin những lời Khrushchev thuật lại là đúng, vì ông ta tỏ ra
rất hâm mộ Hồ Chí Minh. Lần đầu Khrushchev gặp ông Hồ là vào Tháng Hai năm
1950, khi ông Hồ sang Mát Cơ Va xin Stalin viện trợ. Khrushchev mô tả Hồ Chí
Minh là một con người “thành thật, nhân từ,
trong sáng;” và nói rằng “Ông ta có
thể chinh phục tất cả mọi người với tấm lòng chân thành và niềm tin tưởng không
thể nào lay chuyển của ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tốt nhất cho dân tộc ông
và cho cả loài người.” Khrushchev tả Hồ Chí Minh có đôi mắt “chân thành trông thơ ngây như trẻ em.” Khrushchev
ca ngợi, coi Hồ Chí Minh đáng là một vị “thánh tông đồ” của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng cáo già Stalin thì không tin. Trong cuộc gặp gỡ đầu
năm 1950 này, Hồ Chí Minh đã rút ra một tờ báo hình ảnh của Liên Xô, có hình
Stalin, xin ông ta ký tên vào đó làm kỷ niệm. Stalin vui vẻ ký, nhưng sau đó đã
ra lệnh mật vụ tới phòng Hồ Chí Minh lén thu hồi lại, vì Stalin cũng sợ ông Hồ
sẽ lợi dụng, theo lời Khrushchev thuật. Mọi người đều biết hồi ông Hồ ở bên
Trung Quốc và làm việc cho OSS, tổ chức tình báo Mỹ, ông có xin Tướng
Chennault, chỉ huy phi đoàn Cọp Bay của Mỹ ở Trung Quốc, ký tặng Hồ một bức
hình. Sau đó ông Hồ mang bức hình về Việt Nam, rồi khi họp hội nghị Tân Trào
thì đem bức hình đó trưng bày, để mọi người nghĩ rằng ông đã được Mỹ ủng hộ, mà
Mỹ thì đang thắng Nhật. Chưa chắc Stalin biết câu chuyện này, nhưng một lãnh tụ
cộng sản như ông ta thì chắc cũng hiểu là không nên tin tưởng những lãnh tụ cộng
sản khác.
Câu chuyện Khrushchev kể trong cuốn hồi ký về cuộc đối
thoại với Chu Ân Lai có thể hoàn toàn là thật. Vì ông ta không có lý do nào để
nói dối. Chu Ân Lai chắc cũng không cần bịa chuyện ra nói với Khrushchev. Năm
1954 là lúc bang giao giữa hai nước Nga-Hoa còn rất thân thiện, mà nếu Chu Ân
Lai nói dối thì Khrushchev có thể kiểm tra lại, biết liền. Cho nên chúng ta có
thể tin rằng Hồ Chí Minh quả thật đã thú nhận với cả hai lãnh tụ Nga và Trung
Quốc tình hình lực lượng Việt Minh đang lo bị thua tới mức có thể phải rút sang
Trung Quốc. Cũng có thể tin được là năm 1954, Hồ Chí Minh đã xin Trung Cộng đem
quân vào Việt Nam.
Khi Chu Ân Lai nói với Khrushchev rằng Trung Cộng không
thể tham dự một cuộc chiến nữa, sau khi đã tiêu hao lực lượng ở Cao Ly, điều
này cũng đúng. Nhiều người vẫn nghĩ là chính Stalin thúc đẩy Trung Cộng đem
quân sang Cao Ly để làm tiêu mòn lực lượng nước cộng sản anh em này, vì ai cũng
biết chính Stalin bật đèn xanh cho Kim Nhật Thành gây chiến. Nhưng sau khi ký
hiệp ước đình chiến ở Cao Ly, Trung Cộng đã thấy sự thiệt hại của họ quá lớn,
cho nên không muốn dính vào một cuộc chiến khác. Theo William Duiker thì vào Mùa Thu năm 1953,
Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles đã cảnh cáo nếu Trung Cộng dính vào Chiến Tranh
Đông Dương thì sẽ “có hậu quả nghiêm trọng” khiến Bắc Kinh chấp nhận chính sách
ôn hòa của Nga Xô, sau khi ông Stalin qua đời.
Như vậy thì việc ký Hiệp Định Genève một phần là do Hồ Chí Minh lo sợ nếu
tiếp tục chiến tranh thì Mỹ sẽ can thiệp, mà sức lực Việt Minh lúc đó đang yếu;
một phần khác cũng vì chủ trương ôn hòa của Nga Xô khiến cho ông Hồ lo ngại nếu
không theo thì sẽ không còn được Nga và Trung Quốc viện trợ như trước nữa. Bản hiệp định chia đôi đất nước đó dẫn tới cuộc chiến tranh
Nam Bắc làm chết mấy triệu người Việt Nam, cũng vì ông Hồ là một người cộng sản
kiên cường, đúng như ông Khrushchev ca ngợi. Ông “thánh cộng sản” đó muốn cả
hai miền Nam Bắc đều phải sống dưới chế độ cộng sản để tiến hành việc “giải
phóng” cả vùng Đông Nam Á và cả thế giới. Chính phủ Ngô Đình Diệm
lúc đó không chịu ký vào Hiệp Định Genève, cũng vì không muốn chịu trách nhiệm
trước lịch sử việc tái diễn Hận Sông Gianh.
3/Ai vi phạm Hiệp định Genève ? :
Có thể nói không ai vi phạm cả vì Hiệp Định Đình Chỉ Chiến
Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự,
nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không
đề cập đến giải pháp chính trị. Có nghĩa là không phải là một Hiệp định Hòa
Bình.
Và điểm đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào bản
‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường nầy, một văn
kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được chú ý và ít được sách báo viết đến
?
Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa mãn những đòi hỏi về phía
khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và ấn định lịch Tổng
Tuyển Cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ý nguyện của chính phủ Quốc Gia Việt
Nam. Pháp quyết ký Hiệp Định Genève (20.7.1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi
ba nước Đông Dương, không còn liên hệ gì đến Việt Nam. Như thế, Pháp dựa vào tư
cách nào để ấn định lịch Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước
Việt Nam? Lịch Tổng Tuyển Cử nầy lại không được các phái đoàn tham dự ký kết để
bảo đảm thi hành. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy cộng sản luôn luôn ký kết hiệp ước
để làm kế hoãn binh và không bao giờ tôn trọng hiệp ước đã ký kết, huống gì là
những văn bản không có chữ ký như bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève
1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954.
I/Tình hình thế giới đưa đến HỘI NGHỊ GENÈVE
Chiến tranh Triều Tiên kết thúc bằng hiệp ước đình chiến
được ký kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjon), ngày 27.7.1953, chia Triều Tiên thành
hai vùng Bắc và Nam Triều Tiên, ranh giới là vĩ tuyến 38. Đây chỉ là hiệp ước
đình chiến, chứ không phải là hòa ước giữa các bên lâm chiến. Dầu vậy, hiệp ước
và giải pháp chia hai nước Triều Tiên được một số nước, kể cả Pháp, xem là mẫu
mực để giải quyết vấn đề Đông Dương.
Ngày 4.8.1953 Liên Xô đề nghị họp Hội Nghị ngũ cường gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ,
Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào tháng 9.1953 để tiếp tục giải quyết
những tranh chấp ở Triều Tiên, đồng thời tại khu vực Á Châu, trong đó nóng bỏng
nhất là vấn đề Việt Nam.
Đề nghị nầy bị Hoa Kỳ bác bỏ ngày 2.9.1953. Trong cuộc họp
tay ba Anh, Pháp và Hoa Kỳ trong ba ngày kể từ 16.10.1953, cả ba nước đưa ra
tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Liên Xô, chủ yếu vì các cường quốc Tây
phương không muốn thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là một cường quốc ngang
hàng với họ. Lúc đó, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chưa được vào Liên Hiệp Quốc.
Chiếc ghế thường trực tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc do Trung Hoa Dân Quốc
(Đài Loan) nắm giữ.
Lúng túng trong chiến tranh Việt Nam, ngày 27.10.1953, Thủ
Tướng Pháp là Joseph Laniel tuyên bố sẵn sàng tìm kiếm cơ hội tái lập hòa bình ở
Đông Dương. Ông được Quốc Hội Pháp ủng hộ để thương thuyết và đi đến một giải
pháp chính trị. Ra trước Thượng Viện Pháp ngày 12.11.1953, Thủ Tướng Laniel lập
lại ý kiến trên thêm một lần nữa. Laniel hy vọng kế hoạch hành quân của Đại Tướng
Henri Navarre tại Việt Nam sẽ có thể đem lại thành công trên chiến trường, để
có thể thương thuyết trong thế mạnh.
Đề nghị của Laniel được phía cộng sản đáp ứng ngay. Trong
một cuộc phỏng vấn của báo Expressen (Norway = Na Uy) vào cuối tháng 10.1953, Hồ
chí Minh cho biết rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do đảng lao động và
mặt trận Việt Minh điều khiển, sẵn sàng tìm hiểu các đề nghị của Pháp và chỉ
thương thuyết với Pháp, chứ không nói chuyện với chính phủ Quốc Gia Việt Nam do
cựu Hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng.
Về phía Liên Xô, vừa trả lời cho tam cường Tây phương, vừa
trả lời cho đề nghị của Thủ Tướng Pháp (Laniel), Ngoại Trưởng Mikhailovich
Molotov tuyên bố ngày 26.11.1953 đồng ý tham dự Hội Nghị tứ cường Anh, Pháp,
Hoa Kỳ, và Liên Xô, nhưng dành quyền sẽ triệu tập Hội Nghị ngũ cường sau đó.
Mãi đến ngày 29.11.1953, bài phỏng vấn Hồ chí Minh mới được báo Expressen công
bố, và được Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh đăng lại ngày 1.12.1953, kèm theo bài
xã luận hoàn toàn ủng hộ lập trường của Việt Minh.
Ngày 6.12.1953, theo quyết định của các cố vấn Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa, quân đội Việt Minh bắt đầu mở cuộc tấn công Điện Biên Phủ.
Một tuần sau, Hồ chí Minh tuyên bố chấp nhận thương thuyết với Pháp ngày
14.12.1953. Hỗ trợ ý kiến của Hồ chí Minh, ngày 26.12.1953, Liên Xô đưa ra đề
nghị họp tứ cường tại Berlin ngày 25.1.1954, và được các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ
chấp thuận.
Vào ngày nói trên (25.1.1954), Hội Nghị tứ cường vừa khai mạc tại Berlin,
thì Ngoại Trưởng Liên Xô, Mikhailovich Molotov, đề nghị mời Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa cùng họp để giải quyết các vấn đề tranh chấp trên thế giới. Mãi đến
ngày 18.2.1954, ý kiến của Liên Xô mới được ba nước Tây phương đồng ý. Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa được mời tham dự Hội Nghị Genève, sẽ bắt đầu từ ngày
26.4.1954 để bàn về các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.
Hội Nghị ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa tại Genève chính thức khai mạc ngày 26.4.1954, một ngày bàn
về Đông Dương, một ngày bàn về Triều Tiên. Liên Xô đề nghị mở rộng những nước
tham dự bằng cách mời thêm các phe lâm chiến ở Đông Dương. Ý kiến nầy được chấp
thuận tại phiên họp ngày 2.5.1954. Như thế, về vấn đề Đông Dương, hội nghi
Genève sẽ có tất cả là 9 phái đoàn tham dự: Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh),
Lào và Cambodge (Cambodia).
Hội Nghị Genève về Đông Dương với sự tham dự của 9 phái
đoàn, chính thức khai mạc ngày 8.5.1954. Một ngày trước đó, cứ điểm Điện Biên
Phủ tại Việt Nam của liên quân Pháp-Việt bị thất thủ vào tay quân đội Việt Minh
ngày 7.5.1954.
II.- HỘI NGHỊ GENÈVE
Hội Nghị Genève về vấn đề Đông Dương có thể chia thành hai giai đoạn: Giai
đoạn thứ nhất từ khi khai mạc (8.5.1954) đến khi tạm nghỉ ngày 20.6.1954. Giai
đoạn thứ hai bắt đầu từ ngày 10.7 đến ngày 21.7.1954. Giữa hai giai đoạn là sự
thay đổi chính phủ tại Pháp và Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai (Trung Cộng)
và Hồ chí Minh (Việt Minh).
GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT HỘI NGHỊ GENÈVE
Hội Nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ,
Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là
Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh), Lào, Cambodge
(Cambodia), bắt đầu ngày 8.5.1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.
Thời điểm khai mạc Hội Nghị Genève về Đông Dương rõ ràng rất thuận lợi cho
phía cộng sản: Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa lúc đó chưa rạn nứt mà còn liên lạc ngoại giao gắn bó trong tinh thần
cộng sản quốc tế, tích cực giúp đỡ Việt Minh. Trong khi đó, sau khi thất trận
Điện Biên Phủ (7.5.1954), nội tình nước Pháp chia rẽ. Pháp đang muốn kiếm cách
rút lui khỏi Đông Dương. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam gặp nhiều khó khăn, quân đội
mới được thành lập nên chưa vững mạnh.
Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định
cầm đầu khi Hội Nghị bắt đầu. Sau đó, để tăng cường, Quốc Gia Việt Nam gởi phó
Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh làm Trưởng Đoàn, Nguyễn Quốc Định phụ tá. Khi Ngô
Đình Diệm chấp chánh ngày 7.7.1954, thì tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đến thay
Nguyễn Trung Vinh. Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lãnh đạo. Lúc đó ông Đồng
đã được chỉ định làm Phó Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Sau gần 20 ngày hội họp tại Genève, ngày 26.5.1954, Pháp
và Việt Minh thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam, rút quân về những khu vực chỉ định.
Phạm văn Đồng đề nghị cách phân chia thật giản dị là chia hai nước Việt Nam ở vĩ
tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa quyết định. Anh Quốc
tán thành, Hoa Kỳ phản đối. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam chủ trương thống nhất,
không chia cắt. Tại Sài Gòn, Thủ Đô của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, Quốc Dân Đại
Hội họp phiên bất thường cũng trong ngày 26.5.1954, phản đối mạnh mẽ việc chia
hai đất nước.
Tại Genève, trong cuộc họp mật riêng với Pháp ngày 10.6.1954, Tạ quang Bửu,
Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Minh, nói với đại diện Pháp là Delteil rằng:
‘’Chúng tôi cần một thủ đô [Hà Nội] và cần một hải cảng
[Hải Phòng]’’. Hội Nghị toàn thể tại Genève gặp bế tắc ngày 12.6 khi phái đoàn Việt Minh
không chấp nhận sự kiểm soát quốc tế, mà đòi rằng ban kiểm soát chỉ có đại diện
Pháp và Việt Minh. Việt Minh còn đòi giải pháp ngưng bắn ở Đông Dương bao gồm
luôn cả vấn đề Việt-Miên-Lào.
Khi họp riêng ngày 15.6.1954, với đại diện Liên Xô (Ngoại
Trưởng Molotov) và đại diện Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Thủ Tướng kiêm Ngoại
Trưởng Châu Ân Lai), Phạm văn Đồng bị đại diện hai nước nầy ép phải chấp nhận
những giải pháp riêng biệt về ba nước Đông Dương, nghĩa là Việt Minh phải rút
quân ra khỏi Lào và Miên. Kể từ 20.6.1954, các Ngoại Trưởng tạm nghỉ và về nước
tham khảo ý kiến.
NHỮNG DIỄN TIẾN TRONG THỜI GIAN HỘI NGHỊ GENÈVE TẠM NGHỈ
Mendès France, Thủ Tướng Pháp: Sau thất bại
Điện Biên Phủ (7.5.1954), chẳng những Pháp thay lãnh đạo ở Đông Dương, mà thay
luôn cả chính phủ Pháp ở Paris. Nội các Joseph Laniel từ chức ngày 13.6.1954,
và Mendès-France, người Pháp gốc Do Thái, thuộc đảng Xã Hội Cấp Tiến
(Socialiste Radical), một thành viên Hội Tam Điểm Pháp, được mời lập chính phủ.
Điều trần trước Quốc Hội Pháp, Mendès-France tuyên bố sẽ
giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ (chưa đầy một tháng). Nói
cách khác, với ý nguyện của Quốc Hội Pháp, chính phủ Mendès-France quyết định bỏ
rơi Quốc Gia Việt Nam, và bằng mọi giá ký kết hiệp ước đình chiến, rút quân
Pháp ra khỏi Đông Dương. Mendès-France chính thức nhậm chức ngày 21.6.1954. Nếu
tính thêm bốn tuần lễ thì vào khoảng 21.7.1954.
Hội Nghị Liễu Châu: Trong thời gian nghỉ họp,
Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp qua Liễu
Châu (Liuzhou), thuộc Tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), hội họp từ ngày
3.7.1954.
Trong cuộc gặp gỡ nầy, đại để Châu Ân Lai cho rằng có ba cách để đối phó với
tình hình mới:
1.- Thượng sách là hòa.
2.- Trung sách là đánh rồi hòa.
3.- Hạ sách là đánh tiếp.
Châu Ân Lai khuyên Hồ chí Minh chấp nhận thượng sách là
hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu tiếp tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ
can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng biệt chuyện Lào và
Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm
chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên Việt Minh không nên đòi hỏi thái
quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp.
Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp
vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ sẽ có thể lật ngược
tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây.
Như vậy Việt Minh sẽ đuổi được kẻ địch yếu, nhưng lại rước
kẻ địch mạnh. Hơn nữa, Việt Minh nên giúp Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France,
để ông ta không bị Quốc Hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès-France không thành công,
chính phủ Mendès-France sẽ bị đổ, thì có thể sẽ bất lợi đối với phía cộng sản.
Về phía phái đoàn Việt Minh, trong Hội Nghị nầy, Võ
nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, thì chỉ rút những người làm công tác
chính trị bị lộ diện, phần còn lại thì ở lại miền Nam chờ thời cơ, có thể khoảng
10,000 cán bộ.
Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và Hồ chí Minh kết thúc sau phiên họp
cuối cùng tối ngày 5.7.1954. Nhân Dân Nhật Báo của Bắc Kinh ngày 8.8.1954, đăng
‘’Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung Việt của chính phủ Trung Quốc’’, được dịch
nguyên văn như sau:
‘’Thủ Tướng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Châu Ân Lai
và Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ chí Minh đã cử hành hội đàm tại
biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ Tướng Châu Ân
Lai và Chủ Tịch Hồ chí Minh đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hòa
bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia Hội Nghị còn có:
Hoàng văn Hoan, Đại Sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc và Kiều
Quán Hoa, cố vấn Đoàn Đại Biểu nước Cộng Hòa Nhận Dân Trung Hoa tại Hội Nghị
Genève’’.
Về lại Việt Nam, Hồ chí Minh họp bộ chính trị đảng lao động
(tức đảng cộng sản Việt Nam) tại Thái Nguyên, ra nghị quyết theo quyết định của
Hội Nghị Liễu Châu, nghĩa là Việt Minh chấp nhận giải pháp chia hai đất nước, tạm
thời hòa hoãn và chuẩn bị tiếp tục tranh đấu sau khi ký kết hiệp ước đình chiến.
Chủ trương mới nầy được Hồ chí Minh nêu ra trong báo cáo ngày 15.7.1954 tại
Hội Nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương đảng lao động (tức đảng cộng sản)
khóa II từ 15 đến 17.7.1954 tại Việt Bắc, trong đó có đoạn viết: ‘’Trước kia khẩu
hiệu của ta là: ‘’Kháng chiến đến cùng’’. Nay vì tình hình mới, ta cần nêu khẩu
hiệu mới là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ’’.
Trong khi đó, thực hiện sự thỏa thuận ngày 26.5 tại Hội
Nghị Genève, các phe lâm chiến ở Việt Nam mở Hội Nghị Trung Giá từ ngày 4 đến
27.7.1954 để bàn về chi tiết việc ngưng bắn. Trung Giá, hay Trung Giã, nằm về
phía Nam Thị Xã Thái Nguyên khoảng 30 cây số. Đại diện cho Pháp là Đại Tá
Lennuyeux, đại diện cho Quốc Gia Việt Nam là Thiếu Tá Nguyễn Phước Đàng, đại diện
cho Việt Minh là Thiếu Tướng Văn tiến Dũng.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI HỘI NGHỊ GENÈVE
Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France đích thân đến Genève
để hội đàm với Ngoại Trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov ngày 10.7, và Ngoại
Trưởng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Châu Ân Lai trong hai ngày 12 và 13.7.
Pháp, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thỏa thuận giải pháp chia hai nước
Việt Nam. Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ
tuyến 17. Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm văn Đồng, đại biểu của Việt Minh,
Châu Ân Lai áp đặt ý định của các cường quốc. Phạm văn Đồng đành chấp nhận. Đại
Biểu Quốc Gia Việt Nam là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước bất
cứ ở đâu.
Cuối cùng, sau những tranh cãi và mặc cả vào buổi chiều
ngày 20.7.1954, hiệp ước đình chiến được soạn thảo xong và ký kết sau 12 giờ
đêm 20.7, qua sáng 21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở trụ sở ký kết vẫn giữ nguyên ở
12 giờ đê 20.7.1954.
III.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh xưng chính thức của Hiệp Định Genève là Hiệp Định
Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam. Hiệp Định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp
và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp ước đình chiến
Genève là Henri Delteil, Thiếu Tướng, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp
Pháp ở Đông Dương và Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa. Các nước khác cùng ký vào Hiệp Định Genève còn có Anh, Liên
Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Lào, Cambodia. Hai chính phủ Quốc
Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bản Hiệp Định nầy. Hiệp Định
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính
như sau:
- Việt Nam chia làm hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời
từ cửa sông Bến Hải (Tỉnh Quảng Trị), theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên
giới Lào Việt. [Không nói đến vĩ tuyến 17. Trong thực tế, sông Bến Hải ở vĩ tuyến
17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa ở phía Bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía Nam.
- Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng
5 cây số mỗi bên, để làm ‘’khu đệm’’, có hiệu lực từ ngày 14.8.1954.
- Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ
ngày Hiệp Định có hiệu lực.
- Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27.7 ở Bắc Việt,
1.8 ở Trung Việt và 11.8 ở Nam Việt.
- Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ
chức nền hành chánh riêng.
- Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay
ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương.
- Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ
khu nầy sang khu thuộc phía bên kia.
- Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân
sự mới.
- Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời
hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn.
- Sự giám sát và kiểm soát thi hành Hiệp Định sẽ giao cho
một Ủy Ban Quốc Tế.
- Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng
bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam
Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở
khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam chỉ là một Hiệp Định
có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjon
(Bàn Môn Điếm) ngày 27.7.1953, Hiệp Định đình chiến Genève không phải là một
hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
IV.- BẢN TUYÊN BỐ CUỐI CÙNG KHÔNG CHỮ KÝ
Sau khi Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam được ký kết, các phái đoàn họp
tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’
bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève
1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’. Đây
chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương
lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào Bản Tuyên Bố nầy,
nghĩa là Bản Tuyên Bố không có chữ ký.
Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái
đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng ý’’. Phái
đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố
riêng của mình.
Bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương’’ gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy
ghi rằng:
‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết
các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự
tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự
do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết
cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức
vào tháng 7.1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước
có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ
Chiến Sự. Kể từ ngày 20.7.1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng
sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó’’.
Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị
trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống
nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức
Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc.
Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc
và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định
Genève chỉ là một Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự (đình chiến) mà không đưa ra một
giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về
một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào
năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954
về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’.
Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ,
Trưởng Phái Đoàn, giải thích vì sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký kết Hiệp
Định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội
Pháp tự ý ký kết Hiệp Định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc
Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam viết:
‘’Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi
nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định
cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ
Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn
toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công
cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở’’.
Vì phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký vào Bản Hiệp Định
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là không tham dự vào bản
‘’Tuyên bố cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị
ràng buộc vào điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.
Về phía Hoa Kỳ, Trưởng Phái Đoàn là Bedell Smith cũng đưa
ra bản tuyên ngôn ngày 21.7.1954 theo đó, tuy không ký vào Hiệp Định, nhưng Hoa
Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng võ lực để sửa đổi Hiệp Định, Hoa Kỳ sẽ nghiêm
xét bất cứ một hành vi tái gây hấn vi phạm thỏa hiệp trên, đe dọa hòa bình và
an ninh thế giới, Hoa Kỳ tôn trọng việc thực hiện thống nhất Việt Nam bằng Tổng
Tuyển Cử tự do đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Ông Bedell Smith kết luận:
‘’Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng rằng các thỏa hiệp nầy sẽ
cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị của họ, trong độc lập hoàn
toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu chuộng hòa bình của các quốc gia,
và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng đó có thể tự định đoạt lấy tương lai của
mình’’.
V.- VIỆC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Hội Nghị Genève kết thúc với ba văn kiện chính thức (ngày 20.7.1954) và một
Bản Tuyên Bố chung (ngày 21.7.1954) là:
1.- Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.
2.- Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Lào.
3.- Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Cambodge (Cambodia).
4.- Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề
lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngoài bốn văn kiện trên, còn có hai văn kiện do hai phái đoàn đưa ra là:
1.- Tuyên ngôn của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.
2.- Tuyên ngôn của phái đoàn Hoa Kỳ.
Cần chú ý hai điểm:
Thứ nhất, Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức
Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút
quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải
pháp chính trị.
Thứ hai, không có phái đoàn nào ký tên vào bản ‘’Tuyên
bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’
ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng
là sự việc bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được
chú ý và ít được sách báo viết đến.
Điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy mở đầu bằng câu ‘’Hội Nghị
tuyên bố rằng đối với Việt Nam...’’ (La Conférence déclare qu’en ce qui
concerne le Vietnam…), nghĩa là về vấn đề Việt Nam, Hội Nghị nghĩ rằng, đưa ra
ý kiến rằng, hay dự kiến rằng…một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ được tổ chức vào tháng
7.1956…, còn làm theo hay không làm theo, nghĩa là thi hành hay không thi hành,
là tùy các bên liên hệ. Hội Nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên
liên hệ cam kết là sẽ thi hành Tổng Tuyển Cử, vì bằng chứng rõ ràng nhất là Hội
Nghị không yêu cầu bên nào ký vào Bản Tuyên Bố nầy, để cam kết hay để giữ lời
cam kết. Những Hiệp Định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống
gì là những Bản Tuyên Bố không chữ ký.
Hơn nữa, đây là một Bản Tuyên Bố
chứ không phải là một bản hiệp ước. Môt Bản Tuyên Bố lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn
nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương, có được xem
là một văn kiện có giá trị pháp lý để thi hành hay không ?
Vì những lý do căn bản nầy, bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của
Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’, trong đó đặc biệt
điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy về dự kiến một cuộc Tổng Tuyển Cử trong năm 1956,
không có tính cách pháp lý để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành.
Nói cho cùng, có thể nói rằng Bản Tuyên Bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một
giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương sau khi hai bên đình chiến.
Tinh thần của Bản Tuyên Bố Genève ngày 21.7.1954 khiến người ta liên tưởng
đến ‘’Tối hậu thư Potsdam’’ mà các nước
Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật Bản ngày
26.7.1945. Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu
hàng vô điều kiện và quy định rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới
quân đội Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội Nhật
ở phía Nam vĩ tuyến 16 (ngang qua Tam Kỳ). Tuy
nhiên tối hậu thư nầy không đề cập đến việc ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi
quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp
chính trị cho Đông Dương.
Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính
trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những quyết định trong tối hậu thư
Potsdam được thi hành, vì nếu Nhật đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo
trợ, cũng sẽ sụp đổ, thì ai sẽ là người có thẩm quyền tại Đông Dương ? Đây là
thâm ý của Anh và Hoa Kỳ, cố tình bỏ ngỏ khoảng trống chính trị để tạo điều kiện
cho Pháp trở lại Đông Dương.
Nay bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ cũng đi vào vết
xe cũ, không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương,
ngoài một Bản Tuyên Bố không có người ký. Từ đó, các bên liên hệ đến Bản Tuyên
Bố có thể tùy tiện giải thích Bản Tuyên Bố một cách khác nhau, tùy theo chủ
trương chính sách của mỗi bên, và nhất là tùy theo ‘’lý
của kẻ mạnh’’.
Ngay trong Hội Nghị Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày
5.7.1954, cả Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lẫn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thỏa
thuận tạm hòa để tiếp tục chiến tranh. Cũng trong Hội Nghị Liễu Châu, những nhà
lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã trình bày kế hoạch hậu chiến, trường kỳ
mai phục, gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền Nam để chờ đợi thời cơ nổi dậy.
Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam, vi phạm Hiệp Định Genève đã được
phía cộng sản dự tính trước khi ký kết Hiệp Định.
Cho đến nay, chưa có một giải thích cụ thể nào cho biết tại sao bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương’’, lại không không có chữ ký của phái đoàn các nước ?
Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái đoàn quá mệt mỏi với những tranh
cãi triền miên, nên chỉ hỏi ý kiến bằng miệng cho chóng thông qua ? Hay phải
chăng có một âm mưu muốn tính chuyện về sau, nên chỉ hỏi bằng miệng để bỏ ngỏ vấn
đề, nhằm dọn đường cho những tính toán chính trị kế tiếp sau Hiệp Định Genève ?
Và ai là người đã chủ xướng biện pháp chính trị lập lững nầy ? Nước nào chủ
xướng thì chưa biết, nhưng chính phủ Quốc Gia Việt Nam rất yếu thế, ngay từ đầu
lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối Hiệp Định Genève, nên chắc chắn Quốc
Gia Việt Nam không phải là nước chủ xướng.
Ngày 22.7.1954, Thủ Tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là
Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt Nam. Tuy nhiên cuối
cùng chính phủ Quốc Gia Việt Nam vẫn chấp nhận thi hành Hiệp Định Genève ngày
20.7.1954, chia hai đất đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17. Như thế, từ
năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam, có hai chính phủ riêng biệt, theo hai chính
thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng biệt.
Thi hành Hiệp Định đình chiến Genève, việc ngưng bắn
chính thức có hiệu lực ngày 27.7.1954 tại Bắc Việt, ngày 1.8.1954 tại Trung Việt,
và ngày 11.8.1954 tại Nam Việt. Vấn đề cấp thời của hai chính phủ là tập trung
và di chuyển quân đội, công chức, cán bộ của mình và cả dân chúng, về khu vực
cai trị của mình. Điều 2 của Hiệp Định Genève (20.7.1954) cho phép thực hiện việc
di chuyển các lực lượng của hai bên về vùng tập hợp ở hai bên giới tuyến tạm thời
trong thời gian 300 ngày.
Ngày 9.10.1954 là hạn chót cho những người muốn di cư vào
Nam di tản khỏi Hà Nội. Hôm sau, ngày 10.10.1954, quân đội Việt Minh vào tiếp
thu Hà Nội. Chủ Tịch ủy ban quân quản Hà Nội của Việt Minh là Vương thừa Vũ tức
Nguyễn văn Đồi, người đã chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội ngày 19.12.1946 và trở
thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của Việt Minh là sư đoàn 308. Hải Phòng, điểm tập
trung đồng bào miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền Nam, do Việt Minh tiếp
thu ngày 13.5.1954. Ba ngày sau, toán lính Pháp cuối cùng rút lui khỏi Đảo Cát
Bà (Vịnh Hạ Long, vùng Hải Phòng) ngày 16.5.1955. (Nếu tính từ ngày ngưng bắn
có hiệu lực ở Bắc Việt (27.7.1954) cho đến ngày 16.5.1955 là 9 tháng 20 ngày.)
Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc không được thống kê đầy
đủ. Theo sự trình bày của Võ nguyên Giáp tại Hội Nghị Liễu Châu (Quảng Tây,
Trung Hoa) từ ngày 3.7.1954 giữa Hồ chí Minh và Châu Ân Lai, trước khi chiến
tranh kết thúc, Việt Minh dự tính bước đầu rút khoảng 60.000, trong đó 50.000
người là bộ đội và 10.000 người làm công tác chính trị, nhất là những người ‘’đỏ’’ quá,
không thể ở lại. Ngoài ra, Việt Minh dự tính sẽ lưu lại miền Nam từ 5.000 đến
10.000 người để chờ thời cơ, và vũ khí nào cất giấu được thì cất giấu sau khi
quân đội rút đi. Theo một tài liệu khác cũng của cộng sản, số người tập kết ra
Bắc khoảng 175.000 người và 15.0000 học sinh. Số lượng nầy có thể đã được phóng
đại và không thể kiểm chứng được.
Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần
900.000 người. Trong số nầy, nhân viên chính quyền (tức công chức) và quân nhân
chiếm một phần ít, còn đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn
lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng là đợt di dân nội địa lớn lao nhất
trong lịch sử nước ta.
Vài điểm đáng chú ý về cuộc di cư vĩ đại của dân chúng miền
Bắc vào miền Nam như sau:
Thứ nhất, số người ra đi đông đảo như trên rời đất Bắc có lợi cho đảng lao động, vì
những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo
các đảng phái Quốc Gia, đều rút về miền Nam, nên không còn, hay ít còn người ở
lại đối kháng với chế độ mới ở ngoài Bắc.
Thứ hai, người Việt Nam vốn rất ràng buộc với quê cha đất tổ, mà gần một triệu người
đành phải bỏ xứ ra đi. Trong chiến tranh, bộ máy tuyên truyền của Việt Minh
luôn luôn ca tụng chế độ cộng sản và chê bai chính thể Quốc Gia Việt Nam. Nay
cuộc di cư vĩ đại có thể xem là cuộc trưng cầu dân ý cho thấy số người miền Bắc
chọn lựa vào miền Nam đông hơn số người miền Nam tập kết ra Bắc, chứng tỏ lòng
dân như thế nào đối với chế độ của đảng lao động (tức là đảng cộng sản Việt
Nam)?
Thứ ba, sự chọn lựa nầy củng cố niềm tin nơi chính phủ Quốc Gia Việt Nam, giúp
chính phủ Quốc Gia Việt Nam vững tâm hành động, và làm tăng giá trị của chính
thể Quốc Gia Việt Nam đối với thế giới.
Thứ tư, ngoài những cán bộ cộng sản được cài lại ở miền Nam, sống lẫn lút trà trộn
trong dân chúng, chắc chắn đảng lao động không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt
cán len lõi vào đoàn người di cư vào miền Nam để làm tình báo.
Đúng một năm sau Hiệp Định Genève, để kiếm cớ gây chiến,
Phạm văn Đồng, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Bắc Việt gởi thư ngày
19.7.1955 cho Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam tức Nam Việt là Ngô Đình Diệm, yêu cầu
mở Hội Nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20.7.1955, để bàn về việc Tổng Tuyển Cử
thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp Định Genève.
Ngày 10.8.1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị
của Thủ Tướng Phạm văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam
không ký vào Hiệp Định Genève và nhất là vì không có bằng chứng nào cho thấy Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi quốc tế cộng sản.
Chính thể Quốc Gia Việt Nam đổi thành Việt Nam Cộng Hòa
vào ngày 26.10.1955. Tuy chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nhiều lần từ chối, Phạm
văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11.5.1956, 18.7.1957,
và 7.3.1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng
Thống Việt Nam Cộng Hòa, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26.4.1958.
Do vào sự bác bỏ của của chính phủ Nam Việt, Bắc Việt tố cáo chính phủ Nam
Việt không tôn trọng Hiệp Định Genève. Trong khi đó, Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định đình chiến và đã được
các phe liên hệ tức là chính phủ Việt Minh và chính phủ Quốc Gia Việt Nam thi
hành xong ngay từ 1954, chia hai nước Việt Nam thành Bắc Việt và Nam Việt dưới
sự giám sát của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, gồm đại diện các nước
Canada (Gia Nã Đại), Poland (Ba Lan), India (Ấn Độ). Còn bản ‘’Tuyên bố cuối
cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ không
có chữ ký, thì chẳng có giá trị pháp lý để thi hành. Tuy nhiên, kẻ gây hấn thì
luôn luôn có lý do để gây hấn.
4/ Cuối cùng đất nước của chúng ta trở thành nơi thử nghiệm
các phương tiện kỹ thuật giết người của Hoa-kỳ và Liên-xô. Và khi Mao Trạch Đông chiếm
lục địa Trung Quốc, các cường quốc Tây phương không công nhận Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc và không cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc thay thế Trung Hoa Dân Quốc
tại Liên Hiệp Quốc. Nhờ chiến tranh Việt Nam,
Trung Quốc được các cường quốc mời họp Hội Nghị Genève. Nghĩa là Trung Quốc được
ngồi ngang hàng với các cường quốc Tây phương nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ
xương máu của dân tộc Việt Nam. (Việc nầy tái diễn trong chiến tranh 1960-1975,
vì do cuộc chiến nầy, Nixon qua Bắc Kinh dàn xếp với Mao Trạch Đông và Châu Ân
Lai. Sau đó, Hoa Kỳ mở cửa cho Trung Quốc cộng sản vào Liên Hiệp Quốc.)
Publié par Caroline Thanh Huong à lundi, avril 13, 2015
No comments:
Post a Comment