Toàn cầu hóa là gì?
Toàn cầu hóa là gì? Toàn cầu hóa kinh tế khái niệm thách thức và xu hướng
28/04/2019 NO COMMENTS
CHIA SẺ
Nội dung [show]
Toàn Cầu Hóa là một câu chuyện thời sự sôi nổi hiện nay.
Trên mặt báo hàng ngày cũng như hàng tuần và trên màn ảnh truyền hình dường như
không ngày nào không có những tin tức nóng bỏng về chuyện toàn cầu hóa. Trong
thư viện cũng như trong các tiệm sách đều có một vài ngăn tủ dành cho những
sách và tập san chuyên luận viết về vấn đề này. Toàn Cầu Hóa không phải là một
vấn đề đơn giản, toàn cầu hoá liên hệ tới tất cả mọi người trên thế giới, trên
mọi mặt từ kinh tế chính trị, khoa học, y học sang văn học xã hội và tập tục của
mọi sắc dân.
Người ủng hộ trào lưu toàn cầu hóa rất đông, rất mạnh, gồm
giới tài chánh kinh tế kỹ nghệ cùng giới lãnh đạo chính trị.
Người phản đối cũng rất đông gồm đủ mọi thành phần trong
đại chúng. Thế nên, cùng bạn đọc tìm hiểu trào lưu toàn cầu hóa là chủ đề của
Truyền Thông số 9.
Thái Công Tụng đơn giản câu truyện toàn cầu hóa để bạn đọc dễ bề theo dõi vấn đề gai góc
này trên môi trường truyền thông.
Bùi Xuân Quang trình bầy vấn đề toàn cầu hóa bằng cái nhìn qua những trận đầu bóng rổ quốc
tế.
Diễm Uyên cho thấy mức độ giầu nghèo càng ngày càng thêm cách biệt.
Bích Ngọc mô tả sự bất đồng trên mặt văn hóa trong trào lưu toàn cầu hóa.
Song song với vấn đề toàn cầu hóa là vấn đề khu vực hoá. Trào lưu này đã tạo
nên thị trường chung Mỹ Châu gồm Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Mễ tây Cơ, v.v… Bên trời
Âu có khối Thị Trường Chung Âu Châu gồm 15 nước kể cả nhiều quốc gia mới thoát
khỏi ách Xã Hội Chủ Nghĩa. Tại Đông Á có trào lưu lập khu vực thị trường chung
theo trục Đông Kinh và Canberra.
Phạm Hữu Trác cho thấy những triển vọng của vần đề này. Sau hết, cũng trong vấn đề khu vực
hóa,
Lê Phụng trình bầy câu hỏi Đạo Khổng sẽ còn tồn tại hay không trong trào lưu toàn cầu
hóa và giải phóng cá nhân hiện thời.
Do tính cách cấp bách của thời gian và giới hạn bưu chính, Truyền Thông chỉ
phỏng dịch bài thứ nhất trong loạt bài về Bóng rổ trên hành tinh của Bùi Xuân
Quang, phần này do Từ Uyên phụ trách.
Truyền Thông ước mong được cùng bạn đọc bàn về vị thế của Việt Nam trong
trào lưu toàn cầu hóa trong một số tới.
Nghiên cứu của Thái Công Tụng về toàn cầu hóa
1.
Dẫn nhập về toàn cầu hoá:
Vài ví dụ sơ khởi:
- Khi ta xem các trận đấu hockey, ví
dụ giữa đội Canadien ở Montreal và New York Islander, ta thấy các cầu thủ của mỗi đội đến từ mọi xứ, từ Nga, từ Tiệp, từ Đức,
từ Phần Lan và mỗi năm lại thay đổi mua bán
cầu thủ. Điều này cũng đúng với
baseball, với bóng rổ, với bóng tròn v.v.
- Nghe tin tức quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh, TV5 của Pháp, thì hình ảnh
một sự cố nào đó mới xảy ra vài phút trước đó ở một nơi xa xăm trên hành tinh
Trái Đất thì trên màn truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra ngay, vừa hình ảnh,
vừa tiếng nói.
- Nhìn bảng hối suất ta thấy nhiều đồng tiền có thể hoán chuyển dễ dàng; đặc
biệt Âu châu có Euro là đơn vị tiền tệ cho rất nhiều xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc
kia đi du lịch từ Pháp qua Đức, qua Ý, qua Espagne lại phải thay đổi đồng tiền
sang Mark, sang lire, sang peseta ..
- bệnh SARS (viêm phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các xứ Đông Nam
Á và qua Canada do sự lưu thông hành khách máy bay rất nhanh chóng
- hàng năm, có chùng 250 ngàn người di dân đủ mọi chủng tộc, màu da, tôn
giáo đến xứ này, đến hợp pháp! Có thể nói mọi xứ từ A (A như Angola), đến Z (Z
như Zimbawe) đều có người ở đất nước Canada, khiến xã hội Canada càng ngày càng
trở thành đa văn hoá. Vài ví dụ trên đã
cho ta "hương vị" thế nào là toàn cầu hoá . Toàn cầu hoá có nhiều ý
nghĩa khác nhau với nhiều người . Toàn cầu
hoá không phải giản đơn là sự di chuyển dễ dàng hàng hoá, công việc và vốn liếng qua các biên giới
nhưng còn bao gồm cả những hợp phần văn hoá,
môi trường và chính trị.
2. Tiến trình của
toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80, nhưng thực sự đã
có từ lâu đời với Magellan, với Marco Polo, với thương mãi các xứ quanh bờ biển
Địa Trung Hải, với con đường tơ lụa buôn bán giữa các xứ Trung Đông, Cận Đông
và Trung Hoa. Việt Nam đã buôn bán với Nhật qua thành phố Hội An. Các nước Anh,
Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm kiếm thị trường buôn bán. Chiến tranh nha phiến
Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuôc phiện. Đến năm 1930 xảy ra cơn suy trầm kinh
tế rất lớn, nên nhiều nước như Mỹ chủ trương bảo hộ thương mãi. Chỉ sau đệ nhị
thế chiến, các nước bắt đầu nhận thấy phải tăng cường hợp tác thương mại trong
khu vực: các nước Âu Châu bắt đầu với Cộng đồng than đá và thép (Communauté
charbon et acier), sau đó tiến đến Cộng đồng Âu
châu 6 xứ (Pháp, Đức, Ý và 3 nước Benelux tức Belgique, Netherlands và
Luxembourg), và ngày nay, sau mấy thập
niên xây dựng, nhiều nước khác đua nhau gõ cửa xin vào. Ngày nay có tiền tệ chung EURO, mọi hàng rào thuế quan giữa
các nước không còn nữa, không còn các trạm
biên giới kiểm soát giấy tờ. Chỉ kiểm soát giấy tờ ở trạm đến đầu tiên mà thôi
. Ví dụ tới Amsterdam ở Hà Lan là trạm
xuống đầu tiên ở Âu Châu, kiểm soát xong là có thể tiếp tục đi thoải mái khắp các xứ khác thuộc Liên Hiệp Âu
Châu. Hàng hoá và người tự do lưu thông.
Bằng cấp đại học: bác sĩ tốt nghiệp ở Pháp có thể qua Espagne hành nghề;
kỹ sư ở Đức có thể qua Ý làm việc,
không có chuyện tương đương bằng cấp, hành nghề v.v. Tiến trình thành lập Liên hiệp Âu châu như vậy đã phải trãi qua
nhiều giai đoạn gay go, nhất là khi ta biết các nước đó đã xâu xé nhau, thù hằn nhau qua hai cuộc
đại chiến. Hãy tóm tắt sơ qua "rốt mép" (road map) họ đã trãi qua:
a. Thoạt đầu là các thoả thuận ưu đãi thuế quan: hàng rào quan thuế giữa các nước tham dự thấp hơn so với các nước
không tham dự.
b. Sau đó tiến đến khu vực mậu dịch tự do (zône de libre échange, free trade area) xoá bỏ
các cản trở thương mãi giữa các nước
thành viên;
c. Thứ đến là liên minh thuế quan (union douanière) xoá bỏ
thuế quan giữa các nước thành viên, hài
hoà giữa các nước thành viên và chính sách thương mại.
d. Rồi mới đến thị trường chung (marché commun) có tự do
lưu chuyển lao động và vốn giữa các nước,
e. Sau đó tiến đến liên minh kinh tế, thống nhất tiền
tệ thành EURO, với quốc hội Âu châu và hiến pháp Âu châu. Ngoài Cộng đồng Âu châu, hiện
nay, các xứ Phi Châu cũng có ý định tiến đến mô hình tương tự, nhưng gặp nhiều
vấp váp vì chia rẽ. Các nước Đông Nam Á họp lại thành tổ chức ASEAN bao gồm 10
xứ Đông Nam Á (Việt, Miên, Lào, Thái, Philippines, Malaysia, Brunei,
Indonesia, Myanmar (tức Miến Điện),
Singapore. Tiến trình toàn cầu hoá đã được thúc đẩy thêm mạnh mẽ như hiện nay là nhờ cách mạng Internet, đi
vào mọi nhà, vùng sâu, vùng xa, vùng sa mạc,
vùng Phi châu với thông tin, hình ảnh, báo chí, buôn bán, trao tình,
trao duyên, làm bạn với nhau qua mạng lưới
dẫn đến hôn nhân liên lục địa rồi chúc Tết qua hình, đọc báo qua mạng, trực tuyến (on-line). v.v. đều trở thành sự
thực ảo ("réalité vituelle") . Sau đây ta chỉ tập trung vào 3 hợp phần quan trọng của toàn cầu hoá:
toàn cầu hoá kinh tế, toàn cầu hoá môi trường và toàn cầu hoá văn hoá.
3. Toàn cầu hoá kinh tế.
Nói về toàn cầu hoá về kinh tế, là phải đề cập đến thương mãi. Thương mãi
là một phạm vi có nhiều tác động nhất trên sự phát triển các nước và trong khối
ASEAN, có khu mậu dịch tự do, được biết dưới danh từ AFTA (Asian Free Trade
Area). Còn Bắc Mỹ cũng có NAFTA (North America Free Trade Area). Mậu dịch tự
do, có nghĩa là giúp các hàng hoá tự do lưu thông giữa nước này với nước kia, cắt
giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi quan thuế v.v. Cũng trong tinh thần trao
đổi thương mại, hiệp định thương mại Việt-Mỹ gần đây nhằm giảm bỏ mức quan thuế
nhập cảng, cho phép các công ty Mỹ buôn bán và dịch vụ như bảo hiểm, bảo vệ tác
quyền và sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. (Tuy vậy, tại
các nước Á Châu, hiện tượng sang diã băng lậu tràn lan, lấy sở hữu trí tuệ, bán
giá rẽ; các tác quyền từ nhạc vàng, nhạc đỏ, nhạc thiếu nhi, nhạc trẻ, phim
truyện, hoạt hình đều bị mất mau chóng !) Phi thương bất phú. Nếu thương
mãi gia tăng giữa các nước, kéo theo sự thịnh vượng chung thì toàn cầu hoá giúp
giảm bớt khoảng cách giàu và nghèo, các nước kỹ nghệ phía Bắc và các nước đang
phát triển phía Nam . Toàn cầu hoá về kinh tế
bao hàm các khái niệm sau đây : cạnh
tranh, lợi thế so sánh, thị trường, tự do mậu dịch.
a/ Cạnh tranh:
Toàn cầu hoá đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về phẩm chất (chất lượng); các xí nghiệp phải
có mặt hàng rẽ, bền, đẹp mới cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Nhưng sản
phẩm sản xuất ra lại có một thị trường rộng lớn ở khắp toàn cầu, giúp tăng lợi
nhuận, làm đầu tàu kinh tế kéo theo các lãnh vực khác; thực vậy, thị trường
trong xứ thì nhỏ hẹp, không nhiều người tiêu thụ. Ngược lại, người tiêu thụ cũng
mua sắm thoải mái vì hàng hoá nhập cảng rẽ, do mức quan thuế giảm .
Thực vậy, trưóc kia, các nước để bảo hộ sản xuất trong nước nên đánh thuế nặng
vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng với
các hiệp định tự do thương mãi, mọi mặt hàng đều từ từ giảm thuế xuống hết (0-5%). Do đó, vào luồng trong
sự gia nhập thương mãi quốc tế đòi hỏi phải có
các sản phẩm nhiều, phẩm chất (chất lượng);
tốt, giá rẽ mới cạnh tranh được với các hàng xứ
khác.
Nhận xét này hàm nghĩa các doanh nghiệp mọi xứ trên thế giới phải giảm chi
phí và nâng hiệu suất, hoặc phải liên kết
với các tập đoàn sản xuất lớn, tăng khả năng tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi. Nhiều xí nghiệp các nước tổ chức sản xuất
linh kiện chỗ nào rẽ nhất, hiệu năng nhất:
– trong xe hơi ta lái hàng ngày, có thể động cơ sản xuất bên Nhật, bánh xe ở
Mexico, ráp cuối cùng tại Mỹ. Máy điện
toán thì bộ nhớ "chip" chế ở Singapore, các linh kiện khác chế ở Mexico, ráp cuối cùng ở Mỹ v.v.
– máy bay Airbus tuy ráp ở Toulouse nhưng cánh máy bay do Anh vẽ kiểu và chế
tạo, thân máy bay do Pháp, đuôi máy bay thì Espagne, động cơ do Đức chế tạo, và
bộ phận thắng và đáp họ muốn Canada sản xuất .
Như vậy, riêng Việt Nam, để vào luồng toàn cầu hoá về kinh tế, cũng phải
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng sản
xuất trong nước mới xuất cảng được. Nó đòi hỏi những công nghệ mới, kỹ năng mới, quản lý hiện đại giúp sản xuất
có hiệu qủa hơn, tạo sản phẩm có phẩm chất (chất
lượng); hơn. Mà
hiện nay thì các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam, từ đường đến súc sản, từ giấy
đến xi-măng đều có chi phí sản xuất cao so
với các nước quanh vùng do giá biểu năng lượng, giá biểu bưu chính viễn thông,
giá thuê đất đai, chi phí vận tải đều cao, rồi đến cơ sở hạ tầng tồi tệ với kẹt
xe, ách tắc giao thông, đó là chưa kể đến tiêu cực phí làm tăng giá thành và
các ngân hàng cho vay các xí nghiệp làm
ăn kém bị quịt nợ.
b/
Thị trường:
Toàn cầu hoá về kinh tế chỉ biết thị trường nghĩa là hai loại người : người
sản xuất và người tiêu thụ (không phân biệt chủng tộc, giới tính ), chỉ biết
hai chữ Cung và Cầu. Cung nhiều, cầu ít thì giá cả giảm; cung ít, cầu nhiều thì
giá tăng. Các công ty chỉ biết lợi nhuận trên hết, với cổ phần, cổ phiếu bán tự
do ai mua vào cũng được, ai bán ra cũng được. Mọi dịch vụ ngân hàng phụ thuộc
vào truyền thông mà truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ hẽm nhờ máy vi
tính, nhờ truyền hình, nhờ truyền tin, sử dụng máy vi tính để mua, bán, chuyển
ngân ..với Web, với e-commerce
c/ Lợi thế so
sánh:
Ngày nay, không thể có và cũng không nên có một nền kinh tế tự cung, tự cấp
cho mỗi xứ mà trái lại phải tìm trong xứ đó các lợi thế so sánh, xem mình có ưu
điểm ở đâu, ưu điểm thế nào và nhất là khai thác cái ưu điểm ấy ra sao ?
Ví dụ: Canada có nguồn nước vô tận, sản xuất điện rẽ nhất. Mexique cũng như các hải
đảo miền Caraibes có mặt trời và nắng ấm
và đó là một lợi thế so vói Canada, mùa đông dài hun hút nên kỹ nghệ du lịch và dịch vụ rất phát
triển; riêng Việt Nam thì giá nhân công rẽ nên cần có các kỹ nghệ tận dụng nhân công như may mặc,
giày dép .. Không xứ nào độc lập về kinh tế
được hết vì không xứ nào có đủ nguyên liệu để sản xuất sản phẩm. Máy bay
sản xuất ở Canada hay ở Mỹ phải có nhôm mà
nhôm phải lấy ở các xứ nhiệt đới. Chicoutimi có nhiều nhà máy sản xuất nhôm vì điện năng Quebec dồi dào,
nhưng quặng bauxit phải lấy từ Jamaica, Haiti,
..Tương tự đồng dùng trong các giây điện là xuất xứ từ các mỏ bên Chili,
Congo v.v. Chiều hướng toàn cầu hoá là sự
phân công lao động trên bình diện quốc tế, sự hội nhập càng ngày càng cao của các nền kinh tế:
Tuy nhiên, toàn cầu hoá về kinh tế không phải luôn luôn êm đẹp như trên và
không phải sự vận hành luôn luôn tuân theo cơ chế thị trường.
Ví dụ: cá ba sa trước kia Việt Nam xuất cảng qua Mỹ rất
nhiều; gần đây, hiệp hội nuôi một loại cá tương tự ở Mississipi Hoa Kỳ kiện lên
Bộ Thương Mại là cạnh tranh bất chính, cho rằng giá cá ba sa Việt bán dưới giá
thị trường nên Mỹ tăng thuế nhập cảng loại cá này 64%, nên không ai nhập cảng nữa.
Chính sách tiền tệ cũng tác động đến toàn cầu hoá về kinh tế. Hiện nay, đồng
đô la Mỹ trượt giá so với đồng Euro làm
các kinh tế Âu châu khó hồi phục vì xuất cảng hàng trở nên đắt.
Như vậy toàn cầu hoá bao hàm sự tương tác. Nó vùa là một cơ may, vừa là một
rủi ro. Toàn cầu hoá, tự do thương mãi cũng có những hạn chế của nó. Nhiều cuộc biểu
tình khi có các hội nghị thương mãi, các
phiên họp G8 thường xảy ra chống chủ trương toàn cầu hoá, bao gồm nhiều dạng: nghiệp đoàn chống vì sợ công nhân các xứ
tiền tiến thất nghiệp, các tổ chức môi trường
chống vì sợ phá rừng nhiệt đới, cũng có các nhóm tranh đấu cho các nước
thứ ba được xoá nợ v.v.
Các vấn nạn toàn cầu hoá là gì?
- chỉ một thiểu số biết buôn bán làm ăn, móc nối mới giàu còn đa số vẫn nghèo: ở Phi Luật Tân, chỉ
một thiểu số người Hoa là giàu; bên Kenya,
thiểu số người Pakistan vô cùng giàu có, Sierra Leone thì thiểu số dân
Liban nắm toàn quyền tài chính, Nga thì
thiểu số Do Thái rất giàu, dân đen rất nghèo .. (xem World On Fire của
giáo sư Amy Chua, Đại học Yale ). Như vậy,
sự cách biệt quá đáng giàu nghèo giữa một thiểu số sắc tộc và một đa số bản xứ sẽ đưa đến hận
thù và chỉ chờ một ngọn lửa nhỏ, một ngòi nổ nhỏ sẽ làm bùng nổ xã hội với khủng bố, nội chiến
v.v.
- nhiều nước chậm phát triển bị nợ nần rất nhiều của các định chế quốc tế
nên phải nai lưng ra trả nợ nên không ngoi đầu lên được. Họ tranh đấu để giảm nợ
nần.
- thương mãi không cân bằng: mỗi năm, các nước chậm phát triển phải
nhập cảng phân bón, thuốc men với giá cao hơn, nhưng bán nông phẩm như gạo, như
cà phê với giá rẽ hơn. Như những trận mưa rào đôla nông nghiệp, các nước phát
triển nghĩa là thuộc Organisation for Economic Co-operation and Development (OCDE:Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla mỗi năm
cho nông dân để họ sản xuất thực phẩm với giá phải chăng và để họ có mức sống
tương đương mức sống ở thành thị. Trợ cấp dưới nhiều hình thức như cho vay lãi
xuất rẽ, bớt thuế, khảo cứu nông nghiệp v.v. Nhật Bản và Đại Hàn trợ cấp cho
nông dân rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1 đôla gạo sản xuất ra trong nước thì phải
trợ cấp 80 cents cho nông dân. Sữa do nông dân Thụy Sĩ sản xuất ra cũng được trợ
cấp tương tự. Pháp, Mỹ v.v. đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các nước này thặng
dư lương thực, thặng dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu ăn, thặng dư lúa mì, đậu
nành, bắp .. , nên họ phải bán rẽ hay cho không các nước thế giới Phi châu.
Nông dân Phi Châu phải ra thành thị, tạo thêm thất nghiệp và kéo theo bất ổn
chính trị. Các nước chậm mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất cảng lương thực cho các nước
Tây phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ no. Ví dụ: Việt Nam xuất cảng gạo
nhưng các vùng xa, vùng sâu là địa bàn cư trú người sắc tộc miền núi non còn
chưa đủ no. Ấn Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng gần 260 triệu dân còn bấp bênh lương thực (tạp chí Le
Courriersố 197 Mars/Avril 2003). Như vậy, chính
sách thương mãi trong toàn cầu hoá phải tăng cường công bằng xã hội chứ
không nên làm tăng hố cách biệt giàu
nghèo .
4. Toàn cầu hoá và môi trường
Phi nông bất ổn. Năm 1950, Trái Đất có 2,5 tỷ người. Ngày nay, cũng từng
đó diện tích nhưng với tài nguyên suy giảm, Trái Đất phải nuôi 6 tỷ người. Và
tuy tỷ lệ sinh có mòi suy giảm nhưng năm 2050, Trái Đất chứa giữa 7,3 và 10 tỷ (8,9 tỷ theo scénario trung bình) Để nuôi dân đông đảo địa cầu như vậy,
sản xuất lương thực phải tăng vì phi nông bất ổn. Không những phải tăng mà sản
phẩm cũng phải rẽ nữa. Cũng cùng quy luật toàn cầu hoá nghĩa là cạnh tranh,
nông dân phải bón phân nhiều, xịt thuốc diệt cỏ, xịt thuốc trừ sâu sao cho sản
phẩm bán dễ dàng trên thị trường, làm môi trường bị khai thác quá mức, đảo lộn
hệ sinh thái với nitrat chảy vào nước ngầm, cá chết vì ô nhiễm nước, các đàn
ong chết (vì hút nhụy hoa vừa bị xịt thuốc). Các loại thuốc trừ sâu nếu bón
không đúng cách sẽ tiêu diệt sự điều tiết giữa các giống, trừ khử mọi côn trùng
có ích lẫn hại, lắm khi tạo ra giống mới miễn dịch được các loại thuốc bảo vệ
thực vật. Và chỉ chú trọng vào lợi nhuận ngay trước mắt nên hệ sinh thái bị đảo
lộn, kéo theo một loạt hậu qủa về ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước dưới đất, sa mạc
hoá, nạn lũ lụt, chuồi đất.
Vì lợi nhuận, và vì cái "mốt" các nưóc tiền tiến là thích bàn ghế
bằng gỗ nhiệt đới nên nhiều rừng nhiệt đới từ Gabon ở châu Phi sang Indonesia ở
Đông Nam Á qua rừng già Amazon của Brésil bị đốn gỗ để xuất cảng. Không còn rừng
thì dĩ nhiên không còn muông thú nữa vì rừng là nơi trú ẩn muông thú. Không còn
rừng thì mất đa dạng sinh học, mất nhiều gen thực vật, mất ADN vốn là nền tảng
cách mạng xanh ngày nay. Nền nông nghiệp đó, chú trọng vào lợi nhuận, tạo nên,
– như Francois Garczynski đã nói-, những sa mạc theo cả nghĩa đôi của chữ
này: đất đai bị xói mòn và nông dân kéo vào thành thị, tạo thêm các khu nhà ổ
chuột. Nếu không được hạn chế, phá rừng sẽ làm cạn kiệt nguồn nước mặt và nước
ngầm, gây nên lũ lụt v.v.
Người nông dân các nước nghèo thấp cổ bé miệng không chủ động được thị trường
quốc tế trong đó các nhà chế biến, các
hãng buôn nhập cảng có uy quyền thao túng hơn. Các đại công ty Nestlé, Unilever, Dole, United Food có thể
có ảnh hưởng trên các nhà lập pháp nhiều hơn là
nông dân lam lũ .
Nhiều vấn đề môi trường không phải chỉ nằm trong phạm vi một quốc gia
mà có tính cách xuyên biên giới . Vài ví
dụ:
- Sông Nil chảy từ Burundi, rồi Kenya, Soudan trước khi đến Ai cập .
- Sông Mekong chảy từ Vân Nam (Trung Quốc) qua Lào, Miến, Thái, Campuchia mới
đến Việt Nam.. Sông Sesan chảy từ Việt qua Miên. Việt Nam vừa là nước thượng
lưu (sông Sesan, sông Srepok), vừa là nước hạ lưu. Campuchia cũng vậy. Phá rừng
trên thượng nguồn, xây đập trên thượng nguồn một xứ có ảnh hưởng đến kinh tế từ
ngư nghiệp đến nông nghiệp của nhiều xứ nằm trong cùng lưu vực: phù sa bớt đi,
làm đất không được bồi dưỡng. Như vậy, các biến đổi thượng lưu có thể gây ra
tác động lũy tích dồn về phía hệ sinh thái hạ lưu, cả về mặt lợi ích quốc gia
(nước trồng lúa) lẫn nguồn sống địa phương (cá tôm, nước sinh hoạt). Những thách thức môi trưòng xuyên biên giới nhiều và đa dạng: do suy thoái
rừng và lũ lụt do phá rừng đầu nguồn, Thái Lan cấm khai thác gỗ và một tác dụng
của luật cấm khai thác gỗ của Thái Lan là chuyển nạn suy thoái rừng sang các quốc
gia láng giềng Lào, Miến Điện và Campuchia. Các nước này đã tăng mức xuất cảng
gỗ, cả hợp pháp và bất hợp pháp.
Do đó khu vực hoá đòi hỏi cần có các định chế điều hợp, phối trí để quản lý
các thách thức môi trường xuyên biên giới, mục đích tối hậu là để cho tài
nguyên được sử dụng một cách bền vững. Như vậy,
chính sách thương mãi trong toàn cầu hoá phải tăng cường sự bền vững sinh thái
chứ không thể chỉ chú trọng vào lợi nhuận .
5. Toàn cầu hoá và văn hoá.
Toàn cầu hoá đem đến những mặt tích cực và tiêu cực :
- Tích cực vì toàn cầu hoá đưa thông tin đến mọi nhà, thông tin khoa học,
kinh tế, chính trị, và văn hoá giúp con nguời sống gần nhau hơn, hiểu biết nhau
hơn và dễ thông cảm để có hoà bình nhân loại, giúp dân trí cao hơn, làm các dân
tộc hiểu biết nhau hơn, đưa đến cảm thông văn hoá và giúp phá bỏ cường quyền,
dù các nước này thiết lập hàng rào lửa (firewall) trên mạng lưới. Các nưóc chậm
tiến có thể nhờ toàn cầu hoá về thông tin để cải thiện giáo dục, tạo ra một xã
hội học hỏi (learning society), giúp dân trí phát triển nhanh hơn. Toàn cầu hoá
giúp ta có nhãn quan mới, tư tưởng mới, không khư khư buộc lấy mình vào trong,
không còn tư tưởng “ta về ta tắm ao ta, dù trong
dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Toàn cầu hoá đem đến một luồng gió mới trong quản trị với
sự minh bạch, trong suốt, có kế hoạch, có bài bản, trong pháp luật với sự minh
bạch, không tròng tréo, trong giáo dục với sự đào tạo các ngành nghề dịch vụ và
nếu giúp người Việt trong nước bớt quan liêu, bớt tham nhũng, bớt thói vòi vĩnh,
thì đó cũng là điều tốt thôi. Nếu toàn cầu hoá giúp người Việt bớt thói chỉ nói
ba hoa mà không làm, bớt thói chỉ trích và chỉ gây chia rẽ, học vị thì nhiều mà
làm được việc thì ít, bớt thói "anamit" thì đó cũng là điều tốt thôi.
Toàn cầu hoá đưa đến cạnh tranh và như vậy, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ phải
giải thể, kéo theo thất nghiệp; như vậy đặt ra vấn đề tu nghiệp, đào tạo, chuyển
nghề, tóm lại học hỏi liên tục để tự mình tìm được công việc khác .
Với toàn cầu hoá, các hôn nhân xuyên biên giới, xuyên quốc
gia trở nên thường xuyên hơn. Gia đình
Việt Nam ở Mỹ hay Canada có con cái có chồng hay vợ người bản xứ là rất thường. Với
các hôn nhân toàn cầu hoá như trên, nhiều giá trị cổ truyền Đông phương
cũng phai lạt đi: nhiều quan hệ vợ chồng
trở nên bình đẳng, văn hoá trở nên cá nhân hơn, không còn các rắc rối trong quan hệ mẹ chồng-nàng dâu, chị em dâu
như trong các gia đình truyền thống ngày xưa
nhưng ngược lại thì bớt tinh thần đoàn kết trong gia đình so với ngày
trước .
- Tiêu cực vì đem
lại một sự đồng dạng văn hoá: văn hoá tiêu thụ, văn hoá vật chất, văn hoá Mac
(Mac Donald), văn hoá cá nhân, chú trọng bề ngoài mà không chú trọng bề sâu của
tâm hồn. Bản sắc dân tộc bị xói mòn, đe dọa với phim ảnh Tây phương tràn ngập .
Các rạp ciné Pháp thì 70% người khán giả xem phim Mỹ. Ngôn ngữ cũng đầy tiếng
Anh. Internet cũng xài tiếng Anh. Bên Việt Nam thì nhiều người khá giả cho con
em đi học Anh ngữ ngay lúc mẫu giáo! Các tội ác xuyên biên giới như rửa bạc, kinh doanh phụ nữ, buôn bán
ma túy, vũ khí cũng dễ tăng lên .
6. Thế nào là 5 LESS cần tránh trong toàn cầu hoá?
Ruthless: Hiện nay, hố cách biệt giàu/nghèo giữa các nước phát triển và các nước chậm
tiến Phi châu qúa sâu đậm. Hố cách biệt người cùng một nước, nhiều người qúa
giàu, nhiều kẻ qúa nghèo. Do đó cần có phát triển hài hoà sao cho các thành tựu
phát triển kinh tế cũng phải được phân phối đồng đều.
Rootless: Phát triển nhưng phải giữ căn tính, bản sắc văn hoá các dân tộc
Jobless: Phát triển nhưng tạo công ăn việc làm, chứ không phải phát triển với các dự
án không tạo thêm công việc. Điều này cũng hàm nghĩa giáo dục liên tục để đào tạo
nhân công thích nghi với sự thay đổi mau lẹ của thị trường quốc tế .
Futureless: phát triển nhưng phải lo bảo toàn môi trường vì chính môi trường như đất,
nước, rừng phải được sử dụng trong đường
lối phát triển bền vững để cho các thế hệ sau này còn được hưởng dụng. Phải mong rằng thị trường không
phải là tất cả và không thể để tiêu chuẩn lợi
nhuận tối da trên tiền đầu tư mà phá hủy môi trường, lấn chiếm những gì
cho các thế hệ mai sau, tóm lại phát triển
với bộ mặt con người.
Voiceless: phát triển nhưng trong sự trong sáng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng
khiến người dân nào cũng có thể nói mà không sợ bị bắt bớ, giam cầm.
7. Kết luận
Nền kinh tế trong những thế kỷ đến là đổi trao chứ không
phải khai thác và lấn chiếm và sự đổi
trao đó đòi hỏi một tinh thần liên đới và trách nhiệm:
- Liên đới giữa các nước giàu/nghèo, giữa các nước mở
mang/các nước kém mở mang với mục đích là để vực dậy các nước nghèo, thoát khỏi
cùng cực triền miên. Thế giới có 6 tỷ người mà gần 50% chỉ sinh sống với lợi tức
dưới 2 đô la mỗi ngày. Sự phát triển kinh tế phải có tính cách bền vững, không
phát triển trên nợ nần của các thế hệ tương lai
- Trách nhiệm vì
toàn cầu hoá có thể giúp các mặt tiêu cực xã hội lan nhanh hơn, các tổ chức
mafia in bạc giả, rữa tiền, buôn ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em tội ác, khủng
bố do đó mọi xứ có trách nhiệm hợp tác để ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa TRƯỚC
KHI tội phạm xảy ra. Một nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường cần có những
thể chế, quy tác, luật pháp.
Chúng ta sống trên con thuyền, thuyền chìm thì cộng đồng
nhân loại cũng chìm luôn. Con người như vậy phải tập sống bao dung, bao dung với
tôn trọng sự khác biệt văn hoá, màu da, tín ngưỡng nhưng trong một khung cảnh
luật pháp ở đó quyền ăn nói, quyền làm người phải được tôn trọng. Quyền hành dù
là chính trị, văn hoá, truyền thông, tín ngưỡng phải đi đôi với trách nhiệm.
Con người gồm thân và tâm. Của cải vật chất dĩ nhiên là quan trọng nhưng còn có
các giá trị tâm linh không thể mua hay đo bằng tiền bạc. Các đền đài, các di
tích lịch sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ quát không thể đo bằng tiền. Một
khu rừng, một dòng sông có giá trị thẩm mỹ, huyền bí, mơ mộng, tình yêu, thần thoại,
tâm linh, lãng mạn chứ không thể xem như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Nhiều vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như lăng miếu,
đền đài có linh hồn như thơ của Lamartine (Objets inanimés, avez-vous donc une
âme ? ..). Các giá trị
văn hoá phức tạp hơn là các giá trị tài chính. Không thể xem cái gì cũng là mặt
hàng đổi chác buôn bán được. Như vậy, vấn đề có tính cách đa chiều nhưng con người
ngày nay lại thiếu khả năng suy tư một cách đa chiều; khủng hoảng càng phát triển
thì sự suy tư về khủng hoảng lại càng bị bỏ đàng sau. Vấn đề toàn cầu với muôn
mặt, muôn vẻ, dính liền nhau, tương tác với nhau, đa chiều cho nên tiếp cận vấn
đề không thể theo chủ nghĩa rút gọn (réductionnisme) chỉ dựa vào một loạt yếu tố
duy nhất làm vấn đề vốn đa chiều lại bị chia năm xẻ bảy.
Mọi vấn đề liên hệ đến nhau: bệnh dịch
toàn cầu SARS là một ví dụ; khủng bố World Trade Center cũng là một ví dụ khác.
Du lịch sút kém khiến máy bay không ai đi, nhà hàng không ai đến, do đó nhân
viên hàng không bị đuổi và vì máy bay không ai đi nên các hãng sản xuất máy bay
phải sa thải nhân viên, chưa kể kinh tế một xứ nằm phía Nam Canada lại bị trì
trệ vì chiến tranh Trung Đông, và hối xuất đồng đôla Canada tăng, làm xuất cảng
khó khăn hơn v.v Như vậy các vấn nạn không những liên hệ với nhau mà lại có sự
gia tăng những yếu tố bất định không đoán
trước được, chúng phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau với những gián đoạn,
những hỗn loạn, rẽ hướng, như tăng trưởng
các vũ khí nguyên tử tại các xứ Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc Hàn, khủng bố Hồi giáo bảo căn v.v. .. .
Nhưng vấn đề cốt lõi lại chính lại là một vấn đề văn hoá: làm sao cho thế giới không phải là một sân chơi cho
các cầu thủ hạng nặng ( các xứ giàu có) mà là một sân chơi đa dạng trong đó mọi dân tộc tham dự
chia xẻ các khổ đau, các an lạc, các thành qủa,
tạo ra một hiền hoà giữa người và người, một hài hoà giữa người và thiên
nhiên trong một tinh cầu nhỏ bé (Trái Đất)
trong giải Thiên Hà bao la .
No comments:
Post a Comment